Ngũ triền cái là gì

  • Trang chủ
  • Từ điển phật học
  • NĂM TRIỀN CÁI

Tìm kiếm theo chữ cái

Tất cả a b c d e f g h i k l m n o p q r s t u x y z

GN - Ai cũng biết, thiền định là cốt tủy của pháp hành trong Phật giáo. Muốn chuyển hóa phiền não, thanh tịnh thân tâm, thăng hoa tuệ giác cần phải thực hành thiền định, tinh chuyên Chỉ và Quán. Để vào sâu thiền định, hành giả phải từng bước chuyển hóa và đoạn trừ năm triền cái [ngũ cái], tức năm món trói buộc và ngăn che: Tham dục, Sân nhuế, Thùy miên, Trạo hối và Nghi. Tâm của chúng ta luôn bị năm triền cái này chi phối, chướng ngại, khiến cho các pháp bất thiện dấy khởi, không thể thành tựu định và tuệ.

Bước đầu hành thiền cần thực hiện điều hòa thân, điều hòa hơi thở. Tiếp theo là an trú chánh niệm, phát huy thiền Chỉ và thiền Quán, thành tựu năm thiền chi [Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm] để lần lượt đoạn trừ năm triền cái.

Năm triền cái có mặt thì “liền có phần súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục”, “các pháp bất thiện

khởi lên” nên người tu cần phải từng bước chuyển hóa và đoạn diệt mới có thể thành tựu định và tuệ


“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ thuyết về bất thiện tụ. Các Thầy nên khéo nghĩ nhớ.

Các Tỳ-kheo đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn!

Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:

- Thế nào gọi là bất thiện tụ? Nghĩa là năm món che đậy [ngũ cái]. Thế nào là năm? Tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, điệu hý cái, nghi cái. Đó gọi là ngũ cái. Muốn biết bất thiện tụ thì đây gọi là ngũ cái. Vì sao thế?

Tỳ-kheo nên biết! Nếu có ngũ cái này, liền có phần súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Các pháp bất thiện đều từ đây khởi lên. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện diệt tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, điệu hý cái, nghi cái. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

[Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 32.Thiện tụ,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.197]

Để chuyển hóa tâm tham muốn về năm trần cảnh [sắc, thanh, hương, vị, xúc], hành giả cần quán sát về tính vô thường, vô ngã của chúng. Bản thân mình có thể chết bất cứ lúc nào, các sự vật và hiện tượng khác cũng liên tục thay đổi. Quán sát về sự nguy hiểm của các dục, nhờ đó mà xả buông, lắng dịu các dục, thành tựu ly tham.

Khi tâm có sân hận, hành giả cần làm lắng dịu hay giập tắt. Rải tâm từ, quán sát về sự nguy hại của sân hận, tư duy cách nào đó để tâm hoan hỷ sinh. Lòng bi mẫn, hoan hỷ và tha thứ phát sinh thì sân hận được chuyển hóa.

Khi hành thiền, nếu mất chánh niệm thì dễ dàng rơi vào hôn trầm thùy miên [buồn ngủ, dã dượi, dật dờ]. Cần điều hòa thân, điều chỉnh tư thế, tăng cường tỉnh giác, chú tâm vào đề mục thì hôn trầm sẽ tan biến. Đức Phật đã chỉ ra 8 cách chuyển hóa hôn trầm cụ thể: “Khi có hôn trầm thì chớ tác ý đến tưởng ấy, tư duy các pháp đã được nghe, tụng đọc, kéo hai lỗ tai và xoa bóp chân tay, đứng dậy lấy nước rửa mặt, tác ý tưởng ánh sáng, đi kinh hành, nằm nghỉ một lát”. 

Trạo cử [điệu hí, trạo hối] là tâm dấy khởi không dừng khiến hành giả không trú niệm vào đề mục. Để lắng dịu trạo cử, hành giả phải tăng cường chú tâm vào đề mục, phát huy chánh niệm cao độ. Duy trì sự chú tâm và chánh niệm thường trực thì trạo cử sẽ lắng yên. Ngoài ra, một lối sống đầy đủ về giới, thiểu dục, tri túc và biết ơn cũng giúp cho hành giả bớt lăn tăn, trạo cử.

Nghi ngờ là tâm lý thường gặp, gây ra sự bất ổn, thiếu quyết định, loạn động. Trong quá trình hành thiền, vì gặp các trở ngại nên có nhiều mối nghi xuất hiện. Nghi ngờ về pháp, về thầy, về bản thân v.v…, nói chung nghi ngờ là do chưa thành tựu Chánh kiến. Hành giả cần phát huy Chánh tư duy và Chánh kiến để nhận ra con đường và đích đến của sự hành thiền. Từ đó mới có thể buông xả tất cả loạn động, nghi ngờ, tin sâu vào sự thực tập.

Thế Tôn đã xác định, năm triền cái có mặt thì “liền có phần súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục”, “các pháp bất thiện khởi lên” nên người tu cần phải từng bước chuyển hóa và đoạn diệt mới có thể thành tựu định và tuệ.

Quảng Tánh

Mục lục bài viết

  • 1. Tham dục [Kamacchanda] là gì ?
  • 2. Oán ghét [Vyapada, sân hận] là gì ?
  • 3. Hôn trầm - Dã dượi [Thina-Middha] là gì ?
  • 4. Phóng dật - Lo âu [Uddhacca-Kukkuca, Trạo hối] là gì ?
  • 5. Hoài nghi [Vicikiccha] là gì ?

Chướng ngại tinh thần, Nivarana [Ni + Var, có nghĩa làm trở ngại, ngăn chận], là cái gì gây trở ngại cho tiến bộ tinh thần của ta, hay cái gì ngăn chận con đường đưa đến giải thoát và những cảnh Trời.

Nivarana cũng có nghĩa là cái gì "bịt trùm, bao kín, hay ngăn trở tư tưởng." Có năm loại chướng ngại tinh thần, hay năm pháp Triền Cái là:

1. Tham dục [Kamacchanda],

2. Oán ghét [Vyapada, Sân hận],

3. Hôn trầm - Dã dượi [Thina-Middha],

4. Phóng dật - Lo âu [Uddhacca-Kukkuca, Trạo hối], và

5. Hoài nghi [Vicikiccha].

1. Tham dục [Kamacchanda] là gì ?

Tham dục: là ham muốn về nhục dục, luyến ái theo ngũ trần [sắc, thinh, hương, vị, xúc]. Tham dục cũng được xem là một trong những thằng thúc, trói buộc chúng sanh vào vòng luân hồi.

Một người ở mức độ trung bình thường xu hướng chạy theo những ham muốn có tánh cách huyền ảo tạm bợ của cơ thể vật chất, nếu không đủ khả năng để kiểm soát và kềm chế thì chắc chắn phải bị sa đọa trong dục vọng. Chướng ngại tinh thần này có thể chế ngự bằng tâm an trụ vào một điểm [ekaggata, nhất điểm tâm], một trong năm chi thiền. Khi đắc Quả Tư Đà Hàm [Sakadagami], hành giả khắc phục được phần lớn, và chỉ hòa toàn chế ngự Tham Dục khi đắc Quả A Na Hàm [Anagami]. Những hình thành vi tế của luyến ái như Rupa Raga, luyến ái theo níu theo những cảnh sắc giới, và Arupa Raga, luyến ái theo vô sắc giới, chỉ được trọn vẹn tiêu trừ khi đắc Quả A La Hán.

Sáu điều kiện sau đây có khuynh hướng tận diệt tham dục:

  1. Nhận thức mối nguy hại của đối tượng,
  2. Kiên trì quán tưởng về những nguy hại ấy,
  3. Thu thúc lục căn,
  4. Ẩm thực độ lượng,
  5. Tạo giới thân cận tốt, và
  6. Luận đàm hữu ích.

2. Oán ghét [Vyapada, sân hận] là gì ?

Oán ghét, hay không bằng lòng, bất toại nguyện: Điều ưa thích dẫn đến luyến ái, còn điều trái với sở thích đưa đến tâm ghét bỏ, không bằng lòng. Luyến ái và ghét bỏ là hai ngọn lửa to lớn, thiêu đốt thế gian. Được sự hỗ trợ của vô minh, cả hai tạo lên những bất hạnh trong đời.

Một yếu tố khác của Thiền [jhana], "Phỉ", có khả năng chế ngự tâm oán ghét. Chướng ngại này được khắc phục phần lớn khi hành giả đắc Quả Tư Đà Hàm, và được trọn vẹn chế ngự khi đắc Quả A Na Hàm.

Sáu điều kiện sau đây có xu hướng tiêu trừ chướng ngại oán ghét:

1. Hay biết, ghi nhận đối tượng với thiện ý,

2. Kiên trì quán tưởng tâm Từ [Metta],

3. Suy nghiệm rằng Nghiệp [kamma] là do chính ta tạo nên,

4. Sống theo quan điểm ấy,

5. Tạo giới thân cận tốt, và

6. Luận đàm hữu ích.

3. Hôn trầm - Dã dượi [Thina-Middha] là gì ?

Thina-Middha, Hôn Trầm - Dã Dượi: Thina, là trạng thái uể oải của tâm vương và Middha, Dã Dượi, là trạng thái uể oải của tâm sở.

Một tâm trạng nhuễ nhoại cũng bất động như một vật vô tri vô giác, như cái nón treo trên cây, như nhựa đeo dính trên khúc gỗ hay một miếng bơ quá đặc cứng không có thể trét ra.

Không nên hiểu Hôn Trầm - Dã Dượi là trạng thái mỏi mệt không muốn cử động, bởi vì chư vị A La Hán, đã tận diệt hai pháp triền cái ấy, đôi khi vẫn còn cảm thấy thân thể mệt mỏi. Hai chướng ngại này đưa đến tâm lười biếng, uể oải, nghịch nghĩa với hạnh tinh tấn, đức kiên trì. Yếu tố "Tầm", một chi khác của Thiền, có thể khắc phục phần lớn, và hoàn toàn chế ngự Hôn Trầm - Dã Dượi khi đắc Quả A La Hán.

Sáu điều kiện sau đây có chiều hướng tiêu trừ hai chướng ngại này:

1. Suy niệm về đối tượng của ẩm thực vô độ lượng,

2. Thay đổi oai nghi, hay tư thế,

3. Quán tưởng đối tượng ánh sáng,

4. Sống ngoài trời,

5. Tạo giới thân cận tốt, và

6. Luận đàm hữu ích.

4. Phóng dật - Lo âu [Uddhacca-Kukkuca, Trạo hối] là gì ?

Phóng Dật: là trạng thái bất ổn, hay chao động, của tâm. Đó là tâm trạng có liên quan đến tất cả những tâm bất thiện. Thông thường, tâm trở nên chao động, hay bất ổn định, khi hành động bất thiện.

Kukkucca, Lo Âu, là hối tiếc một hành động bất thiện đã làm, một một hành động thiện đã bỏ qua không làm, hay làm không được viên mãn. Chính sự ăn năn về một hành động bất thiện không ngăn cản được hậu quả không tốt của nó xẩy ra. Hối tiếc tốt đẹp nhất là quyết tâm không lặp lại hành động bất thiện ấy nữa.

Cả hai pháp triền cái Phóng Dật và Lo Âu này đều có thể khắc phục bằng chi Thiền "Lạc" [sukka]. Hành giả sẽ tận diệt Phóng Dật lúc đắc Quả A La Hán, và Lo Âu, với Đạo Quả A Na Hàm.

Sáu điều kiện sau đây có chiều hướng chế ngự hai tâm trạng ấy:

1. Thông suốt pháp Học,

2. Nghiên cứu học hỏivà thảo luận,

3. Thấu triệt tinh thần của Giới Luật,

4. Thân cận với những vị Tăng cao Hạ,

5. Thân cận với người tốt, và

6. Luận đàm hữu ích.

5. Hoài nghi [Vicikiccha] là gì ?

Vicikiccha, Hoài Nghi: là tâm trạng bất định." Vi" là không chứa đựng. "Cikkiccha" là trí tuệ. Vicikicha là cái gì không chứa đựng dược liệu cho trí tuệ.

Cũng được giải thích là sự va chạm gây nên do suy niệm hỗn tạp, do tâm trạng thắc mắc [Vici: tìm kiếm; Kiccha, va chạm].

Ở đây, Hoài Nghi [Vicikiccha] không có nghĩa là mất niềm tin, không phải hoài nghi về Đức Phật v.v... bởi vì một người không phải Phật tử cũng có thể khắc phục Vicikiccha, Hoài Nghi, và đắc Thiền [jhana]. Nếu xem như một thằng thúc, tức dây trói buộc chúng sanh vào vòng luân hồi thì Vicikkiccha là hoài nghi về Đức Phật v.v... nhưng, nếu xem như một chướng ngại tinh thần, thì đó chỉ là một tâm trạng lỏng lẻo, không nhất quyết về điều mình đang làm. Theo bản Chú giải, Vicikkiccha là không đủ khả năng quyết định một việc gì đó phải là thế nào. Nói khác đi, thì đó là tâm trạng bất định.

Trạng thái này có thể khắc phục được bằng chi Thiền "Sát", nghĩa là liên tục chú tâm. Hành giả tận diệt Hoài Nghi khi đắc Quả Tu Đà Huờn.

Sáu điều kiện sau đây có chiều hướng tiêu trừ Hoài Nghi:

1. Thông suốt Giáo Pháp và Giới Luật,

2. Nghiên cứu tìm học và thảo luận,

3. Thấu triệt tinh thần của Giới Luật [Vinaya],

4. Niềm tin hoàn toàn vững chắc,

5. Thân cận người tốt, và

6. Luận đàm hữu ích.

Chú giải thuật ngữ:

Nguồn:Đức Phật và Phật Pháp- Đại đức Narada Maha Thera [Được Phạm Kim Khánh dịch]

Video liên quan

Chủ Đề