Khám lớn cần thơ – nhà tù lớn nhất miền tây thuộc quận

ĐẶNG HOÀNG THÁM

Khám Lớn Cần Thơ [địa chỉ hiện nay: số 8, đường Ngô Gia Tự, phường Tân An, quận Ninh Kiều] là nơi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giam giữ nhiều thế hệ chiến sĩ cách mạng ta trong suốt 2 cuộc kháng chiến. Vào các dịp lễ, kỷ niệm, đặc biệt là Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27-7, Di tích lịch sử Khám Lớn Cần Thơ đón đông đảo học sinh, sinh viên, nhân dân đến ôn lại truyền thống, sinh hoạt về nguồn, tưởng nhớ tinh thần chiến đấu bất khuất các thế hệ đi trước đã đấu tranh cho hòa bình, độc lập hôm nay.

Giới trẻ tham quan, tìm hiểu Khám Lớn Cần Thơ. Ảnh: DUY KHÔI

Ngày 28-6-1996, Khám Lớn Cần Thơ được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia và đây là một trong những nội dung được ghi lên bia di tích ở phía trái cổng. Theo tư liệu do Bảo tàng TP Cần Thơ biên soạn, Hạt [tỉnh] Cần Thơ được thành lập năm 1876 và chỉ 10 năm sau [1886] nhà tù có tên là Prison Provinciale ra đời, người dân quen gọi là Khám Lớn Cần Thơ. Khám Lớn Cần Thơ có diện tích 3.762m2, nằm sát khu vực Dinh tỉnh trưởng thời Pháp [nay gần trụ sở UBND TP Cần Thơ]. Sau Hiệp định Genève [1954], đất nước tạm thời chia cắt, Khám lớn Cần Thơ thay tên là Trung tâm Cải huấn dưới sự cai quản của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Ðến ngày 30-4-1975, miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Khám Lớn chấm dứt vai trò sau non 1 thế kỷ [99 năm].

Khám Lớn Cần Thơ có tường dày [cao 3,6m đến 5m, cắm nhiều mảnh chai nhọn] và rào sắt bao bọc, có các vọng gác [cao 6m, có đèn pha chiếu sáng] và ngăn cách với khu dân cư bằng hai con đường [nay là đường Ngô Gia Tự ở mặt tiền và đường Bà Triệu ở bên phải]. Thời Mỹ xâm lược nước ta, Khám Lớn Cần Thơ được chia thành 2 khu, với 21 phòng giam tập thể [có sức chứa khoảng 30 người, nhưng có khi giam hơn trăm người] cùng nhiều xà lim nhỏ dùng để biệt giam. Từ cổng vào, khu giam tù nhân nữ ở phía trái, khu giam tù nhân nam ở phía phải. Ngoài ra, còn có nhà chùa, nhà thờ, nhà bếp, nhà giám thị, nhà hướng nghiệp...

Thời thực dân Pháp đô hộ, nhà cầm quyền dùng nơi này làm nơi cầm tù, tra tấn dã man các chiến sĩ cách mạng, nhân dân tham gia khởi nghĩa ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau... Mỗi phòng giam tập thể chỉ có sức chứa 30-40 người nhưng số tù nhân lên đến 70-80 người. Nhất là sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, địch tung hết lực lượng lùng sục, bắt bớ, trả thù cách mạng và nhân dân ta. Nhiều đảng viên, chiến sĩ, cán bộ lãnh đạo, nhân dân đã bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn Cần Thơ như ông Quản Trọng Hoàng [Bí thư Liên Tỉnh ủy Cần Thơ], ông Lê Văn Nhung [Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ], ông Ngô Hữu Hạnh [Thường vụ Tỉnh ủy Cần Thơ]... Ngay trước cổng Khám Lớn Cần Thơ, lúc 9 giờ 30 phút sáng ngày 4-6-1941, Pháp đã xử bắn ông Lê Văn Nhung và ông Ngô Hữu Hạnh.

Số tù nhân mỗi phòng có khi lên đến 100 người trong thời kỳ đế quốc Mỹ dùng “Luật 10/59” để khủng bố, kềm kẹp nhân dân ta và bắt giam tất cả những ai bị nghi là “Việt Cộng”. Ðối với tù chính trị, địch nhốt riêng ở các phòng biệt giam và tra tấn khốc liệt, nhưng các tù nhân vẫn một lòng giữ tròn khí tiết đến hơi thở cuối cùng... Hiện nay, các khu nhà cũ của Khám Lớn phục dựng một số hình ảnh, mô hình nhân vật bị giam cầm, tra tấn. Nhà trưng bày còn lưu giữ được một số dụng cụ tra tấn, các kỷ vật của các nhà cách mạng bị giam cầm nơi đây, cùng một số tranh ảnh, tư liệu quý.

Phục dựng một dãy nhà giam nam tại Khám Lớn Cần Thơ. Ảnh: DUY KHÔI

Có khá nhiều câu chuyện bi hùng, cảm động xảy ra ở Khám Lớn. Khách đến tham quan sẽ được nghe chuyện sinh con trong tù gửi bạn nuôi. Vào những năm cuối cùng của chiến tranh, bà Lê Thị Thanh [Sáu Thanh] sinh năm 1942 là cán bộ cách mạng, quê Cà Mau, bị địch bắt trên đường đi công tác vào đầu năm 1974. Trong tù, bà Sáu Thanh kết bạn thân thiết như chị em ruột với bà Lê Kim Tiến, chiến sĩ Ban Binh vận Khu 9. Trước khi bị bắt, bà Tiến đã mang thai. Mỗi lần bị tra khảo, bà tìm mọi cách đưa lưng ra đỡ đòn để tránh tổn thương thai nhi. Bà Tiến sinh con trong tù, con bị suy dinh dưỡng nặng, còn bà bị di chứng sau những lần bị tra tấn, thường ho ra máu, xuất huyết... Khổ đến mức các đồng chí, chị em trong tù tìm bắt thằn lằn cho bà Tiến ăn bồi bổ, đến nỗi không còn con nào trên vách nhà ngục. Biết bà khó sống, địch thả về và bà mất sau khi ra tù một tuần. Lúc trong tù, bà Kim Tiến tâm sự gửi gắm, nhờ bà Sáu Thanh nuôi con nếu bà chẳng may có mệnh hệ gì. Bà Sáu Thanh đã hứa và đã thực hiện trọn vẹn lời hứa với người đồng chí, người bạn tù của mình. Bà đặt tên con là Việt Tiến [tên của cha và mẹ ruột ghép lại]. Bà Thanh nuôi dạy, chăm sóc Việt Tiến như con đẻ từ thời bà còn xuân sắc cho đến khi tóc bạc, da mồi, dù hoàn cảnh có lúc vô cùng khó khăn. Bà Sáu Thanh không có chồng con, để dành tất cả tình thương cho con của người đồng chí.

Các hiện vật trưng bày tại di tích Khám Lớn Cần Thơ cho thấy mặc dù bị tra tấn tàn khốc và giam cầm trong điều kiện tồi tệ, các chiến sĩ cách mạng trong tù vẫn có Chi bộ, Ðảng bộ. Từ đó, các tù nhân tổ chức đấu tranh với địch, đoàn kết kiên quyết giữ gìn phẩm chất cách mạng. Có lần các nữ tù chính trị đã tổ chức đánh tên phản bội và chỉ điểm Năm Bia. Những năm 1968-1970 nữ tù chính trị vận động tù thường phạm tổ chức đòi ra sân chơi, cử người đại diện, chuyển quà thăm nuôi, tách tù chính trị với thường phạm… Dần dần các tù nhân chính trị đòi được cấp thuốc, chữa trị cho bệnh nhân, chống chào cờ, chống học tập “chính trị”, cải thiện chế độ ăn uống… Sự bất khuất và lòng yêu nước đó đã cảm hóa nhiều giám thị, lính gác nhà giam và họ tình nguyện thông tin tình hình ở bên ngoài để các nhà cách mạng trong tù đề phòng hoặc có phương án đấu tranh trong nhà giam.

Những câu chuyện bi hùng ở Khám Lớn Cần Thơ vẫn được các thế hệ ngày nay nhắc nhớ, tri ân.

Di tích lịch sử Khám lớn Cần Thơ hiện tọa lạc tại số 08, đường Ngô Gia Tự, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Để phục vụ cho bộ máy cai trị tại Cần Thơ, từ năm 1876 đến năm 1886, thực dân Pháp đã xúc tiến xây dựng nhiều cơ quan, công sở… trong đó có trại giam mang tên “Prison Provinciale”. Trại giam được xây dựng trên diện tích rộng 3.762m2, liền kề Dinh Tỉnh trưởng, đối diện Tòa Hành chánh và biệt lập với khu dân cư, nhân dân thường gọi là Khám lớn Cần Thơ. Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, Khám lớn Cần Thơ được đổi tên thành Trung tâm cải huấn. Nhưng dù được gọi với tên gọi nào chăng nữa thì Khám lớn Cần Thơ thực chất vẫn là địa ngục trần gian - là nơi thực dân, đế quốc giam cầm, đày đọa những chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước của ta.

Nhìn từ phía trước vào cổng Khám có hình vòm, bên trái cổng là dãy nhà giám thị trực, bên phải là văn phòng làm việc và là nơi ở của giám thị trưởng. Chung quanh Khám lớn được bao bọc bởi bức tường cao từ 3,6m đến 5m trên được cắm đầy những mảnh ve chai và dây kẽm gai rào kín. Ở mỗi góc tường là một tháp canh cao 6m có lính gác và đèn pha chiếu sáng về đêm để kiểm soát tù nhân. Bên trong Khám lớn có 21 phòng giam tập thể cùng nhiều phòng biệt giam. Giữa các dãy nhà giam là một sân rộng để tù nhân ra phơi nắng. Trong khoảng sân này thực dân, đế quốc còn cho xây dựng nhà chùa, nhà thờ để tỏ ra tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo của tù nhân. Khoảng năm 1963, hai dãy nhà lầu được xây dựng thêm trên phần sân phía sau nhà chùa, tầng trệt không vách tường - có thời gian được dùng làm nhà hướng nghiệp cho tù nhân…

Sức chứa quy định trong mỗi phòng giam tập thể chỉ khoảng 30 đến 40 người nhưng có lúc số tù nhân lên đến 70 đến 80 người. Nhất là sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, địch điên cuồng dùng mọi thủ đoạn khủng bố, trả thù nhân dân ta. Nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên và quần chúng đã bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám lớn Cần Thơ như đồng chí Quản Trọng Hoàng [Bí thư Liên Tỉnh ủy Cần Thơ], đồng chí Lê Văn Nhung [Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ], đồng chí Ngô Hữu Hạnh [Thường vụ Tỉnh ủy Cần Thơ] cùng nhiều chiến sĩ khác. Ngoài ra, địch còn đưa hàng trăm quần chúng tham gia khởi nghĩa và các đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… về đây giam giữ, tra tấn dã man. Đặc biệt trong thời kỳ đế quốc Mỹ dùng “Luật 10/59” để khủng bố, kềm kẹp nhân dân ta, bắt giam tất cả những người tình nghi là “Việt cộng”, lúc này số tù nhân trong mỗi phòng có khi lên đến hơn 100 người. Nhiều tù nhân không chịu nổi chế độ giam cầm, tra tấn, ăn uống khắc nghiệt đã phải chết dần chết mòn trong nhà lao tối tăm này. Số người còn lại bị nhiễm đủ các bệnh: ghẻ lở, sốt rét, thương hàn, lao phổi… Đối với những tù chính trị thuộc loại đặc biệt địch nhốt riêng ở các phòng biệt giam, bị tra tấn đến bại liệt nhưng vẫn một lòng trung thành với Đảng với dân, giữ tròn khí tiết đến hơi thở cuối cùng.

Mặc dù bị tra tấn cực hình, các đồng chí đảng viên trong tù vẫn có Chi bộ, Đảng bộ, sinh hoạt học tập, tổ chức đấu tranh với địch từng giờ từng phút kiên quyết giữ gìn phẩm chất cách mạng. Có lần chị em nữ tù chính trị đã lợi dụng thời cơ để tổ chức đánh tên Năm Bia [phản bội, chỉ điểm] làm náo động cả khu trại giam. Vào những năm 1968-1970 nữ tù chính trị vận động cả tù thường phạm đấu tranh đòi mở cửa phòng giam để được ra sân chơi, đòi được cử người đại diện, chuyển quà thăm nuôi cho tù nhân, đòi tách tù chính trị với thường phạm… Dần dần các đồng chí tù chính trị đưa các hình thức và yêu sách đấu tranh cao hơn như tuyệt thực, đòi có y tá đến cấp thuốc, chữa trị cho bệnh nhân, chống chào cờ, chống học tập “chính trị”, đòi cải thiện chế độ ăn uống trong nhà tù… Chính tinh thần đấu tranh bất khuất và lòng yêu nước thương dân của những người tù chính trị đã cảm hóa và giáo dục giác ngộ cách mạng được nhiều giám thị, lính gác nhà giam và họ tình nguyện làm cơ sở nội tuyến của ta, thông báo cho các đồng chí tù chính trị biết được tình hình của ta, địch ở bên ngoài để đề phòng hoặc có phương sách đấu tranh với địch trong nhà giam.

Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Khám lớn Cần Thơ trở thành chứng tích khắc sâu bao tội ác không phai mờ của thực dân, đế quốc. Cũng chính nơi đây, biết bao người con ưu tú của quê hương Cần Thơ và các tỉnh lân cận đã ngã xuống để tô điểm cho cuộc sống thanh bình, tự do, hạnh phúc hôm nay, góp phần viết nên trang sử vẻ vang hào hùng của dân tộc.

Để ghi dấu tội ác của thực dân, đế quốc; đồng thời tiếp tục giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường của ông cha ta trong công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau, ngày 28/6/1996 Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành Quyết định số 1460-QĐ/VH xếp hạng Khám lớn Cần Thơ là Di tích lịch sử cấp quốc gia.

Đến tham quan Di tích lịch sử Khám lớn Cần Thơ, chúng ta còn nhìn thấy nhiều hình ảnh, tư liệu, hiện vật có liên quan hoặc gắn liền với từng đồng chí tù binh, tù chính trị đã từng bị giam giữ tại đây. Đặc biệt những hiện vật như mặt gối thêu và bếp dầu tự tạo của đồng chí Phan Thanh Sĩ, các vật dụng mà đồng chí Lê Kim Tiến chuẩn bị cho đứa con thân yêu của mình chào đời trong hoàn cảnh tù ngục, chiếc áo len của các nữ tù chính trị đan tặng đồng chí Nguyễn Thị Huệ, áo bà ba của đồng chí Võ Thị Vốn… Nổi bật giữa gian trưng bày là bức tranh “Ra trường bắn” mô tả cảnh hai chiến sĩ cộng sản Lê Văn Nhung và Ngô Hữu Hạnh hiên ngang ra trường bắn lúc 9 giờ 30 phút, ngày 04/6/1941 của Họa sĩ Tô Dự.

Hiện nay, Di tích lịch sử Khám lớn Cần Thơ là địa điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, luyện tập thể thao của các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt, vào những dịp lễ kỷ niệm của đất nước như Ngày Giải phóng Miền Nam 30/4; Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7… Di tích thu hút đông đảo cán bộ, nhân viên của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và học sinh, sinh viên về nguồn ôn lại truyền thống lịch sử, tri ân các Anh hùng, Liệt sĩ và đồng bào yêu nước đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Video liên quan

Chủ Đề