Kênh hình là gì

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI KHAI THÁC HIỆU QUẢHÌNH ẢNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA MÔN TỰ NHIÊN-XÃ HỘI LỚP 3 -Th.S Nguyễn Thị Tường Vi [ Đại học Sư phạm Huế] 1. Đặt vấn đề Ở những vùng sâu, vùng xa, việc sử dụng các loại phương tiện trực quan khác nhau trong dạy học còn gặpnhiều khó khăn nên các hình ảnh trong sách giáo khoa [SGK] là phương tiện dạy và học chủ yếu. Để khai thác tốt kiếnthức từ hình ảnh của SGK đòi hỏi giáo viên phải thiết kế hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung của từng hình ảnh,phù hợp với trình độ học sinh mới đem lại hiệu quả cao trong dạy học.So với các môn học, hình ảnh trong SGK môn Tự nhiên và Xã hội của các lớp đầu cấp tiểu học chiếm sốlượng nhiều nhất và chúng đóng vai trò là nguồn cung cấp thông tin quan trọng. Vì vậy, phương pháp quan sát, hỏi đáplà phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn. Phần lớn giáo viên dạy lớp 3 ở các địa phương đều sử dụng các hình ảnh trong SGK và một số đồ dùng trựcquan khác trong dạy học môn Tự nhiên-Xã hội. Tuy nhiên, việc sử dụng hình ảnh của họ còn có nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này.Một mặt, giáo viên chưa nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng củaviệc rèn các kỹ năng quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi và diễn đạt những hiểu biết của mình về hiện tượngtự nhiên-xã hội thông qua việc khai thác nội dung kiến thức từ hình ảnh. Mặt khác, ở vùng sâu, vùng xa, phần lớn họcsinh là con em dân tộc thiểu số, ý thức học tập chưa cao, khả năng nhận thức của các em còn hạn chế nên nếu hệ thốngcâu hỏi khai thác hình ảnh không tốt sẽ làm các em khó tiếp thu nội dung bài học. Bên cạnh đó, do giáo viên dạy nhiềumôn trong một lớp nên họ thường tự ý giảm thời gian của tiết học môn Tự nhiên-Xã hội để chuyển sang các môn họckhác. Vì vậy, thời gian tổ chức cho học sinh quan sát và đàm thoại trong dạy học môn Tự nhiên-Xã hội không nhiều,giáo viên chủ yếu thuyết trình. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm khai thác hiệu quả hình ảnh chỉ là thủ tục. Thực tế của hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp cho thấy nhiều giáo viên thiết kế tốt hệ thống câu hỏi khai tháchình ảnh đã tạo cho giờ học một không khí nhẹ nhàng, gây được hứng thú học tập của học sinh. Nhờ vậy, các em dễdàng khám phá những kiến thức, từ đó nhớ được lâu bài học. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi nghiên cứu xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm khai thác hiệu quả hìnhảnh SGK, góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học môn Tự nhiên – Xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ bàn đếnlớp 3.2. Quá trình xây dựng và kết quả đạt đượcĐể đảm bảo tính khoa học [ lí luận và thực tiễn], trước khi xây dựng hệ thống câu hỏi khai thác hình ảnh trongSGK môn Tự nhiên-Xã hội lớp 3, chúng tôi xây dựng các nguyên tắc chung. Nội dung của các nguyên tắc chung nàylà hệ thống câu hỏi phải phù hợp với mục đích, nội dung của hình ảnh và trình độ học sinh; phải đi từ quan sát tổngthể đến chi tiết; phải định hướng quan sát và so sánh các đối tượng cùng loại nhằm tìm ra những điểm giống nhau vàkhác nhau; phải tạo được hứng thú học tập và liên hệ thực tế. Ngoài ra, để vận dụng tốt các nguyên tắc chung vào quá trình xây dựng hệ thống câu hỏi, chúng tôi còn chú ýthêm các yêu cầu cho phù hợp với lứa tuổi như số lượng câu hỏi cho mỗi hình ảnh không nên quá 5; câu hỏi ngắngọn, từ ngữ dể hiểu, tránh câu hỏi có nhiều nội dung; tùy theo hình thức tổ chức dạy học để xây dựng câu hỏi cho phùhợp với hoạt động cá nhân, nhóm, lớp; nếu câu hỏi thảo luận nhóm thì nội dung trả lời ngắn gọn vì học sinh lớp 3 viếtcòn chậm; cần có câu hỏi để học sinh rút ra được nội dung bài học.Sau khi xây dựng được hệ thống câu hỏi khai thác hình ảnh trong SGK môn Tự nhiên-Xã hội lớp 3, để giúpgiáo viên sử dụng tốt, chúng tôi đề xuất các bước thực hiện như sau:-Bước 1. Xác định hình thức dạy họcTùy theo nội dung của tranh, trình độ học sinh, điều kiện thời gian mà giáo viên linh hoạt tổ chức dạy học theolớp, nhóm, cá nhân.-Bước 2. Tổ chức quan sát tranh và trả lời câu hỏi Khi tổ chức, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách quan sát tranh và trả lời câu hỏi; giáo viên chuẩn bị cáccâu hỏi phụ để gợi ý cho học sinh khi cần thiết và giáo viên phải chủ động về thời gian và các tình huống xảy ra.-Bước 3. Kết luận và củng cố. Tùy theo trình độ học sinh mà giáo viên có thể cho học sinh rút ra kết luận nội dung bức tranh và một phần nộidung bài học, sau đó giáo viên củng cố lại hoặc giáo viên kết luận và củng cố.-Bước 4. Liên hệ thực tế hoặc mở rộng kiến thức [nếu có]1Tùy nội dung tranh và bài học mà giáo viên có thể đặt câu hỏi liên hệ kiến thức với thực tế và vận dụng kiếnthức vào cuộc sống; hoặc giáo viên có thể cho học sinh nêu câu hỏi thắc mắc và tổ chức giải đáp cả lớp.Để kiểm tra tính khả thi của hệ thống câu hỏi, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng sử dụnghệ thống câu hỏi khai thác hình ảnh trong SGK tại một lớp 3 trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc -thị xã Đông Hà và mộtlớp 3 trường tiểu học Triệu Nguyên - huyện Đakrông với sự cộng tác của thầy Nguyễn Trí Hùng- giáo viên trường tiểuhọc Nguyễn Bá Ngọc -thị xã Đông Hà. Kết quả như sau: với bài “Làng quê và đô thị”, trường Nguyễn Bá Ngọc, hoànthành [loại B] là 0%, hoàn thành tốt [loại A] là 100%. Trường Triệu Nguyên, hoàn thành [loại B] là 9%, hoàn thành tốt[ loại A] là 91%. Bài “An toàn khi đi xe đạp”, trường Nguyễn Bá Ngọc , hoàn thành [loại B] là 0%, hoàn thành tốt [loạiA] là 100%. Trường Triệu Nguyên, hoàn thành [loại B] là 32%, hoàn thành tốt [ loại A] là 68%. Kết quả thực nghiệmđã cho thấy hệ thống câu hỏi có thể áp dụng vào thực tiễn và đưa lại hiệu quả cao.Để giúp giáo viên hiểu rõ hơn về những việc làm trên, chúng tôi đưa ra một ví dụ cụ thểBài 4. Phòng bệnh hô hấp.Cách tiến hành: Giáo viên cho học sinh làm việc theo nhóm đôi, quan sát tranh và trao đổi với nhau về nội dung của các hình 1,2, 3, 4, 5, 6. Đại diện mỗi nhóm chỉ nêu một tranh và các nhóm khác bổ sung . Hình 1và Hình 21.Nam đã nói gì với bạn của mình?2.Nhận xét về cách ăn mặc của Nam và bạn củaNam ?3.Bạn của Nam đã khuyên Nam như thế nào ? Hình 31.Tại sao Nam đi đến bác sĩ để khám bệnh ?2.Bác sĩ nói Nam bị bệnh gì ?3.Nguyên nhân nào làm cho Nam bị bệnh ?4.Nam phải làm gì để chóng khỏi bệnh ?Hình 41.Thầy giáo đang nói gì với các bạn học sinh ? 2.Vì sao thầy khuyên các bạn như vậy ? Hình 51.Quan sát tranh 5, em hiểu thêm điều gì ?Hình 61.Bác sĩ nói bạn bị bệnh gì ? 2.Với bệnh đó, nếu không chữa trị sẽ dẫn đến bệnh gì?Từ việc khai thác nội dung của cả 6 tranh, học sinh sẽ trả lời được các câu hỏi để rút bài học : 1.Nêu các bệnh viêm đường hô hấp ? 2 2.Nguyên nhân gây bệnh đường hô hấp ? 3.Cách đề phòng bệnh đường hô hấp ?3. Kết luậnSử dụng tốt hệ thống câu hỏi khai thác nội dung kiến thức từ hình ảnh của SGK sẽ góp phần nâng cao hiệu quảdạy học, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa khi chúng là phương tiện dạy học trực quan chủ yếu.Kết quả điều tra giáo viên dạy lớp 3 và giáo viên phụ trách chuyên môn, cho thấy việc sử dụng hệ thống câuhỏi khai thác hình ảnh của SGK có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, giúp cho học sinh quan sát theo đúng trọng tâm kiến thức,phù hợp với nhận thức của học sinh; thứ hai, giúp cho học sinh khai thác nội dung hình ảnh một cách đầy đủ và chínhxác; thứ ba, tạo cho học sinh biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề khi quan sát hình ảnh; thứ tư, tạo sự hợp tác giữathầy và trò trong hoạt động dạy - học; thứ năm, rèn luyện kĩ năng sư phạm cho giáo viên; thứ sáu, giúp cho mọi đốitượng học sinh không bị lúng túng khi khai thác nội dung hình ảnh; thứ bảy, giúp cho học sinh làm việc một cách chủđộng và liên tục; thứ tám, giúp đánh giá được kĩ sư phạm của giáo viên; thứ chín, khắc phục được phần nào về sự thiếuthốn đồ dùng dạy học ở các trường vùng sâu, vùng xa; và cuối cùng, giúp cho giáo viên tiến hành giờ dạy nhẹ nhàng,sinh động, hiệu quả giờ học cao hơn.Chính vì vậy, vấn đề nâng cao nhận thức của giáo viên về việc xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi khai tháchình ảnh của SGK là rất cần thiết. Các cấp lãnh đạo cần quan tâm tổ chức nhiều buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên mônđể nâng cao kiến thức, kĩ năng sư phạm này cho giáo viên. Những bài viết sau, chúng tôi sẽ bàn đến các lớp khác.3

PHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại hội nhập và phát triển hiện nay, cả thế giới đều hướng tới một chân trời tri thức mới. Với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, thông tin bùng nổ từng phút. Do vậy, xã hội ngày càng đặt ra những yêu cầu cao hơn cho ngành giáo dục phải đào tạo nên một thế hệ người lao động mới năng động trước những biến đổi của thế giới. Vì vậy muốn đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội thì việc không ngừng đổi mới các hình thức và phương pháp giáo dục là vấn đề luôn được quan tâm. Việc đa dạng hoá các biện pháp và phương tiện dạy học đã trở thành yêu cầu thiết yếu trong dạy học hiện nay. Trong số các phương tiện dạy học thì kênh hình đã được đặc biệt chú ý, nhất là trong dạy học địa lý. Thực tế cho thấy trong khi giảng dạy nếu không có tranh ảnh và hình vẽ giáo viên khó có thể hình thành cho học sinh những biểu tượng khái niệm và khắc sâu nội dung dễ dàng. Trong môn Địa lý luôn có những sự vật, hiện tượng mà các em không thể trực tiếp quan sát được mà phải thông qua các hình ảnh như hình dạng thực của Trái Đất được chụp qua vệ tinh, hoạt động của con người ở nhiều nước khác nhau trên thế giới hay các hiện tượng như động đất, núi lửa,….Do đó hình ảnh nói riêng và kênh hình nói chung có ý nghĩa to lớn không chỉ là nguồn kiến thức mà còn có tác dụng hình thành tri thức, kĩ năng, phát triển tư duy cho học sinh, các hình ảnh sinh động với màu sắc tươi sáng còn có tác dụng hình thành xúc cảm thẩm mĩ cho các em. Ở bậc Tiểu học lớp 1, 2, 3 kiến thức Địa lý được lồng ghép trong sách giáo khoa Tự nhiên - Xã hội nhưng ở lớp 4, 5 môn này đã được tách riêng và có chiều sâu hơn so với các lớp học trước. Nội dung địa lý lớp 5 gồm 2 phần chính là Địa lý Việt Nam và Địa lý Thế giới, cung cấp những kiến thức địa lý cơ bản về Việt Nam và các châu lục. Để mô tả chính xác địa hình và hoạt động đời sống của con người thì việc sử dụng biểu đồ, lược đồ và tranh ảnh là không thể thiếu. Do đó chương trình Địa lý lớp 5 cũng bước đầu hình thành rèn luyện một số kĩ năng sử dụng kênh hình địa lý cho các em. Đối với giờ học Địa lí, nếu là một tiết học tốt sẽ để lại cho tâm hồn trẻ những dấu ấn tốt đẹp, giúp cho trẻ có cách 1nhìn thêm rộng mở, thêm yêu thương con người và đất nước Việt Nam, yêu sự sống trên Trái Đất. Hơn nữa, lớp 5 là năm học bản lề trước khi học sinh bước vào Trung học cơ sở với nhiều kiến thức Địa lý chuyên sâu hơn. Nếu như ngay từ khi học Tiểu học các em có sự nhận thức sai lầm các khái niệm, các mối quan hệ địa lý đơn giản thì quá trình học địa lý trong những năm học tiếp theo có thể gặp phải một số khó khăn nhất định. Như chúng ta đã biết, trẻ em đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi Tiểu học có ấn tượng mạnh với những hình ảnh trực quan sinh động và hấp dẫn. Sách giáo khoa [SGK] Địa lý và Lịch sử 5 cải cách được NXB Giáo dục phát hành từ năm 2006 đã đáp ứng được yêu cầu đưa kênh hình vào giảng dạy. SGK đã cung cấp các bản đồ, lược đồ tiêu biểu, chính xác, những hình ảnh đẹp, sinh động,…cũng có những yêu cầu riêng trong việc sử dụng kênh hình. Tuy nhiên trong Thế kỷ 21 chúng ta được chứng kiến sự bùng nổ thông tin chưa từng thấy, chưa bao giờ việc trao đổi thông tin của con người lại trở nên dễ dàng như vậy, kho kiến thức nhân loại ngày càng được mở rộng đặc biệt với sự hỗ trợ của mạng Internet đang phát triển trên toàn cầu. Như vậy, phải chăng chỉ sử dụng kênh hình đã được giới thiệu trong SGK vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu hiểu biết ngày càng cao của con người. Bên cạnh đó sự phát triển của công nghệ thông tin, máy tính điện tử, máy chiếu cùng nhiều phương tiện dạy học hiện đại khác đang ngày càng phổ biến trong các trường học. Chính những phương tiện kỹ thuật dạy học và sự đa dạng hoá các loại hình thông tin đang mở ra nhiều lối đi mới trong dạy học nói chung và dạy học Địa lý nói riêng. Chúng lại càng hữu ích trong việc đưa các thông tin mới, kênh hình mới, phong phú hơn vào quá trình dạy học. Giáo viên có thể tìm kiếm các thông tin mới hơn, phong phú hơn từ nhiều nguồn khác nhau từ đó đổi mới nội dung và cách thức dạy học tạo sự say mê,hứng thú cho học sinh.Tuy nhiên việc tăng cường và phát triển sử dụng các kênh hình khác nhau cũng là “con dao hai lưỡi” nếu như người giáo viên không biết vận dụng một cách linh hoạt các phương tiện này sẽ gây ra những tác dụng không mong muốn. Ở lứa tuổi Tiểu học, khả năng chú ý của các em còn kém, nếu giáo viên 2sử dụng hình ảnh quá nhiều sẽ làm học sinh mất tập trung vào bài học hoặc nếu giáo viên không biết cách xác định trọng tâm của bài học trong hình ảnh sẽ dẫn đến tình trạng bài giảng lan man, không có trọng tâm, chủ điểm, học sinh không nắm được nội dung chính của bài. Từ những lý do trên chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:“Sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý lớp 5” nhằm nghiên cứu việc sử dụng kênh hình trong giảng dạy Địa lý lớp 5 từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dậy môn học này.2. Lịch sử vấn đề Sử dụng kênh hình địa lý lớp 5 là một đề tài mới. Kênh hình từ lâu đã được sử dụng như một công cụ dạy học địa lý vô cùng hữu ích và nó ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình dạy học môn này. Đã có những nghiên cứu của nhiều nhà giáo dục về việc sử dụng phương tiện trực quan nói chung và kênh hình nói riêng. Tuy nhiên những nghiên cứu này đều dừng lại ở mức độ khái quát chứ chưa đi vào phân tích, nghiên cứu cụ thể về việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5 Tác giả Nguyễn Dược – Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn “Lý luận dạy học địa lý” đã nêu lên vai trò của kênh hình “ Nó không những được coi như phương tiện minh họa cho bài học mà còn có giá trị tương đương với kênh chữ một nguồn thông tin dưới dạng trực quan”. Tuy nhiên vấn đề cụ thể ra sao, phương pháp khai thác như thế nào vẫn chưa được đề cập đến Trong cuốn “Tự nhiên xã hội và phương pháp dạy học tự nhiên xã hội [tập 2]” các tác giả đã khái quát nội dung, mục tiêu chương trình địa lý lớp 4,5 và một số phương pháp dạy học các bài địa lý lớp 4, 5. Trong đó gồm có các phương pháp quan sát tranh ảnh địa lý, phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học các bài địa lý lớp 4, 5; Phương pháp sử dụng số liệu thống kê, biểu đồ. Tuy nhiên các phương pháp này chưa đề cập đến việc mở rộng khai thác kênh hình từ nguồn ngoài SGK Nhìn chung, việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý đã được nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều sách và tài liệu tham khảo khác nhau. Song việc lựa chọn và xây dựng được các kênh hình cần thiết cho mỗi tiết học, đặc biệt là việc cách sử dụng chúng như thế nào, khai thác ra sao để đạt hiệu quả tốt nhất 3chưa được thể hiện đầy đủ, hầu hết các tác giả mới chỉ nói đến một số loại kênh hình và chưa đề cập đến việc sử dụng các loại kênh hình khác nhau cho từng khối lớp. Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào nghiên cứu về việc sử dụng kênhh hình cụ thể cho từng lớp học đặc biệt là lớp 5Kế thừa những thành tựu từ nghiên cứu của các tác giả nói trên và xuất phát từ yêu cầu thực tế thì việc nghiên cứu đề tài “ Sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5” là cần thiết3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài lấy việc sử dụng kênh hình trong giảng dạy môn Địa lý lớp 5 làm đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đối tượng thực nghiệm là học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thụy Vân, Việt Trì, Phú Thọ 3.2. Phạm vi nghiên cứu Kênh hình có rất nhiều nguồn, nhiều cách phân loại khác nhau tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu đề tài khoa học của sinh viên chúng tôi đặc biệt chú trọng nghiên cứu các kênh hình trong SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5, phần Địa lý. Các loại kênh hình chủ yếu được nghiên cứu là : bản đồ; biểu đồ và số liệu thống kê; tranh ảnh có nội dung địa lý. Ngoài ra đề tài cũng mở rộng đối chiếu kênh hình từ các nguồn khác nhau cơ bản là từ mạng Internet3.3. Mục đích nghiên cứu Việc đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề cần thiết đối với mọi môn học, bậc học trong đó sử dụng kênh hình trong giảng dạy Địa lý đang là xu hướng được quan tâm. Trong đề tài này chúng tôi chú trọng nghiên cứu việc sử dụng kênh hình trong môn Địa lý lớp 5. Quan trọng hơn là nghiên cứu cách sử dụng kênh hình khác nhau sao cho có hiệu quả và hợp lý nhất. Trên cơ sở đó xây dựng một số giáo án mẫu và tiến hành thực nghiệm để thấy được giá trị thực tiễn của đề tài nghiên cứu 4. Giả thuyết khoa học Đề tài thiết kế một số bài giảng môn Địa lý lớp 5 nhằm nâng cao hiệu quả học tập và giảng dạy môn học này, đề tài được áp dụng vào thực tế có thể gây hứng thú cho người học, giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu của người học, nâng cao chất lượng dạy và học ở trường Tiểu học.4 5. Đóng góp của đề tài - Đề tài khẳng định tầm quan trọng của kênh hình trong việc giảng dạy môn Địa lý nói chung và môn Địa lý lớp 5 nói riêng.- Đề tài nghiên cứu một số cách cụ thể để tích hợp các kênh hình khác nhau từ đó có sự so sánh đối chiếu và đưa chúng vào bài giảng nhằm nâng cao chất lượng môn học cũng như phát triển tư duy Địa lý cho học sinh. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tổng hợp tài liệu: chúng tôi nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài gồm các tài liệu tâm lí học, giáo dục học, lí luận dạy học, các phường pháp dạy học môn địa lý thông qua nhiều nguồn khác nhau như sách báo, báo cáo khoa học, mạng Internet, đặc biệt là các sách chuyên ngành như SGK, sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Qua nghiên cứu như vậy sẽ kế thừa và phát huy được kết quả của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. Từ đó xác lập được các kênh hình cụ thể và lựa chọn phương pháp khai thác kênh hình nhằm lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng địa lý - Phương pháp thống kê : Chúng tôi thống kê những số liệu thu được chính xác để từ đó phân tích, đánh giá, rút ra kết luận. Cụ thể là bảng điểm của các em tại những lớp được thực nghiệm, việc tiến hành phân tích bảng số liệu này là cơ sở minh chứng tốt nhất cho đề tài - Phương pháp điều tra : đối tượng điều tra là các em học sinh và giáo viên trực tiếp giảng dạy. Thông qua việc xây dựng bảng hỏi đo thái độ và các phiếu khảo sát hiện trạng giúp người nghiên cứu nắm được thực trạng hiện nay của việc sử dụng kênh hình cũng như thái độ của học sinh trong quá trình dạy học7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung đề tài có cấu trúc như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý lớp 5Chương 2: Sử dụng kênh hình trong SGK Địa lý lớp 5.Chương 3: Thực nghiệm sư phạm5PHẦN NỘI DUNGCHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 51. KÊNH HÌNH, VAI TRÒ CỦA KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ1.1. Khái niệm kênh hìnhTheo quan điểm truyền thống của thì “kênh hình” được hiểu là việc sử dụng “hình ảnh” để truyền thông tin từ người phát đến người thu. Trong đó “hình” được hiểu là một loại phương tiện để truyền thông tin, có thể là hình tĩnh [ tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, lược đồ,…] và hình động [ phim, video clip ]. Trong dạy và học địa lý thì đó là quá trình người giáo viên hướng dẫn để học sinh khai thác tri thức từ phương tiện truyền tin chính là tranh ảnh có nội dung địa lý, bản đồ, lược đồ, phim giáo khoa địa lý,… Bên cạnh đó một số tác giả cho rằng kênh hình chính là các phương tiện dạy học trực quan, đó là các vật thật vật tượng trưng và các vật tạo hình được sử dụng để dạy học. N.N. Branxki đã đề cập đến khái niệm “thiết bị dạy học” trong cuốn “ Phương pháp giảng dạy địa lý kinh tế”. Ông cho rằng thiết bị dạy học là những phương tiện trực quan, nó là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự tổ chức và kết quả 6của việc giảng dạy địa lý trong nhà trường. Các thiết bị đó gồm có : phòng địa lý, bản đồ giáo khoa [ xuất bản và xây dựng theo nội dung bài], quả địa cầu địa lý, tranh treo tường, biểu đồ, đồ thị,… Từ khái niệm nêu trên ta thấy kênh hình chính là các phương tiện thiết bị dạy học mang tính trực quan trong quá trình dạy học. Đó là những công cụ được sử dụng nhằm xây dung cho học sinh những biểu tượng về sự vật hiện tượng trên cơ sở đó hình thành những khái niệm địa lý1.2. Phân loại kênh hìnhCó nhiều cách phân loại kênh hình tuy nhiên đa số các tác giả thống nhất phân loại kênh hình thành 3 loại - Các vật thật : động vật , thực vật sống trong môi trường tự nhiên, các khoáng vật, mẫu vật giúp cho học sinh được tiếp xúc với các vật thật từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức, gây hứng thú tìm tòi học tập- Các vật tượng trưng : các loại sơ đồ, lược đồ, bản đồ giáo khoa, biểu đồ, lát cắt địa hình, bảng số liệu thống kê,… Từ đó học sinh thấy được một cách trực quan hóa các sự vật, hiện tượng được biểu diễn dưới dạng khái quát hóa hoặc đơn giản hóa- Các vật tạo hình [ kể cả phương tiện hiện đại ] : tranh ảnh, mô hình, hình vẽ, phim đèn chiếu, băng hình, video clip,.. thay cho các sự vật khó có thể quan sát trực tiếp 1.3. Vai trò của kênh hình trong dạy học Địa lýTrong SGK địa lý thì kênh hình và kênh chữ đều có vai trò quan trọng như nhau, chúng bổ trợ cho nhau, có quan hệ hữu cơ tạo nên sự thống nhất trong nội dung các bài học địa lý. Cụ thể kênh hình có các vai trò sau : - Kênh hình là phương tiện trực quan đối với học sinh để lĩnh hội tri thứcKênh hình dùng trong dạy học địa lý có tính trực quan cao dùng để minh họa cho các sự vật, hiện tượng địa lý. Nhờ vào kênh hình học sinh có các biểu tượng rõ ràng và đúng đắn về các đối tượng địa lý vì chúng trải rộng trong không gian nên học sinh không thể trực tiếp quan sát được mà phải thông qua kênh hình. Xuất phát từ tâm lý học tập ta nhận thấy nếu học sinh tiếp nhận thông tin bằng nhiều giác quan thì mức độ hiểu và ghi nhớ bài sẽ tăng lên rất nhiều. Trước đây hầu hết các phương pháp dạy học cũ chỉ chú trọng vào việc đọc – chép tức là học sinh tiếp thu qua thính giác [nghe] là chính. Theo kết quả thống kê của tác 7giả Đặng Văn Đức trong cuốn “ Lý luận dạy học địa lý” về vai trò của các giác quan trong việc thu nhận và ghi nhớ kiến thưc như sau : trong việc thu nhận kiến thức nếu qua nghe chỉ có thể hiểu 13% trong khi qua nhìn là 83%. Bên cạnh đó nếu chỉ nghe thì khối lượng kiến thức nhớ được là 20%, qua quan sát là 30% nhưng nếu được kết hợp cả nghe và nhìn thì khối lượng kiến thức lên đến 50%. Từ số liệu trên ta thấy vai trò không thể thiếu của các phương tiện trực quan tác động vào thị giác của học sinh sẽ tạo hiệu quả giáo dục cao hơn nhiều so với việc giảng bài thông thường. Do vậy sử dụng kênh hình kết hợp với kênh chữ sẽ giúp cho học sinh hiểu bài nhanh hơn và ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Đặc trưng của môn địa lý chính là kiến thức địa lý trải rộng trong không gian và cũng mang tính trừu tượng cao. Chính vì vậy nếu người dạy chỉ sử dụng kênh chữ để truyền đạt kiến thức địa lý cho học sinh sẽ tạo nên sự nhàm chán, đơn điệu cho tiết học hơn nữa không thể lột tả được bản chất, quy luật của một số hiện tượng, khái niệm trừu tượng. Có những hiện tượng nguy hiểm học sinh không thể trực tiếp quan sát được như động đất, núi lửa, sóng thần thì sự trợ giúp của hình ảnh là không thể thiếu. Hoặc với các hiện tượng hiếm có, khó quan sát được như nhật thực, nguyệt thực, sao băng,… giáo viên không thể dùng lời nói để miêu tả được mà phải dùng phương tiện trực quan. Cụ thể, trong khi giảng bài về nạn động đất, sóng thần ở Nhật Bản nếu giáo viên chỉ dùng lời nói để miêu tả thì học sinh khó có thể hình dung được mức độ tàn phá của thiên tai này như thế nào. Nhưng nếu người dạy biết kết hợp sử dụng kênh hình nhu cho học sinh xem một số đoạn video clip quay tại nơi có thiên tai hoặc hoặc ảnh chụp thì các em sẽ hiểu bài rõ hơn và nhớ bài lâu hơn. Trong nội dung kiến thức địa lý có rất nhiều số liệu về chỉ tiêu kinh tế - xã hội hoặc các diện tích tự nhiên,… những số liệu này rất khó nhớ đối với học sinh. Nhưng nếu những số liệu khô khan cứng nhắc đó được chuyển thành biểu đồ, bảng số liệu để học sinh so sánh, đối chiếu và nhận ra sự chênh lệch từ đó có ấn tượng về các số liệu và ghi nhớ dễ dàng hơn. Như vậy ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng nhất của kênh hình đó là phương tiện trực quan đồng thời cũng là đối tượng học tập của các em 8- Kênh hình là công cụ phục vụ giảng dạy đối với giáo viên Trước đây khi nước ta còn gặp nhiều khó khăn thì bằng nhiệt huyết của mình một số giáo viên đã tự tìm kiếm và sáng tạo ra các kênh hình thủ công. Những sản phẩm từ đơn giản đến đa dạng đều thể hiện được nhiều khía cạnh khác nhau của đối tượng địa lý như hình dáng, cấu trúc, mối liên hệ, các quá trình vận động,… Ngày nay các phương tiện giảng dạy ngày càng đa dạng và chất lượng ngày càng cao, người giáo viên giỏi luôn phải biết cách vận dụng sao cho hiệu quả nhất các phương tiện ấy để truyền đạt tri thức đến học sinh. Ngày nay xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm cũng là một dấu hiệu tích cực trong việc phát huy tác dụng của kênh hình. Nếu như trước đây học sinh chỉ nghe thầy dạy theo hình thức đọc chép thì đó chính là kiểu dạy học lấy thầy làm trung tâm, học sinh thụ động tiếp nhận kiến thức từ giáo viên. Trong một tiết học hiện nay, học sinh có thể chủ động khai thác kiến thức từ kênh hình trong sách giáo khoa từ đó phát triển tư duy, nhận thức của các em. Như vậy kênh hình không chỉ là công cụ phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên mà nó cũng góp phần thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay- Kênh hình là nguồn tri thức mà học sinh cần khai thácKênh hình không chỉ là hình ảnh bên ngoài của sự vật, hiện tượng địa lý mà còn chứa đựng nội dung bên trong của đối tượng, các khái niệm, mối liên hệ nhân quả, các quy luật địa lý,… Như vậy kênh hình chứa đựng tri thức địa lý do đó trong dạy học chúng được dùng làm công cụ để khám phá tri thức. Vì vậy kênh hình cũng được coi như “điểm tựa” cho hoạt động của học sinh nhằm nâng cao khả năng tư duy cho các em. Ví dụ như trong bài tập thực hành giáo viên có thể hướng dẫn học sinh dựa trên cơ sở quan sát và phân tích kênh hình thì các em phải không ngừng tư duy để thực hiện nhiệm vụ học tập. Kênh hình còn là cơ sở quan trọng để học sinh rèn luyện kĩ năng địa lý vì khi khai thác kênh hình các em phải vận dụng tất cả vốn hiểu biết của mình từ đó hình thành một số kĩ năng địa lý nhất định như kĩ năng đọc hiểu bản đồ, kĩ năng phân tích bản đồ, kĩ năng vẽ biểu đồ,… 9Ngoài ra, kênh hình còn có vai trò điều khiển học sinh trong quá trình học tập. Thông qua việc sử dụng kênh hình giáo viên còn giúp học sinh đào sâu tri thức đã học và kích thích hứng thú học tập của học sinh nâng cao năng lực quan sát, phân tích tổng hợp để có thể rút ra kết luận cần thiết. Kênh hình còn tạo ra điều kiện thuận lợi cho giáo viên có thể trình bày bài giảng một cách ngắn gọn, đầy đủ và sâu sắc từ đó điều khiển được quá trình nhận thức của học sinh cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em. Hơn nữa kênh hình còn có tác dụng kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh – đó cũng chính là một trong những mục tiêu quan trọng trong một tiết học của người giáo viên. Nếu như trong bài học giáo viên biết cách tích hợp khéo léo các phương tiện trực quan như tranh ảnh, bản đồ, băng hình,… thì chắc chắn học sinh sẽ có hứng thú hơn nhiều so với một tiết học thông thường. Tóm lại, kênh hình dạy học địa lý có vai trò rất quan trọng, nếu được sử dụng hợp lý sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học địa lý. Có thể tóm tắt vai trò của kênh hình theo sơ đồ sau : Kênh hình- Phương tiện trực quan - Đối tượng học tập- Nguồn tri thứcHướng dẫn của giáo viên1.4. Yêu cầu về các loại kênh hình trong dạy học địa lý Trong dạy học địa lý nói chung thì phương tiện dạy học là một trong những nhân tố quan trọng bên cạnh các nhân tố khác như mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học, hoạt động của giáo viên – học sinh. Các nhân tố này có sự kết hợp chặt chẽ tạo thành một thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng với nhau với nhau để thúc đẩy quá trình dạy học đạt được mục đích nhất định. Vì vậy kênh hình địa lý phải có những yêu cầu nhất định để phù hợp với quá trình dạy và học cũng như với các nhân tố giáo dục khác. Để việc sử dụng kênh hình đạt hiệu quả cao nhất thì kênh hình phải đáp ứng được các yêu cầu sau - Tính sư phạm : kênh hình được sử dụng trong dạy học địa lý phải có tính sư phạm tức là phải giúp học sinh tiếp thu các kiến thức, kĩ năng giúp học sinh 10có thể tư học, tự nghiên cứu và củng cố kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Kênh hình còn giúp giáo viên truyền đạt những kiến thức cơ bản, hình thành biểu tượng, khái niệm địa lý cho học sinh đồng thời thúc đẩy việc sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại. Nhìn chung thì kênh hình được sử dụng phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên và quá trình học của học sinh nên nó nhất thiết phải mang tính giáo dục. - Tính trực quan : khi sử dụng kênh hình giáo viên cần phải đảm bảo rằng mọi học sinh có thể quan sát rõ ràng và đầy đủ. Giáo viên cần có sự chọn lọc ra những kênh hình điển hình, phù hợp với nội dung bài học. Kênh hình chiếm một khối lượng vừa phải, không quá ít cũng không quá nhiều gây bão hòa, nhàm chán cho học sinh. Ngoài ra một người giáo viên có kĩ năng sư phạm tốt còn biết cách lựa chọn thời điểm sử dụng kênh hình hợp lý gây được sự bất ngờ và hứng thú đối với học sinh - Tính khoa học : các hiện tượng địa lý được thể hiện qua kênh hình cần phải phản ánh một cách chân thực các sự vật, hiện tượng thực tế một cách chính xác và khoa học. Bên cạnh đó ngay trong bản thân mỗi phương tiện kênh hình cũng mang tính khoa học tức là nó có nội dung, bố cục và hình thức nhất đinh, chúng thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. - Tính thẩm mỹ : mỗi kênh hình được sử dụng trong dạy học địa lý có màu sắc, đường nét, hình khối,… hài hòa, cân đối chính là đảm bảo tính thẩm mỹ. Những tranh ảnh đẹp, sinh động còn có tác dụng khơi dậy đam mê, hứng thú học tập cho học sinh. - Tính khả dụng: tùy theo điều kiện kinh tế của từng trường, từng địa phương khác nhau mà giáo viên phải biết cách lựa chọn kênh hình sao cho phù hợp. Cụ thể như ở các vùng núi, dân tộc ít người điều kiện khó khăn không thể có các phương tiện dạy học hiện đại thì giáo viên cần tự tìm tòi trong thực tế hoặc tự mình sáng tạo ra những phương tiện dạy học sao cho phù hợp mà vẫn đảm bảo nội dung cần thiết. Ở các trường có cơ sở vật chất hiện đại hơn thì giáo viên phải tìm cách nghiên cứu, tận dụng tối đa các phương tiện dạy học ấy trong quá trình giảng dạy. Ngoài ra việc lựa chọn kênh hình cũng rất quan trọng, giáo 11viên không thể sử dụng những vật cồng kềnh, khó mang theo và dụng cụ dạy học có thể dễ dàng sử dụng trong trường hợp cần thiết 2. ĐẶC ĐIỂM SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5 2.1. Mục tiêu dạy học các bài học địa lý lớp 5Trong chương trình môn Lịch sử và địa lý lớp 4, 5 gồm các nội dung liên quan đến địa lý Việt Nam và địa lý thế giới có mối liên hệ chặt chẽ với nhau cùng hướng đến một mục tiêu chung nhằm giúp học sinh : - Về kiến thức : học sinh nhận biết được một số đặc điểm khái quát về tự nhiên, dân cư và hoạt động của con người ở các miền địa hình của nước ta, các châu lục và một số nước trên thế giới. - Về kĩ năng : bước đầu vận dụng được một số kĩ năng cơ bản về bản đồ [ hiểu bản đồ, đọc tên, địa danh một số đối tượng,…] và tranh ảnh địa lý - Về thái độ : quan tâm đến một số vấn đề về tự nhiên, dân cư, hoạt động kinh tế và môi trường đang đặt ra cho đất nước, thế giới và một số nước.2.2. Nội dung các bài học địa lý lớp 5Hệ thống bài giảng địa lý lớp 5 gồm có 29 bài trong đó có 16 bài địa lý Việt Nam và 13 bài địa lý thế giới. Theo phân phối chương trình thì tổng số tiết là 35 trong đó có 29 tiết học bài mới và 6 tiết ôn tập kiểm tra. Cụ thể nội dung chương trình địa lý lớp 5 gồm các bài sau : Phần 1 : Địa lý Việt NamBài 1: Việt Nam – đất nước chúng ta Bài 2: Địa hình và khoáng sản Bài 3: Khí hậu Bài 4: Sông ngòi Bài 5: Vùng biển nước ta Bài 6: Đất và rừng Bài 7: Ôn tập Bài 8: Dân số nước ta Bài 9: Các dân tộc và sự phân bố dân cư Bài 10: Nông nghiệpBài 11: Lâm nghiệp và thủy sản Bài 12: Công nghiệp Bài 13: Công nghiệp [ tiếp theo ] Bài 14: Giao thông vận tải Bài 15: Thương mại và du lịch Bài 16: Ôn tập Phần 2 : Địa lý thế giớiBài 17: Châu Á 12Bài 18: Châu Á [ tiếp theo ] Bài 19: Các nước láng giềng của Việt Nam Bài 20: Châu Âu Bài 21: Một số nước ở Châu Âu Bài 22: Ôn tập Bài 23: Châu Phi Bài 24: Châu Phi [ tiếp theo] Bài 25: Châu Mĩ Bài 26: Châu Mĩ [ tiếp theo] Bài 27: Châu Đại Dương và châu Nam Cực Bài 28: Các đại dương trên thế giới Bài 29: Ôn tập cuối năm 3. ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ LỨA TUỔI VÀ NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH LỚP 5 3.1. Tâm sinh lý học sinh Tiểu học nói chung Trong tiến trình phát triển, con người qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một đặc tính tâm lý riêng và có cách giáo dục riêng, nhất là trong thời gian còn trẻ. Tuổi tiểu học có lẽ là tuổi an bình so với thời thiếu niên, thời tuổi trẻ, tuổi dậy thì. Khi trẻ bước vào môi trường học tiểu học, chương trình học tập đã bắt đầu mang tính chất hệ thống và thể hiện tính khoa học một cách cơ bản hơn so với chương trình mẫu giáo. Đặc điểm về thể chất của học sinh thấy rằng đây là cơ sở về mặt sinh học rất cần thiết để trẻ bắt đầu bước vào môi trường học tập thật sự. Khi trẻ được 6 tuổi, não bộ đã đạt được 90% so với trọng lượng não khi người đó trưởng thành, lớp chất xám đã bao phủ, trẻ có thể tiến hành hoạt động nhận thức. Với học sinh tiểu học có khả năng phối hợp vận động tay chân một cách thành thục, khéo léo, ở mức độ tinh vi hơnMỗi một lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo, hoạt động này đẩy nhanh sự phát triển tâm lý ở giai đoạn đó. Ở độ tuổi tiểu học, trẻ vẫn còn thích chơi nhưng hoạt động đem lại nhiều ý nghĩa cho sự phát triển tâm lý là hoạt động học tập. Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo thúc đẩy cho sự phát triển tâm lý, trí tuệ của học sinh qua khả năng quan sát và nhận dạng các sự vật trong cuộc sống và trong học tập. Một đặc điểm của học sinh tiểu học là tính đại khái, nhận thức vấn đề một cách sơ sài, bỏ sót chi tiết, dẫn đến việc dễ nhầm lẫn, sai sót trong chữ 13viết, đọc văn bản và sử dụng từ ngữ nhầm ở những chữ gần giống nhau. Từ những lỗ hổng rất nhỏ nếu không chú ý động viên, giải đáp thắc mắc làm các em mất căn bản. Sự chú ý của học sinh dễ bị phân tán do tập trung kém, bị nhiễu bởi tác động mới lạ, trí nhớ tốt, nhưng cách ghi nhớ máy móc theo kiểu học vẹt, nên cần hướng dẫn cách nhớ, không lạm dụng trí nhớ mà hãy để bộ nhớ của các em dung nạp những gì cần thiết. Về mặt tư duy, học sinh Tiểu học có tư duy trực quan, cụ thể nên khi dạy học cần có hình ảnh, âm thanh, vật liệu để học tốt hơn. Đôi khi các em không hình dung được hiện tượng quá sức tưởng tượng của mình, những khái niệm về không gian, thời gian bị hạn chế do lối tư duy cụ thể, mộc mạc. Về nhận thức, tư duy logic phát triển, nhưng tính toán, xếp theo thứ tự nhiều khi hạn chế. Học sinh tiểu học có cảm xúc không ổn định, hay thay đổi, khác với trẻ mẫu giáo, ở độ tuổi này đã biết giải thích nguyên nhân hình thành cảm xúc, tình cảm của mình dù rằng nhiều khi đưa ra lý do thể hiện tình cảm. Học sinh tiểu học còn phát triển tình cảm cấp cao, có những cảm xúc, thái độ trước một điều đúng, điều sai, trước một điều tốt, điều xấu, đồng tình hưởng ứng với điều tốt, có thái độ phê bình, phủ nhận cái sai, cái xấu, những biểu lộ như thế được gọi là tình cảm đạo đức.Với tình cảm trí tuệ, các em thích tìm hiểu, khám phá và đặt câu hỏi với người lớn, đây là đặc tính đã phát triển từ thời mẫu giáo nhưng lúc này câu hỏi tinh tế hơn, lôgic hơn, biết cách đặt câu hỏi cuối cùng để đưa ra câu trả lời cuối cùng, có những câu hỏi nhiều khi rất đáng khen ngợi. Quy tắc chung khi trả lời câu hỏi cho học sinh là cần trả lời chính xác, trung thực bằng ngôn ngữ của trẻ. Học sinh tiểu học còn có tình cảm thẩm mỹ, rất yêu thích cái đẹp, sở hữu cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp.Trong đặc điểm nhân cách, các em hồn nhiên, hướng thiện, đây là thời kỳ rất đẹp, rất an bình, trong sáng. Bắt đầu phát triển phẩm chất ý chí, đi vào học tập đòi hỏi sự cố gắng, sự tranh đua nên trẻ thể hiện ý chí vươn lên dù còn non kém. Tuy nhiên các em có kiên trì không cao, dễ nản chí, bỏ cuộc nửa chừng. Các em chỉ có khả năng tự nhận thức bản thân theo ý kiến của người khác nên đôi khi gặp 14nhiều khó khăn, nếu đứng trước những ý kiến khác biệt hoặc mâu thuẫn giữa những lời nhận xét của những người xung quanh. Từ đây, ta có thể phát hiện ra các em có những nhu cầu tâm lý mà người lớn phải đáp ứng để trẻ được thỏa mãn Trong cuộc sống của các em, có 3 loại hoạt động cơ bản là học, chơi và làm, nhờ vậy giúp cho đời sống tâm lý cân bằng, cuộc sống hài hòa. Nếu chỉ học mà không chơi và làm, sẽ phát triển phiến diện, tâm lý không cân bằng, nghèo nàn về cuộc sống, chính vì thế khi trẻ lớn lên đến độ tuổi thiếu niên, có nhiều tệ nạn đặt ra và trẻ dễ sa ngã. Nếu những hoạt động học, chơi, làm được đáp ứng, các em sẽ nhận thức được bản thân mình cách tích cực hơn, cảm giác rằng mình có giá trị vì vậy lòng tự trọng hình thành. Tự trọng là phẩm chất quý giá của con người, từ tự trọng sẽ dẫn đến tự giác và tự chủ. Nếu những nhu cầu này không được đáp ứng thì em đó sẽ tự ti, học nhiều quá trẻ sẽ cảm thấy mệt mỏi, không hiệu quả, không được chơi, được làm sẽ vụng về, luôn bị phê bình dẫn đến tự ti.3.2. Tâm lý học sinh lớp 5 trong quá trình nhận thức khi học địa lý Kiến thức địa lý thực tế cũng bao gồm những sự vật, hiện tượng quen thuộc trong cuộc sống mà tất cả chúng ta đã được tiếp xúc ngay từ khi còn nhỏ như thời tiết, các loại địa hình đồng bằng, núi cao,… Đối với học sinh lớp 5 thì các em đã bước đầu làm quen với những kiến thức địa lý đại cương được tích hợp trong kiến thức cả hai chủ đề khoa học Tự nhiên và Xã hội từ các lớp 1, 2, 3. Tuy nhiên nội dung địa lý qua các bài tự nhiên – xã hội chủ yếu giúp học sinh nhận biết, thích ứng với các sự vật, hiện tượng địa lý gần gũi với môi trường xung quanh nơi các em đang sống chứ chưa đi vào phân tích, giải thích hiện tượng Đến lớp 4, nội dung các bài học địa lý liên quan đến chương trình địa lý Việt Nam và thế giới được trình bày thành môn học riêng. Chương trình môn địa lý lớp 4 gồm các bài về bản đồ giúp cho học sinh nắm những kiến thức cơ bản về bản đồ và các vấn đề về thiên nhiên, hoạt động sản xuất của con người ở các vùng miền trên khắp đất nước. Như vậy ở lớp 4 các em đã làm quen với cách học địa lý mới, bước đầu hình thành những khái niệm, biểu tượng địa lý cơ bản Ở lớp 5, các em được tiếp tục khai thác sâu hơn các kiến thức địa lý và đi vào giải thích, tìm hiểu các hiện tượng địa lý, phạm vi kiến thức cũng rộng hơn 15nhiều so với lớp học trước. Quá trình nắm kiến thức địa lý của học sinh gồm những giai đoạn sau : - Tri giác Tri giác là quá trình nhận thức cảm tính phản ánh những thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng như: màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị, âm thanh,… Trong nhận thức cảm tính, những thuộc tính bề ngoài của đối tượng địa lý đều được phản ánh. Vì vậy, trong quá trình dạy học địa lý do đặc điểm của các sự vật hiện tượng địa lý không phải lúc nào cũng có thể nhận thức trực tiếp được nên việc sử dụng, khai thác các tranh ảnh, mô hình để hình thành những biểu tượng tưởng tượng cho học sinh là cần thiết.- Hiểu biết Quá trình hiểu biết thể hiện trong việc phát hiện các mối quan hệ khách quan trong việc thấu suốt ý nghĩa của lời nói hay các bài viết, kể cả ý nghĩa của các thuật ngữ địa lý, cũng như các tư tưởng, những ý ẩn bên trong câu chữ. Diễn biến của quá trình hiểu biết gồm có 3 giai đoạn: trước tiên là giai đoạn biết vấn đề, sau đó là giai đoạn hiểu sơ bộ và cuối cùng là một giai đoạn có sự đột biến – sự thông hiểu ý nghĩa của vấn đề bỗng nhiên bật ra. Trong quá trình này, tư duy liên hệ chặt chẽ với các biểu tượng trí nhớ và với ý tưởng tượng sáng tạo. Như vậy ngay từ ban đầu giáo viên phải hình thành biểu tượng địa lý chính xác cho học sinh, một trong những cách nhận thức nhanh nhất là sử dụng kênh hình để hình thành biểu tượng địa lý ban đầu- Ghi nhớ Ghi nhớ là một khâu quan trọng trong quá trình nắm là tái hiện kiến thức. Đó cũng là một trong những tiêu chuẩn được coi là quan trọng trong nhiệm vụ dạy học, biểu hiện ở việc nắm vững kiến thức của học sinh. Trong quá trình học tập ghi nhớ có thể tiến hành dưới nhiều hình thức nhưng hình thức quan trọng nhất là tạo ấn tượng ban đầu. Ấn tượng ban đầu có khuynh hướng ăn sâu vào kí ức đến nỗi nếu như có đúng hay sai có thể ảnh hưởng đến sự ghi nhớ, sự tái hiện kiến thức suốt đời. Nếu trong kí ức ấn tượng ban đầu đúng thì đó là ấn tượng tích cực, còn nếu sai đó là ấn tượng tiêu cực. Một trong những cách gây ấn 16tượng ban đầu chính là sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động vào quá trình mở đầu bài học giúp tạo ấn tượng mạnh trong trí nhớ học sinh - Khái quát hóa và hệ thống hóa kiến thức Khái quát hóa là hoạt động tư duy tách những thuộc tính bản chất chung của các đối tượng để xếp chúng vào cùng một loại, là sự chuyển từ cái đơn nhất sang cái chung. Hệ thống hóa là quá trình hoạt động tư duy, trong đó các đối tượng được xếp vào một hệ thống nhất định theo những nguyên tắc lựa chọn Cách tốt nhất để giúp học sinh nắm vững được kiến thức và ghi nhớ bền vững là giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết hệ thống hóa kiến thức theo nhiều cách khác nhau. Thí dụ : hệ thống hóa bằng cách lập bảng so sánh, bằng cách vẽ sơ đồ cấu trúc,.. 4. TÌNH HÌNH THỰC TẾ SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 5 HIỆN NAYThông qua việc tham khảo ý kiến trên địa bàn Thị xã Phú Thọ và thành phố Việt Trì thì hầu hết giáo viên Tiểu học đều hiểu được những phương hướng đổi mới trong mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục Tiểu học và đều cho rằng việc đổi mới phương pháp dạy học là nhân tố quyết định đến việc nâng cao chất lượng dạy học địa lý. Vì vậy việc tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp dạy học mới là yêu cầu thiết yếu. Đối với môn Địa lý nói riêng và các môn học ở Tiểu học nói chung cũng vậy, vì thế đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới phương pháp dạy học của cả nhà trường và giáo viên. Nhận thức được xu thế đổi mới của phương pháp dạy học hướng vào sử dụng ngày càng nhiều các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại nên công tác bồi dưỡng giáo viên luôn được đề cao. Bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vị thì giáo viên hiện nay còn được đào tạo để sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại như máy vi tính, máy chiếu, soạn giáo án điện tử. Tuy nhiên, ở Tiểu học hiện nay thực trạng giảng dạy là giáo viên dạy học dựa hoàn toàn theo sách giáo khoa. Trong giờ học, giáo viên tóm lược bài giảng dưới dạng kênh chữ, trình bày trên bảng hoặc phát giấy cho học sinh, học sinh học thuộc lòng, phương pháp dạy học chủ yếu là thuyết giảng, đọc chép. Khuynh hướng này phổ biến trong hầu hết các trường Tiểu học hiện nay. Thực tế không phải là 17những giáo viên đó không yêu nghề, không có ý thức tìm ra những phương pháp dạy học mới mà do điều kiện đồ dùng dạy học tại địa phương còn thiếu thốn. Hơn nữa hiện nay học sinh đã quá quen với hình thức dạy học cũ nên việc đổi mới phương pháp dạy học không thể thực hiện trong một sớm một chiều được mà cần có quá trình lâu lài và sự nghiên cứu cụ thể. Một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là sự chủ quan của người dạy và cả người học đối với việc dạy học địa lý ở Tiểu học. Hầu hết ở Tiểu học học sinh chỉ được chú trọng tập trung vào hai môn học chính là toán, văn, vai trò của các môn học khác hầu như đều rất mờ nhạt. Hơn nữa môn địa lý không được tách thành phân môn riêng nên lại càng ít nhận được sự chú ý đầu tư của cả người dạy và người học. Chính vì điều đó hầu hết ở trường Tiểu học hiện nay không có giáo viên chuyên dạy phân môn địa lý mà vẫn là một giáo viên đảm nhiệm việc dạy nhiều môn học. Vì một người phải dạy quá nhiều kiến thức trên nhiều lĩnh vực như vậy nên sự đầu tư chuyên sâu vào một môn phụ là rất ít. Từ những nguyên nhân khách quan nêu trên nên hiện trạng dạy học bộ môn địa lý ở Tiểu học hiện nay hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết của môn học vì vậy việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học là cần thiết. Mặc dù Bộ giáo dục – Đào tạo đã triển khai việc đổi mới dạy học lấy người học làm trung tâm hoặc tăng cường sử dụng phương tiện dạy học hiện đại nhưng việc áp dụng trong thực tế vẫn chưa đạt được hiệu quả cao. Điều đáng khích lệ là bộ phận giáo viên trẻ hầu hết đều có ý thức đổi mới phương pháp dạy học và có trình độ sử dụng phương tiện kĩ thuật ở mức khá. Do những giáo viên trẻ hiện nay được chú trọng đào tạo ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên họ năng động trong giảng dạy, có kiến thức tương đối vững vàng trong lĩnh vực này. Đây cũng là động lực cho việc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học địa lý nói riêng vì trong tương lai họ sẽ là nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục nước nhà. Qua khảo sát thực tế tại một số trường trả lời theo phiếu khảo sát đối với giáo viên được hỏi thì kết quả như sau : 18- Kĩ năng sử dụng kênh hình của giáo viên hiện nay nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu tuy nhiên một số giáo viên cho rằng kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin để khai thác kênh hình cần được bồi dưỡng thêm- Quan niệm về vai trò và sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý : 100% giáo viên cho rằng kênh hình không thể thiếu trong dạy học địa lý, 63% giáo viên dùng kênh hình để khai thác kiến thức, 37% giáo viên dùng kênh hình để minh họa cho bài dạy - Về mức độ sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý : 100% giáo viên thường xuyên sử dụng kênh hình trong bài giảng Đa số giáo viên cho rằng kênh hình phục vụ cho dạy học địa lý hiện nay là tương đối đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu giảng dạy tuy nhiên cũng cần được bổ sung thêm để nâng cao hiệu quả dạy học. Như vậy về trang thiết bị kĩ thuật và tinh thần sử dụng kênh hình trong giảng dạy hiện nay hầu hết đều mang chiều hướng tích cực. Tuy nhiên trong bộ phận học sinh hiện nay thì hầu hết các em đều coi môn địa là môn phụ, việc đầu tư thời gian cho môn học này hầu như rất ít. Các em chủ yếu coi đây là môn đọc chép, chỉ cần học thuộc lòng là đủ, khi gặp phải dạng bài đòi hỏi có tư duy địa lý cũng như kĩ năng sử dụng bản đồ thì các em còn lúng túng, nhiều em không đáp ứng được yêu cầu của giáo viên. 19CHƯƠNG 2:SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5I. HỆ THỐNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÝ LỚP 5 1.1. Bản đồ giáo khoa 1.1.1. Khái niệm bản đồ giáo khoa Tất cả các bản đồ địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội dùng trong nhà trường nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được gọi chung là bản đồ giáo khoa U.C. Bilich và A.C. Vasmut đã định nghĩa “ Bản đồ giáo khoa là những bản đồ sử dụng trong mục đích giáo dục, chúng cần thiết cho việc giảng dạy và học tập ở tất cả các cơ sở giáo dục dưới mọi hình thức, tạo nên một hệ thống giáo dục cho tất cả các tầng lớp dân cư từ học sinh đến việc đào tạo các chuyên gia. Những bản đồ đó cũng được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trước hết là địa lý và lịch sử”Lâm Quang Dốc trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng bản đồ, lược đồ trong sách giáo khoa địa lý phổ thông” đã định nghĩa về bản đồ giáo khoa như sau “ Bản đồ giáo khoa là biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa trên cơ sở toán học, bằng ngôn ngữ bản đồ, phương tiện [đồ họa] phản ánh sự phân bố trạng thái mối liên hệ tương hỗ của khách thể - tương ứng với mục đích nội dung và phương pháp của môn học trên những nguyên tắc chặt chẽ của tổng quát hóa bản đồ, phù hợp với trình độ phát tiển trí óc của lứa tuổi học sinh, có xét đến cả yêu cầu giáo dục thẩm mỹ và vệ sinh học đường”Từ các định nghĩa trên ta thấy bản đồ giáo khoa phục vụ cho ngành giáo dục gồm có giáo dục phổ thông và giáo dục đại học. Nó rất cần cho việc dạy học ở các cấp học, bậc học; không có bản đồ giáo khoa thì không thể dạy học địa lý và lịch sử được. Nhiều nhà khoa học bản đồ cho rằng bản đồ giáo khoa trước hết phải là bản đồ địa lý, là mô hình làm chức năng nhận thức khoa học do đó điểm 20

Video liên quan

Chủ Đề