Không có giáo dục nhân cách không hình thành và phát triển

I. Những khái niệm cơ bản

1. Khái niệm nhân cách

Định nghĩa:

Hiện nay có nhiều định nghĩa về nhân cách nhưng nhìn chung, nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Theo đó, “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.”

Nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ bao hàm những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà là một cấu tạo tâm lý mới. Do đó không phải con người sinh ra đã có nhân cách. Ngoài ra, nhân cách còn quy định bản sắc, cái riêng của cá nhân trong sự thống nhất biện chứng với cái chung, cái phổ biển của cộng đồng mà cá nhân đó là đại biểu. Ví dụ: mỗi sinh viên Việt Nam đều là nhân cách duy nhất với tất cả những đặc điểm riêng biệt của mình, song đều có cái chung của con người Việt Nam là tình yêu làng xóm, yêu quê hương Việt Nam.

Qua những phân tích trên có thể thấy nhân cách có một số đặc điểm sau:

– Tính thống nhất: thống nhất giữa việc nói và việc làm, giữ ý thức và hành động, giữa đức và tài..

– Tính ổn định: nhân cách con người là quá trình hình thành từ từ, nhân cách là tổ hợp các thuộc tính ổn định, tiềm tàng của cá nhân, nó khó hình thành mà cũng khó mất đi.

– Tính tích cực: nhân cách con người là chủ thể của hoạt động và giao lưu các mối quan hệ giữa người này với người khác

– Tính giao lưu: Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao tiếp với những cá nhân khác. Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội; được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều quan trọng là thông qua giao tiếp, con người còn đóng góp các giá trị nhân cách của mình cho người khác, và cho xã hội.

Đó là bốn đặc điểm đối với nhân cách, nó rất quan trọng với đời sống con người.

2. Nhân tố giáo dục

Giáo dục là quá trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của ngời dạy và người học theo hướng tích cực. nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.

Xem thêm: Giáo dục đại học là gì? Mục tiêu, vai trò của giáo dục đại học?

Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ sự tác động của gia đình, nhà trường, xã hội [bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác] đến con người.

Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xe, như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi con người [ giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục lối sống, hành vi].

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài:1900.6568

Giáo dục sự hình thành và phát triển nhân cách con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [344.11 KB, 24 trang ]


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------







NIÊN LUẬN

GIÁO DỤC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN
NHÂN CÁCH CON NGƯỜI



Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Đồng
Sinh viên : Quách Thị Nhâm
Lớp : K46TC- Tâm lý học



Hà Nội, 05 - 2004





2

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài :
Cùng với sự phát triển của xã hội,con người cũng đang tự mình hướng tới
sự hoàn thiện nhân cách của mình.Các mỗi quan hệ như hoạt động,giáo dục, ở
gia đình,nhà trường, xã hội là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết, để giáo dục
cho con người ta lĩnh hội được những tri thức khoa học, để ngày một phát triển
nhân cách con người đến sự hoàn mĩ.Hiện nay giáo dục đang là một vẫn đề quan
trọng cấp bách của các quôc gia trên thế giới.
Ở nước ta hiện nay giáo dục là vấn đề cấp bách và đặt lên hàng đầu và được
xem là vấn đề quốc sách.Tốc độ công nghiệp phát triển cao về kinh tế, văn hoá,
xã hội đang có sự thay đổi rõ nét.Bên cạnh đó còn tồn tại các tệ nạn xã hội,như
các tệ nạn tham nhũng gây ảnh hưởng rất lớn đến chủ nhân tương lai của đất
nước đó là trẻ em.
Trong giáo dục cấp trung học phổ thông,vấn đề giáo dục và phát triển nhân
cách là một vấn đề rất quan trọng, ở lứa tuổi này các em có nhiều thay đổi về
mặt tâm lý và sinh lý nên nhu cầu hoàn thiện nhân cách để thích nghi với xã hội
hoá và có thái độ tích cực hơn trong cuộc sống là cực kỳ quan trọng.
Giáo dục để tạo điều kiện và hướng cho thế hệ trẻ các em dần dần tự hoàn
thiện nhân cách.
Giáo dục không phải chỉ là vấn đề quan trọng đối vơi thế hệ trẻ và ngay cả
đối với người trưởng thành, những người lớn tuổi cũng rất cấp bách và cần thiết
để hình thành và phát triển nhân cách, để hoàn thiên nhân cách con người và để
mỗi con người hoàn thiện nhân cách của mình hơn.
Chính vì lý do đó mà em chọn đề tài

“Giáo dục sự hình thành và phát triển nhân cách con người”.



3
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của đề tài là nêu lên tầm quan trọng,của giáo dục với sự hình
thành và phát triển nhân cách con người, để thực hiện được mục đích đề ra, đề
tài cần phải giải quyết hai nhiệm vụ
Nhằm tìm hiểu một số vấn đề chung về giáo dục sự hình thành và phát
triển nhân cách con người.
Tìm hiểu nhận thức của con người về tầm quan trọng của giáo dục sự
hình thành và phát triển nhân cách con người.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội.
4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Kế hoạch. Đề tài làm từ.15-4 đến 14-5 hoàn thành.
Với thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn qua tham khảo tài
liệu,sách báo...
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Cơ sở lý luận :Dựa trên cơ sở góc độ khoa học tâm lý,chủ nghĩa Mác –
Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh,và những quan điểm của đảng và nhà nước ta về
giáo dục và đào tạo nguần nhân lực cho sự phát triển của đất nước.
Phương phápnghiên cứu chủ yếu.
-Chủ yếu dùng phương pháp quan sát và tự quan sát.
-Phương pháp đọc và nghiên cứu tài liệu,sách báo.
6.Kết cấu :
Bài niên luận gồm 4 phần : phần mở đầu,phần nội dung gồm hai
chương,phần kết luận và khuyến nghị.
Dù đã hết sức cố gắng nỗ lực, nhưng do thời gian viết niên luận hạn

hẹp, tri thức còn nhiều hạn chế, nên khi giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài
em không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế, em rất mong được sự chỉ bảo và
đóng góp chân thành của các thầy cô giáo và các bạn.


Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên : Quách Thị Nhâm


4

PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC VÀ SỰ HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI

Khi nhìn nhận và đánh giá một quốc gia một khu vực nào đó trên
thế giới,về mức độ phát triển cao hay thấp,giàu hay nghèo thì trước hết chúng ta
phải xem xét về nền giáo dục của quốc gia khu vực đó,quả thực vấn đề giáo dục
là một vấn đề rất quan trọng,mà bất cứ một quốc gia nào, khu vực nào trên thế
giới, cũng phải đầu tư và quan tâm hàng đầu.Bởi giáo dục và đào tạo là tạo ra
những đội ngũ tri thức,công nhân,học sinh, giáo dục để tạo điệu kiện cho con
người ngày càng hoàn thiện nhân cách của mình …
Đó chính là nguần nhân lực dồi dào,tạo cho con người có cả ý thức,tri thức,
đạo đức năng lực phẩm chất nhân cách, để bổ sung vào sự nghiệp xây dựng đất
nước ngày càng phát triển hơn,cả về kinh tế,văn hoá,xã hội.

Trải qua hàng nghìn đời vấn đề giáo dục ở Việt Nam ngày càng được phát
triển và được đảng nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Nhất là giáo dục ở vùng
sâu,vùng sa,vùng núi cao và hải đảo những nơi mà nền kinh tế,văn hoá chưa

phát triển, để sao cho mặt bằng dân trí giữa các vùng,các tỉnh thành không có sự
cách biệt quá xa về trình độ văn hoá, đặc biệt trong giai đọan hiện nay,khi nước
ta đang hội nhập kinh tế quốc tế,xây dựng xã hội, xã hội chủ nghĩa ngày càng
giàu đẹp văn minh lịch sự,thì sự nghiệp giáo dục là một vấn đề quan trọng và
được quan tâm hàng đầu,trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá và hiện
đại hóa đât nước,và xây dựng đát nước ngày càng phát triển hơn.
Bên cạnh đào tạo đội ngũ tri thức,công nhân lành nghề,thì cần giáo dục
cái tâm yêu nghề, năng lực đạo đức.Theo ứng sử giữa con người, để con người
từ một cá thể sinh học,trở thành một nhân cách sống trong mỗi con người, bởi
tài và đức phải luân đi đôi với nhau, không tách rời nhau thì mới có thể đem lại
hiệu quả tốt trong công việc và trong giao tiếp ứng sử con người với con người.


5

I. K hái niệm giáo dục,nhân cách,con người :
1/.Khái niệm giáo dục.
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm nào chính thức thống nhất về giáo
dục,con người có những quan điểm giáo dục khác nhau. Ở đây tôi xin đưa ra
một khái niệm, được rút ra từ nhiều quan niệm khác nhau của các nhà khoa học.
“Giáo dục là sự tác động của nhân cách này tới nhân cách khác là sự tác
động của nhà giáo dục tới người được giáo dục,cũng như từ những người được
giáo dục tới nhà giáo dục với nhau”.
Qua khái niệm trên chúng ta thấy nhân cách được hình thành và phát triển
thông qua hệ thống giáo dục khoa học trước đây cũng như hiện nay, trong mỗi
giai đoan lịch sử nhất định,lại có những quan điểm,nhận xét khác nhau về giáo
dục.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX.Cùng với sự suất hiện của chủ nghĩa
Mác - Lênin,muấn xây dựng nền tâm lý học một cách khoa học, đặc biệt là tâm
lý học nhân cách. Điều trước tiên phải dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, [Tài liệu trang 165 tâm lý học nhân cách].
Giáo dục phát triển trên cơ sở phương pháp luận khoa học,tạo điều kiện cho
các nhà giáo dục tiếp thu kế thừa và phát triển những tư tưởng giáo dục tiến bộ
của nhân loại, và điều này làm cho giáo dục phát triển tiến bộ, cùng với
côngcuộc đấu tranh giải phóng con người ra khỏi xiềng xích ách áp bức bóc lột,
của tệ nạn xã hội, nâng cao trình độ văn hoá đạo đức, thẩm mĩ của con người,
qua đó góp phần tổ chức lại xã hội, theo định hướng văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển của nhưng tinh hoa trong giáo dục, có thể nối rằng
yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cach như sau:
Nhân cách không có sẵn mà bằng cách bộc lộ các bản năng nguyên thuỷ
mà nhân cách cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triển trong quá trình
sống, bằng cách giao tiếp, vui chơi,học tập, lao động …Như LêNin đã khẳng
định”cùng với dòng sữa mẹ con người hấp thụ tâm lý, đạo đức xã hội mà nó là
thành viên”. Nhà tâm lý học nổi tiếng A.NLEONCHIEV cũng chỉ ra rằng, nhân


6
cách cụ thể và phát triển theo con đường từ bên ngoài truyền vào nội tâm, từ các
quan hệ với các thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế
hệ trước tạo ra các quan hệ xã hội mà nó gắn bó [ trích trang 196 TL Học đại
cương ].
Học thuyết MÁC- LÊNIN về giáo dục đã chứng minh một cách khoa học
rằng các vấn đề có tính quy luật trong giáo dục như. Sự hình thành cá nhân con
người, tính quy định của kinh tế, xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử của giáo
dục trong tiến trình phát triển xã hội và vai trò của xã hội trong điều kiện xã hội
có giai cấp. Với cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn vững vàng, quan điểm đó đã
được Chủ tịch HỒ CHÍ MINH, Đảng và nhà nước ta áp dụng trong quá trình
giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất nước.
Trong quá trình hình thành nhân cách thì giáo dục hoạt động giao lưu và
tập thể có vai trò quyết định. Có thể đưa ra đây vai trò của giáo dục đối với sự

hình thành và phát triển nhân cách như sau.
Giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường, xã hội bao gồm cả
dạy học và các tác động khác đến con người đó, là theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp thì giáo dục xem như là quá trình tác động đến tư tưởng,
đạo đức, hành vi của con người [ giáo giục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục
lối sống, hành vi].
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục đóng vai trò chủ
đạo như sau.
Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách, vì giáo dục là quá trình tác động có mục đích xác định, hình thành một
mẫu người cụ thể có nhân cách trong xã hội, đáp ứng những yêu cầu của cuộc
sống.
Nhân cách là sản phẩm muộn, thông qua giáo dục thế hệ truớc truyền lại
cho thế hệ sau qua nền văn hoá, xã hội - lịch sử để tạo nhân cách của con người
qua các mặt nội dung giáo dục.


7
Giáo dục đưa con người, đưa thế hệ trẻ” vào vùng phát triển gần” vươn
tới những cái mà thế hệ trẻ sẽ có, tạo cho thế hệ trẻ sự phát triển nhanh, mạnh
hướng về tương lai.
Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi
phối sự hình thành nhân cách, như các yếu tố thể chất, bẩm sinh di truyền không
thể mang lại.
Giáo dục có tầm quan trọng, với yếu tố hoàn cảnh sống, yếu tố xã
hội đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt hạn chế do yêu tố bẩm sinh, như
người bị khuyết tật, do bị bệnh hoặc do hoàn cảnh không thuận lợi.
Giáo dục có thể uấn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, những hành vi lệch
chuẩn về một mặt nào đó do xã hội. So với các chuẩn mực do tác động tự phát
của môi trường sống gây ra và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn

của xã hội.
Với các nhân tố khác giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước
và thúc đẩy giáo dục phát triển, điều đó có giá trị xây dựng nhân cách con người
Việt Nam với tư cách là mục tiêu tác động của sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong thực tiễn giáo dục cũng chứng minh rằng sự phát triển tâm lý của
trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện giáo dục như
gia đình, nhà trường và xã hội nhất là phẩm.
Như vậy giáo dục có vai trò chủ đạo tổ chức quyết định sự hình thành và
phát triển nhân cách hướng dẫn giáo dục cho trẻ sự hình thành và phát triển nhân
cách, giáo dục chính là làm cho con người được ý thức được yêu cầu của tập thể
làm cho họ biết đề ra cho mình những mục tiêu cần phấn đấu trong cuộc sống,
tự bồi dưỡng phẩm chất và năng lực mới cho bản thân, chinh hoạt động của bản
thân con người là đương quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách con người.
2.Khái niệm nhân cách.
Khái miệm nhân cách biểu hiện tính chính thể dải thể cuộc sống.
Ngày nay vấn đề nhân cách được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trong
quá trình phtá triển của các khoa học đặc biệt là các khoa học xã hội, đòi hỏi


8
phải nghiên cứu nhân cách, trong xã hội loài người có quan hệ lẫn nhau, và con
người là trung tâm của các mối quan hệ, vì vậy con người phải được thể hiện
như là một nhân cách.
Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với xây dựng nhân
cách phát triển hài hoà, đó là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp, xây dưng con
người đạo đức trí tuệ, trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nhân cách là một cấu tạo chọn vẹn thuộc loại đặc biệt,nhân cách
không phải là chính thể được chế định theo kiểu di truyền tức lá “người ta sỉnh
không phải là nhân cách người mà người ta phải trở thành một nhân cách”.“

Nhân cách là một sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã hội lịch sử và
của sự tiến hoá cá thể con người” nhân cách là một cấu tạo chuyên biệt của con
người mà không thể rút ra từ hoạt động thích ứng của nó, cũng không thể tự hoạt
động đó mà rút ra ý thức của con người hay nhu cầu.
Hiện nay về mặt tâm lý học ngươiì ta chú ý đến vấn đề sau đây về nhân
cách, bản chất nhân cách,cấu trúc nhân cách các yếu tố hình thành nhân cách,
các cơ chế hình thành nhân cách, các phương pháp nghiên cứu nhân cách, vị
trícủa tâm lý học nhân cách trong hệ thống khoa học khác.
Nhưng ở đây tôi chỉ đề cập đến vấn đề khái niệm nhân cách, hay bản chất
nhân cách trước hết điểm qua một số quan điểm về nhân cách tồn tại quan diểm.
Quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay nói cách
khác là sinh vật hoá bản chất nhân cách.Nhân cách được coi là bản năng tình
dục[ s.freud] là đặc điểm của hinh thể [ krestchmer] …
Bản chất nhân cách là tính con người [ Trường phái nhân văn đại
diện là C:ROGERS, A.MASLOW…Những người ở trường phái này đều quan
tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con người. A.MASLOW cho rằng xã hội
nằm trong bản năng con người,những nhu cầu như giao tiếp,tình yêu kính trọng
đều có tính bản năng …đặc trưng cho giống người, nhân cách là động cơ tự
động điều hành.
[G.ALLPORT.].những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh
vật của con người,phủ nhận bản chất của nhận bản chất xã hội của nhân cách.


9
Nhân cách đồng nghĩa với khái niệm con người, K.K.dlatnov nhân cách
con người có ý thức,còn con người có tâm lý từ khi có ngôn ngữ lao động,quan
điểm này nói về cái chung cái đặc trưng nhất của con người, mà không chú ý
đến đặc cái thù riêng cái riêng của nhân cách.
Nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể
của mõi quan hệ và hoạt động có ý thức [ A.Gkovalev,X.Ikon]hiện nay quan

điểm này được đa số các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá
nhân, cá thể so vơi tập thể xã hội.
Nhân cách được hiểu như là thuộc tính nào đó tạo nên bản chất
nhân cách như thuộc tính ổn định.Các thuộc tính sinh vật, hoặc tính xã hội.
Pbueva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ phẩm chất xã hội của nó.
Nhân cách là tâm thế [ D.N.ZNAdze,là thái độ V.N.Mia XiSev là
phương thức tồn tại của con người trong xã hội,trong điều kiện lịch sử,cụ thể.
Những quan điểm này chỉ chú ý đến các đặc điểm chung nhất của
nhân cách, đó cũng chưa thể hiện được tính toàn diện trong định nghĩa nhân
cách.
Nhân cách cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong môĩ quan hệ
sông của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó.K.Obuchowxki
định nghĩa nhân cách như sau.Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lý
củ con người có tính chất điểu kiện lịch sủ xã hội, ý nghĩa của nó cho phép giải
thích và dự đoán hành động cơ bản của con người [kobuchowxki, lý luận tâm lý
của việc xây dựng và phát triển nhân cách trong cuốn M.1981].
Từ bảy quan niệm nhân cách trên,cho đến nay vẫn chưa có trường
phái nào giải quyết thoả đáng vấn đề bản chất của nhân cách.
Các nhà tâm lý học cho rằng khái niệm nhân cách là phạm trù xã
hội và có bản chất xã hội lịch sử” Nhân cách là ttổ hợp những đặc điểm,những
thuộc tính tâm lý,biểu hiện bản sắc và giá trị của con người”[2].
Như vậy nhân cách là sự tổng hoà, không phải là những đặc điểm
của con người.Mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành

Vài trò của giáo dục?

Giáo dục có những vài trò như sau:

– Giáo dục là công cụ để phát triển chất lượng nguồn nhân lực;

– Giáo dục nâng cao năng suất lao động của cá nhân thông qua tích lũy kiến thức, kỹ năng, thái độ lao động, từ đó sẽ làm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân;

– Giáo dục làm tăng kỹ năng lao động, tăng năng suất và dẫn đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;

– Giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước;

– Giáo dục giúp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài hình thành đội ngũ có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.

Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 13-04-2018

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

1. Một con người đạt tới sự trưởng thành xã hội phải là một con người có nhân cách.

Nhân cách là nhân cách của từng người, trong tính cá thể sinh động của nó, trong sự tự biểu hiện và tự khẳng định chặt lượng phát triển người của nó với tư cách một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Đây là sự phát triển đặc trưng của cái riêng, của từng cái riêng một trong mối liên hệ mật thiết về bản chất với cái chung. Mỗi cái riêng đó là một con người cá thể, cá nhân mà nhân cách của nó phản ánh nhân cách xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Mỗi một cái Tôi nhân cách đều mang dấu ấn của nhân cách xã hội, chịu ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống, truyền thống lịch sử, văn hoá cũng như trình độ và tính chất phát triển của xã hội đương thời. Cái chung của nhân cách xã hội chi phối nhân cách cá nhân thông qua hệ giá trị và chuẩn mực của nó, biểu hiện thành thế giới quan và nhân sinh quan, thành tư tưởng và đạo đức, tình cảm và niềm tin, thành hành vi trong hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng xã hội. Do đó, mỗi cá nhân mang cái tôi nhân cách như một hình ảnh thu nhỏ của nhân cách xã hội. Đời sống hiện thực, hàng ngày của nó diễn ra trong môi trường xã hội, giữa những người khác, trong công việc, trong giao tiếp và ứng xử. Môi trường xã hội, hoạt động của con người và những quan hệ xã hội của nó là những nhân tố trực tiếp nhất tham gia vào sự hình thành và thực hiện nhân cách của mỗi cá nhân. Tính hiện thực này của nhân cách xác định hình thức biểu hiện của nhân cách ở lẽ sống, lối sống và nếp sống. Lẽ sống biểu đạt một quan niệm sống, một thái độ lựa chọn và định hướng giá trị cuộc sống của bản thân, chứa đựng trong đó cả mục đích, động cơ, nhu cầu và lý tưởng xã hội mà cá nhân hướng tới. Nó đo lường trình độ trưởng thành xã hội của cá nhân về mặt nhận thức, lý trí, tình cảm… ý thức và tự ý thức về mình – cải tạo thành bản ngã, hay ý thức về cái tôi cá thể và chủ thể, trước hết được định hình ở lẽ sống. Nó như một triết lý về con người và cuộc sống.

Hồ Chí Minh khái quát triết lý ấy trên hai phương diện của cùng một vấn đề: Sống ở đời và Làm người. Làm người và sống ở đời thì phải chính tâm và thân dân. Với những con người trẻ tuổi mới bước vào đời, lập thân và lập nghiệp, lẽ sống là cả một vấn đề hệ trọng của cuộc đời. Xã hội, trước hết là gia đình, nhà trường, các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và những thế hệ đi trước phải giúp đỡ thế hệ trẻ tự mình tìm thấy câu trả lời đúng và tôi, tôi và đẹp về lẽ sống. Đây thực sự là một định hướng mang ý nghĩa sâu xa về văn hoá, về văn hoá nhân cách.

Xác định đúng đắn về lẽ sống đối với một con người là điểm tựa tinh thần đầu tiên để con người phát triển thành một nhân cách với nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính mình và xã hội.

2. Một năm khởi đầu từ mùa xuân.

Cuộc đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Giáo dục lẽ sống phải bắt đầu từ những năm tháng còn trẻ, còn rất trẻ của cuộc đời. Khoảng thời gian đó là cơ hội thuận lợi nhất đối với nhà giáo dục để giáo dục lẽ sống đối với các công dân tương lai khi mà những va đập của cuộc đời chưa làm cho họ tập nhiễm phải những cái xấu, cái ác, khi mà sự trong sáng của tâm hồn và tình cảm của họ làm cho họ dễ tiếp thụ những giá trị đạo đức, dễ nảy nở nhưng khát vọng trở nên tôn đẹp thông qua những phương thức giáo dục biểu cảm, truyền cảm bởi văn hoá nghệ thuật và những tấm gương sống động về người thực, việc thực ở đời. Có lẽ sống đúng, có lý tưởng sống cao thượng, con người được đặt vào một xu hướng phát triển tích cực về nhân cách, tức là một khả năng nảy nở và hoàn thiện nhân tính, cái mà nhà giáo dục lỗi lạc xô viết trước đây, Xukhômlinxki gọi là “Khả năng dễ giáo dục”.

Cũng vì vậy, sự sai lệch chuẩn mực xã hội về lẽ sống, tức là những lệch lạc về quan niệm sống ở những người trẻ tuổi là một trở ngại căn bản để hình thành nhân cách của họ, đặt họ trước nguy cơ hư hỏng, có khi hỏng cả một cuộc đời. Trong trường hợp này, giáo dục vấp phải không ít những nhọc nhằn, nan giải, mà nếu nhà giáo dục không đủ tài năng, bản lĩnh, cao hơn nữa là không đủ sức mạnh của lòng nhân ái, của tấm lòng và trái tim nhân hậu thì thất bại trong giáo dục nhân cách đối với tuổi trẻ là khó tránh khỏi.

Nếu lẽ sống là tiếng nói lý trí của nhân cách con người thì lối sống là bước chuyển hoá cực kỳ quan trọng từ ý thức lựa chọn mẫu nhân cách của cá nhân, của nhóm và tập thể đến thực hành nhân cách trong đời sống hàng ngày, trong cuộc đời của họ. Trong một lối sống đã hình thành, đã định hình, những cái ổn định và có xu hướng trở nên bền vững thuộc về ý thức, tâm lý, thói quen và nhu cầu, lý trí và tình cảm, nhận thức hành động... như những thuộc tính và phẩm chất cá nhân được bộc lộ ra. Tính hiện thực của nhân cách được thể hiện trong lối sống. Nó như một tập hợp các giá trị, được khảo nghiệm và chứng thực trong hoạt động và hành vi của con người, trong các mối quan hệ con người với nhau, trong những ảnh hưởng qua lại giữa nhân cách này với nhân cách khác. Xây dựng lối sống và đời sống văn hoá tinh thần là tạo ra môi trường văn hoá theo các chuẩn mực giá trị về đạo đức, khoa học, thẩm mỹ để hình thành văn hoá nhân cách của cá nhân cũng như tập thể. Lối sống vừa phản ánh nhân cách vừa đánh giá nhân cách của cá nhân mỗi người.

Văn hoá nhân cách của cá nhân biểu hiện trình độ phát triển nhân cách của cá nhân đó ở mức độ điển hình, trong đó những thuộc tính giá trị của nhân cách đã trở nên ổn định, bền vững. Ý thức về cái đúng [chân], cái tốt [thiện], cái đẹp [mỹ] đã gắn liền với năng lực thực hành lối sống theo những giá trị đó. Nó trở thành xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức. Đó là những nét đẹp thuộc về tư tưởng, tâm hồn, tính cách như sự trung thực, lòng chân thành, tính vị tha, bao dung, sự ân cần chu đáo với con người, thái độ tôn trọng nhân cách con người và coi trọng đạo lý làm người.

Tóm lại, văn hoá nhân cách biểu hiện trình độ phát triển nhân cách thông qua lối sống có văn hoá, là cái đã trở thành lối sống văn hoá, thành chất lượng văn hoá lối sống của cá nhân. Đây là mục tiêu cần đạt tới của giáo dục văn hoá nhân cách đối với con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Người đạt đến văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người không chỉ đạt đến trình độ phát triển của năng lực, của đạo đức và các giá trị, các chuẩn mực xã hội khác của nhân cách, mà còn đạt tới sự phát triển về nhu cầu - những nhu cầu bên

trong thuộc về đời sống văn hoá tinh thần của mình, tự khẳng định mình về tư tưởng, đạo đức, lối sống theo các chuẩn mực giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Người có văn hoá lối sống và văn hoá nhân cách là người có sự phát triển bền vững của văn hoá đạo đức. Văn hoá đạo đức là nền tảng và giá trị cốt lõi nhất tạo nên đặc trưng điển hình và bao trùm cho một nhân cách đã chín muồi.

3. Trong khi nhấn mạnh cả hai mặt đức và tài của nhân cách, Hồ Chí Minh vẫn coi đức là gốc, là quyết định, là hàng đầu chính là vì vậy.

Theo quan niệm đó, người được coi là có nhân cách, trước hết là người có đạo đức, được đánh giá về đạo đức bởi những người khác, bởi dư luận xã hội. Sự đánh giá này tập trung vào lối sống của con người, trong quan hệ với công việc, với những người xung quanh, với cả bản thân mình từ thái độ đến hành vi, ứng xử. Tính ích kỷ, sự vụ lợi mà rộng hơn là cá nhân chủ nghĩa xa lạ với những gì thuộc về nhân cách con người cả trên bình diện đạo đức lẫn bình diện văn hoá. Sống đúng, sống tốt và sống đẹp giữa mọi người, không phải vì mình mà vì người khác, coi lối sống, cách sống đó như một nhu cầu, một sự thoả mãn đạo đức và văn hoá làm người - đó là thước đo giá trị nhân cách trong lối sống. Người mang lối sống ấy sẽ biểu hiện nhân cách của mình bằng cách làm việc hết mình, tận tuy thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, nhất quán giữa lời nói là việc làm - những cái mà ta thường nói, sống có tâm, có tình, có nghĩa. Với cái tâm đó, người ta mới biết đem cái tài ra để giúp ích cho đời, cho người. Vị tha là nét cao quý, đáng nể trọng của đạo làm người. Không nhân ái thì không thể vị tha được. Cũng như vậy, không có lòng vị tha thì không thể khiêm nhường, thành thật, bao dung, độ lượng với người và nghiêm khắc với mình được. Phải có những phẩm chất ấy, con người ta mới có thể đem vào trong nếp sống hàng ngày của mình những biểu hiện của sự quan tâm, ân cần, chu đáo với người khác, tính cẩn thận, nề nếp, tận tâm, tận lực trong mọi công việc lớn, nhỏ vì người khác. Đó là sự hy sinh, sự quên mình, chỉ với một tình cảm thiết tha được sống vì người khác, được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn rộng thêm những niềm vui và hạnh phúc cho người khác, làm vợi đi những khó khăn, vất vả làm dịu đi những nỗi buồn, những đau khổ của người khác, cũng như làm được ngày một nhiều hơn những điều, những việc hữu ích cho cuộc đời.

Là sự cụ thể hoá lối sống, củng cố sự bền vững những giá trị và chuẩn mực của văn hoá lối sống, nếp sống thường ngày của mỗi cá nhân như những chỉ báo xác thực để đo lường mức độ trưởng thành cũng như xu hướng phát triển nhân cách của cá nhân đó. Với những biểu hiện của nếp sống, con người tự bộc lộ mình là người như thế nào, là một nhân cách như thế nào. Qua nếp sống của một con người cụ thể, có thể đánh giá được người ấy đã tự giáo dục mình đến đâu, đã chuyển hoá học vấn thành văn hoá nhân cách của mình đến mức nào.

Từ những điều trình bày trên đây, cần nhấn mạnh rằng, nhân cách và văn hoá, nhân cách liên quan trên toàn bộ chất lượng phát triển con người ảnh hưởng và có sức chi phối sâu xa đến cuộc sống của con người với sự toàn vẹn của chỉnh thể cá nhân, cá thể của nó cũng như sự tác động qua lại giữa nó với những cá nhân, cá thể khác với cộng đồng xã hội mà nó là một phần tử hợp thành, không thể tách rời.

4. Con người mang một bản chất xã hội nhất định; bản chất ấy có cơ sở vật chất - sinh học của nó, bởi con người trước hết là một thực thể sinh vật. Nhân cách của nó không tách rời mà trái lại gắn liền với những cội rễ của di truyền sinh vật mà nó thừa hưởng từ những thế hệ trước để lại. Song, trong sự hình thành bản chất xã hội của từng cá thể, cá nhân thì tính ưu trội và vai trò quyết định lại thuộc về cơ sở xã hội - lịch sử và văn hoá, thuộc về thực thể xã hội. Con người mang bản chất xã hội và hình thành nhân cách của mình tư sự tổng hoà các quan hệ xã hội, từ hoàn cảnh xã hội mà trong đó nó tồn tại, nó thực hiện hoạt động sống của mình. Mác đã vạch ra những luận đề nổi tiếng về những đặc trưng xã hội và qui luật xã hội tác động tới sự hình thành bản chất người, nhân cách người. Đó là:

  • Nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì vấn đề là ở chỗ, phải tạo ra hoàn cảnh có tính người. Đó là nhân tính, là những sức mạnh [lực lượng] bản chất người của con người. Đó là con đường phát triển theo xu hướng nhân đạo hoá hoàn cảnh để hình thành nên nhân cách người.
  • Hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực mà con người tác động cải biến trở lại đối với hoàn cảnh. Con vật là một tồn tại bản năng trong khi con người là một thực thể xã hội có hoạt động sống sáng tạo dựa trên tiền đề tồn tại.
  • Sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ, những quan hệ xã hội của nó. Con người trở thành thực thể và chủ thể xã hội bằng hoạt động của nó từ cá thể đến loài, từ bản chất loài, tộc loại tiến đến bản chất xã hội. Đó là cả lịch sử của nó - lịch sử sáng tạo ra một tự nhiên thứ hai như là sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật của chính mình. Con người sáng tạo ra xã hội con người theo qui luật của cái đẹp. Đó là cái đẹp của văn hoá, của nhân tính.

Điều đó chứng tỏ rằng, con người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá sáng tạo ra con người ở phương diện làm cho con người hoàn thiện, con người mang nhân cách văn hoá mà trong hình thái lý tưởng của nó là sự hài hoà Chân - Thiện - Mỹ. Đây là một tổng hoà các giá trị Nhân bản [thuộc phạm trù khoa học], Nhân đạo [thuộc phạm trù đạo đức] và Nhân văn [thuộc phạm trù văn hoá]. Văn hoá thống nhất trong bản thân nó khoa học và đạo đức.. Nhân văn bao hàm trong nó những giá trị nhân bản và nhân đạo. Đạt đến trình độ phát triển nhân văn là đạt đến văn hoá, đạt đến nhưng thành quả sáng tạo của con người và loài người nhằm thoát mỹ hoá hiện thực.

5. Nhân cách là toàn bộ các giá trị mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó. Những giá trị đó gắn liền với những chức năng và vị thế của con người trong các quan hệ xã hội mà nó biểu hiện ra bằng hoạt động, với tất cả sự phong phú và toàn vẹn của đời sống cá nhân trong môi trường xã hội, trong sự phát triển của cá nhân và xã hội.

Đạo đức cũng như năng lực là những thành phần chủ yếu của cấu trúc nhân cách, nhưng chỉ riêng đạo đức hay năng lực không đủ để xác định một nhân cách. Nói đạo đức là yếu tố quan trọng hàng đầu là gốc, là cái quyết định của nhân cách không có nghĩa là đồng nhất đạo đức với nhân cách, coi nhân cách chỉ là đạo đức. Cần phải khắc phục một quan niệm đơn giản khi lược quy nhân cách vào mặt duy nhất là đạo đức, cũng như đồng nhất học vấn với văn hoá như vẫn thường thấy khi đánh giá sự phát triển của cá nhân về mặt học vấn, học thức. Mặt khác, nếu tách rời đạo đức với năng lực, tuyệt đối hoá đạo đức mà xem nhẹ năng lực, hoặc cho rằng dường như những hạn chế, yếu kém, thiết hụt về năng lực có thể được bù trừ, châm chước bằng phẩm chất đạo đức, thì đó sẽ là một quan niệm không đúng về nhân cách. Ngược lại, đề cao năng lực đến mức coi năng lực là tất cả, chỉ cần rèn luyện năng lực để làm việc, còn đạo đức không có vai trò quyết định... thì quan niệm đó càng sai lệch nhiều hơn. Đó là những biểu hiện khác nhau của cách hiểu phiến diện, siêu hình về nhân cách.

Trên thực tế, đạo đức chi phối và quyết định năng lực, đồng thời đạo đức phải biểu hiện qua năng lực, ở tác dụng và hiệu quả của năng lực trong hoạt động.

Đạo đức và năng lực phải được hình dung cụ thể trong công việc và trong các quan hệ mà con người phải giải quyết và ứng xử hàng ngày, tức là trong những tình huống khác nhau của cuộc sống. Thông qua những công việc và quan hệ đó, con người tỏ rõ mình đã làm được những gì, đã sống như thế nào giữa những người khác, nhờ đó mà nhân cách cá nhân của nó được định bơm và cũng có thể tự đánh giá. Phải thông qua những đánh giá xã hội thì nhân cách cá nhân mới có tính hiện thực. Tính hiện thực đó biểu hiện ở ảnh hưởng và uy tín mà người này có được ở người khác, trong những người khác và ngược lại.

Mỗi cá nhân là một chủ thể mang nhân cách của mình, đồng thời là đối tượng; khách thể được đánh giá về nhân cách bởi một chả thể khác, bởi cộng đồng xã hội.

6. Nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành trong các mối liên hệ xã hội, trong các quan hệ liên nhân cách. Điều đó được thể hiện trước tiên trong giao tiếp văn hoá.

Giao tiếp văn hoá để học cách sống, cách ứng xử văn hoá, tập luyện hành vi, thói quen tốt cho từng cá nhân theo những chuẩn mực và giá trị của văn hoá giao tiếp, văn hoá đối thoại, tranh luận, văn hoá ứng xử. Làm cho từng cá nhân nảy nở và phát triển nhu cầu văn hoá trên những phương diện đó chính là con đường giáo dục văn hoá nhân cách cho họ.

Cảm nhận một cách tinh tế yêu cầu lý, Nêru, nhà hoạt động văn hoá lỗi lạc Ấn Độ nhấn mạnh rằng, “Văn hoá chính là khả năng hiểu biết người khác và làm cho người khác hiểu mình”. Còn viện sĩ Lik- hachốp coi “Văn hoá là biết lắng nghe” và Xukhômlinxki, nhà giáo dục xô viết nổi tiếng, người đã dồn hết tâm huyết và tinh lực cả đời mình cho công việc giáo dục thế hệ trẻ, với tác phẩm vĩ đại “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” lại đặc biệt chú ý tới phẩm chất làm người thông qua giáo dục văn hoá nhân cách. Ông quan niệm “Văn hoá chính là khả năng biết nhìn thấy người bên cạnh”.

Biết lắng nghe, ấy là sự khiêm nhường, là sự tôn trọng con người. Biết nhìn thấy người khác, ấy là sự ân cần, chu đáo, sự thông cảm, chia xẻ với những số phận con người - một biểu hiện cao quí của nhân tính. Mác đã từng nói: chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng tính. Mác đã từng nói: chỉ nói có súc vật mới quay lưng lại với nỗi thống khổ của đồng loại.

Tập luyện, gieo trồng, vun trồng nhân tính là gốc rễ bền bỉ nhất của văn hoá. Nhân tính đó, chính là chiều sâu của sự hiểu biết, sự đồng cảm của con người với con người. Đó cũng là nhu cầu văn hoá đạo đức của mỗi cá nhân trong lao động, hoạt động, trong gian tiếp, ứng xử với những người khác.

Những thuộc tính giá trị cộng đồng và cộng cảm ấy của văn hoá làm người, văn hoá nhân cách tỏ rõ rằng, nhân cách con người không bao giờ độc lập, biệt lập trong cái trạng thái cô đơn, ốc đảo khép kín ở một cá thế. Nó là sự giao hoà giữa nhân cách của nó với những nhân cách ngoài nó, của những con người, những cuộc đời và của cả cộng đồng xã hội nói chung. Nhân cách là một quan hệ liên nhân cách chính là vì thế.

Sự phối hợp đồng bộ các lực lượng giáo dục cũng như sự thống nhất giữa mục tiêu và phương pháp giáo dục trở nên hết sức cần thiết. Nó tạo ra những tác động tích cực cùng chiều tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Muốn vậy, phải khai thác tối đa sức mạnh của giáo đục truyền, thống lịch sử dân tộc, truyền thống cách mạng; kết hợp giáo dục khoa học để rèn luyện phương pháp tư duy sáng tạo và phát triển trí tuệ với giáo dục đạo đức và trau dồi sự tinh tế trong cảm thụ nghệ thuật, nâng cao khiếu thẩm mỹ để làm phong phú thế giới tinh thần của họ. Đó là những lực đẩy cần thiết giúp con người phát triển và hoàn thiện nhân cách. Nó còn cần thiết để thức tỉnh những người đã bị lệch lạc về nhân cách, thậm chí đánh mất nhân cách của mình mà trong hoàn cảnh và ở thời điểm nào đó, họ có thể hoàn lương và hướng thiện.

Vấn đề nhân cách và giáo dục văn hoá nhân cách phải được nhìn nhận là điểm cốt lõi nhất, là chỗ sâu sắc và tinh tế nhất của triết lý giáo dục.

Hoàng Chí Bảo
Phó giáo sư, tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh-Tạp chí Triết học

T.L.H

Video liên quan

Chủ Đề