Nội dung hoạt động nghiên cứu khoa học của các mác và ph.ăngghen ở giai đoạn 1844 – 1848 là:

Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh của C.Mác [05/5/1818 - 05/5/2022]

Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào khoảng giữa những năm 40 thế kỷ XIX ở Tây Âu. Chủ nghĩa Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Bằng sự chỉ ra quy luật vận động khách quan của xã hội, những nhiệm vụ lịch sử cần giải quyết để từng bước giải phóng áp bức, giải phóng con người và xã hội loài người, tư tưởng của Mác có giá trị trường tồn và sức sống bền vững trong lòng nhân loại tiến bộ trên thế giới và Nhân dân Việt Nam.

Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh của C.Mác [05/5/1818 - 05/5/2022]

Các Mác và những cống hiến tiêu biểu

Các Mác [Karl Marx] sinh ngày 05/5/1818, trong một gia đình trung lưu ở thành phố Rhineland, Trier - Đức. Năm 12 tuổi [1830], Mác vào học trường trung học ở Trier, học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học. Mùa thu năm 1835, Mác tốt nghiệp trung học, sau đó, tháng 10/1835, Mác vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau, theo lời khuyên của bố, Mác theo học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, Mác đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Mác bốn tuổi, Gianny Vôn Vecphalen. Ở trường Đại học Tổng hợp Berlin, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêgen, sang năm 1839 thì đi sâu nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840, Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề của lịch sử triết học cổ đại. Ngày 15/4/1841, khi mới 23 tuổi, Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án “Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit  và triết học tự nhiên của Êpiquơ” tại trường Đại học Tổng hợp Jena. Tháng 6/1843, Mác chính thức làm lễ thành hôn với Gianny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình Gianny.

Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ, Các Mác chuyển sang báo chí và bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung. Ông nhanh chóng trở thành chủ bút, nhưng sau đó bị các nhà chức trách cho đóng cửa tờ báo vào tháng 5/1843 và chuyển về lại Paris.

Giữa năm 1844, Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này Mác phát triển một cách khoa học trong bộ “Tư bản”.

Tháng 02/1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của Mác và Ăngghen viết chung ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.

Mác cùng với Ăngghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức [1845 - 1846] tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Phoiơbach. Trong cuốn Sự bần cùng của triết học [1847] Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của Pruđông và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản.

Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản, Mác và Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, văn kiện soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi.

Tháng 6/1859, công trình thiên tài của Mác "Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học" ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết Mác xít về giá trị, cơ sở của học thuyết kinh tế của Mác.

Mác là người tổ chức và là lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28/9/1864 ở London. Mác dốc toàn bộ tâm sức của mình để thống nhất phong trào công nhân các nước liên hợp lại.

Năm 1867, Bộ Tư bản [tập I] - tác phẩm chủ yếu của Mác ra đời. Tập II và III Mác không kịp hoàn tất, Ăngghen đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này. Trong bộ Tư bản của mình Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hoá được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ,v.v… Trong kết luận của bộ Tư bản, Mác nêu lên sự tất yếu phải thủ tiêu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thay thế nó bằng một hình thái tổ chức cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Trong cuốn "Phê phán cương lĩnh Gôta" [1875], Mác đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: Giai đoạn thấp - chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cao - chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876, sau khi Quốc tế I giải tán, Mác nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân. Như vậy, Mác đã đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học, học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa.

Giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác

Triết học duy vật biện chứng của Mác đã đập tan mọi thứ triết học duy tâm, siêu hình, coi thế giới là do thần linh sáng tạo ra; vạch rõ thế giới bao gồm vô số sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ, vốn có một cách khách quan. Mác cũng đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người. Ông khẳng định, lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định sinh hoạt chính trị, tinh thần của xã hội nói chung. Quần chúng nhân dân là động lực phát triển của lịch sử, là đội quân chủ lực của các cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn. Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân, có lý luận tiền phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng để phá bỏ chế độ áp bức, bóc lột cũ, xây dựng chế độ mới, chế độ cộng sản chủ nghĩa.

Mác đã tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản và ông cũng chứng minh về mặt lý luận rằng, giai cấp vô sản nhất thiết phải đấu tranh chống giai cấp tư sản và nhất định giai cấp vô sản sẽ chiến thắng, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể tiêu diệt chế độ tư bản và sáng tạo xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. Mác và Ăngghen chỉ ra cho giai cấp vô sản là trước hết phải tự mình vùng lên đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Và trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình tất cả những người lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản phải đi tới lập nên nhà nước chuyên chính vô sản, giai cấp vô sản dùng nó làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Chủ nghĩa Mác là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới. Thiên tài của Mác là đã giải đáp các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên nhưng chưa giải đáp được. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác chấm dứt thời kỳ mò mẫm như trong đêm tối của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi đồng hành cùng dân tộc Việt Nam

Đối với cách mạng Việt Nam, có chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân và Nhân dân Việt Nam ta mới tìm được con đường đi tới độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Từ khi Người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, thì chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là ngọn đuốc dẫn đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trải qua hơn 92 năm đấu tranh anh dũng, Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định tiếp tục: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm nguyên tắc xây dựng Đảng; thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”./.

Nguyễn Hữu Thịnh, Phó Trưởng ban Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang

Theo: //tcnn.vn/

Mục lục bài viết

  • 1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen [1842 - 1844]
  • 2. Giai đoạn đề xuất nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử [1844-1848]
  • 3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học [1848-1895]
  • 4. Giới thiệu tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình"
  • 4.1 Về hoàn cảnh ra đời tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình"
  • 4.2 Về nội dung của tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình"
  • 5. Tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình" có ý nghĩa như thế nào?

Trả lời:

1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen [1842 - 1844]

C.Mác là con một nhà quý phái, Ph.Ăngghen là con một nhà tư bản, nhưng hai ông đã hoàn toàn dâng mình cho cách mạng và trở thành những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản.

Cụ thể trong mục này ta tìm hiểu về quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường cộng sản chủ nghĩa [1842 - 1844].

- Giới thiệu bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của C.Mác và Ph. Ăngghen.

Khuynh hướng tư tưởng, chính trị của C.Mác thời niên thiếu chịu ảnh hưởng của môi trường sống, tư tưởng duy lý và chủ nghĩa tự do về tôn giáo; hoạt động chính trị của người cha và ảnh hưởng của một số giáo viên có tư tưởng dân chủ. Năm 1837, C.Mác làm quen với triết học Hêghen, tham gia phái Hêghen trẻ. Năm 1841, C.Mác nhận học vị tiến sỹ triết học với luận án Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Êpiquya với triết học tự nhiên của Đêmôcrít tại trường Đại học Tổng hợp Iêna.

Sự chuyển biến tư tưởng có nội dung hơn và sự chuyển biến thế giới quan triết học ở C.Mác bước đầu chỉ thực sự diễn ratrong thực tiễn đấu tranh thông qua báo chí, trong thời kỳ ông làm việc ở báo Sông Ranh [5/1842-4/1843]. Chính trong thực tiễn này mà C.Mác nhận thức được những mối quan hệ vật chất của đời sống xã hội, tạo ra sự chú ý đến vai trò của lợi ích kinh tế và sở hữu; nhận thức đầy đủ hơn về những hạn chế của triết học Hêghen, tính phản động, bảo thủ của nhà nước Phổ. Đụng chạm đến những mâu thuẫn thực tế của xã hội, với những vấn đề về kinh tế, C.Mác viết những bài báo như Nhận xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ kiểm duyệt của Phổ, Tuyên ngôn triết học của trường phái lịch sử pháp quyền, Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng[3] v.v để thể hiện quan điểm của mình về tình cảnh quẫn bách của quần chúng lao động, bảo vệ lợi ích của những con người nghèo khổ, những người lao động, đấu tranh vì tự do và dân chủ.

C.Mác đặt cho mình nhiệm vụ tìm những động lực thật sự để biến đổi thế giới bằng cách mạng. Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1843, C.Mác nghiên cứu lại mang tính phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen, ông viết Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen để phê phán học thuyết Hêghen về nhà nước và pháp luật [về thực chất tóm tắt những quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội] và qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong sự đối lập với Hêghen, C.Mác đi tới kết luận, không phải nhà nước quy định xã hội công dân, mà ngược lại, xã hội công dân quy định nhà nước. Việc làm nổi bật vai trò quyết định của mối quan hệ vật chất đối với sự phát triển của lịch sử đã mở ra con đường khắc phục quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội, làm tăng xu hướng duy vật trong tư tưởng và là điểm xuất phát nhận thức duy vật về lịch sử của C.Mác trong tương lai.

Tháng 9 năm 1841, trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự tại Béclinh, Ph.Ăngghen tự học ở các trường đại học và tham gia phái Hêghen trẻ, chịu ảnh hưởng sâu sắc Bản chất đạo Cơ đốc của Phoiơbắc. Những tác phẩm của Ph.Ăngghen thời kỳ 1841 - 1842 như Sêlinh nói về Hêghen [1841], Sêlinh- nhà triết học trong Kitô, hoặc việc cải biến đạo lý thế tục thành đạo lý thần thánh [1842] v.v, cho thấy tuy vẫn đứng trên lập trường duy tâm của triết học Hêghen, nhưng ông đã nhận ra mâu thuẫn giữa tính cách mạng với tính bảo thủ trong triết học ấy, đồng thời thấy tính triệt để hơn trong triết học Phoiơbắc. Từ mùa Thu 1842, trong thời gian sống gần hai năm ở Mansextơ [Anh], việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn ông đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan và lập trường chính trị.

- Giới thiệu sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen.

2. Giai đoạn đề xuất nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử [1844-1848]

Các tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844; Gia đình thần thánh; Luận cương về Phoiơbắc; Hệ tư tưởng Đức; Sự khốn cùng của triết học và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu chủ nghĩa Mác đã được trình bày chỉnh thể với các quan điểm lý luận nền tảng của ba bộ phận hợp thành, thể hiện từng bước sự đề xuất, khẳng định vai trò của triết học trong đời sống xã hội.

3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học [1848-1895]

- Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp; Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ; Cách mạng và phản cách mạng ở Đức; Tư bản; Nội chiến ở Pháp; Phê phán Cương lĩnh Gôta; Chống Đuyrinh; Biện chứng của tự nhiên; Nguồn gốc và gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức thể hiện sự bổ sung và phát triển toàn diện những vấn đề triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, tạo nên chủ nghĩa Mác hoàn chỉnh.

4. Giới thiệu tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình"

4.1 Về hoàn cảnh ra đời tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình"

Vào năm 1877, L. H. Moócgan, đại biểu của phái duy vật tự phát người Mỹ, đã hoàn thành tác phẩm Xã hội cổ đại hay các cuộc khảo cứu những con đường tiến bộ của loài người từ thời đại mông muội qua thời đại dã man đến thời đại văn minh [hay “Xã hội cổ đại”], làm rõ nhiều vấn đề lịch sử trước khi loài người bước vào thời đại văn minh - chế độ chiếm hữu nô lệ. Năm 1884, một năm sau khi Mác mất, Ăngghen tìm thấy bản thảo viết tay tóm tắt tác phẩm Xã hội cổ đại của L.H.Moóc-gan của Mác viết từ những năm 1880, 1881 và biết Mác có ý định viết một tác phẩm xung quanh vấn đề này nhưng chưa kịp.

Tiếp tục ý định của Mác, theo Ăngghen có thể xem như là sự thực hiện một di chúc do Mác để lại, từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 5-1884 Ăngghen đã viết tác phẩm Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Khi viết tác phẩm này, Ăngghen sử dụng những nhận xét và phê phán của Mác về tác phẩmXã hội cổ đại của L. H. Moócgan, đưa những tư liệu từ các nghiên cứu trước đó của mình về lịch sử Hy Lạp, La Mã, Airơlen và người Giécmanh thời cổ v.v., kế thừa và phê phán nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Anh, Pháp, Đức, Bắc Mỹ và Nga nhằm chứng minh sự đúng đắn của những quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác. Tác phẩm được in lần đầu tiên ở Xuyrích [Đức] vào đầu tháng 10-1884, sau đó được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau.

Trong tác phẩm tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình", Ăngghen phân tích một cách khoa học về những giai đoạn phát triển sớm nhất của lịch sử nhân loại, về quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, về quá trình hình thành, những đặc trưng của các xã hội có giai cấp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và giải thích những đặc điểm của sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Đặc biệt, Ăngghen luận chứng nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề nhà nước như nguồn gốc và bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước; đồng thời, chứng minh sự tất yếu diệt vong của nhà nước khi xã hội cộng sản văn minh hoàn toàn thắng lợi.

4.2 Về nội dung của tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình"

Trong tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình", Ăngghen đã luận giải nhiều nội dung, như: nguồn gốc và bản chất của nhà nước; đặc trưng cơ bản của nhà nước; chức năng của nhà nước; vấn đề nhà nước tiêu vong.

Cụ thể nhưtrong vấn đề nhà nước tiêu vong: Theo Ăngghen, nhà nước tiêu vong cũng là một tất yếu như sự xuất hiện của nó trong điều kiện xã hội nhất định. Nhà nước không tồn tại, cũng như từ xa xưa xã hội đã có thời kỳ không cần đến nhà nước, thậm chí không có một khái niệm nào về nhà nước.

Đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, giai đoạn đương nhiên phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế và phân chia xã hội thành giai cấp thì sự xuất hiện của nhà nước trở thành một tất yếu. Nhưng sẽ đến thời kỳ sự tồn tại của những giai cấp nói trên không còn là một tất yếu nữa, hơn nữa sự tồn tại của các giai cấp còn là trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Khi giai cấp không còn thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong.

Giai cấp vô sản giành lấy nhà nước và biến những tư liệu sản xuất thành sở hữu của xã hội, từng bước tự xoá bỏ mình với tư cách một giai cấp, xoá bỏ sự khác biệt giai cấp và mọi sự đối lập giai cấp, đồng thời xoá bỏ cả nhà nước.

Khi nhà nước đã trở thành đại diện của toàn thể xã hội, không còn giai cấp nào bị áp bức nữa, không còn đấu tranh sinh tồn cá nhân nữa, vai trò của nhà nước sẽ mất dần đi. Nhà nước sẽ đi đến chỗ tự tiêu vong cũng là một tất yếu khách quan khi nó đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình, khi chủ nghĩa cộng sản văn minh được hoàn thành.

5. Tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình" có ý nghĩa như thế nào?

Với tác phẩm "Nguồn gốc và gia đình", Ăngghen đã trả lời một cách khoa học câu hỏi nhà nước là gì, nó xuất hiện như thế nào và trên cơ sở nào, tại sao trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, nhà nước lại có các hình thức và vai trò khác nhau.

Chỉ ở đâu có giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì mới có nhà nước. Nhà nước xuất hiện là do những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nước là cơ quan thống trị của một giai cấp này đối với một số giai cấp khác, nhà nước có bản chất giai cấp của nó. Từ việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản chất giai cấp của nhà nước và tính chất bóc lột, áp bức giai cấp của các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản, Ăngghen nêu lên quan điểm về một nhà nước kiểu mới - nhà nước của giai cấp vô sản khác về chất so với các kiểu nhà nước áp bức, bóc lột và bác bỏ những quan điểm phản khoa học về vấn đề nhà nước.

Những luận điểm của Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm này thể hiện sự phát triển và hoàn chỉnh về cơ bản và có hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước. Dựa trên quan điểm duy vật về lịch sử và các sự kiện lịch sử, Ăngghen đã chứng minh các hình thức quan hệ gia đình và quan hệ sở hữu, các hình thức giai cấp và nhà nước là do lịch sử quy định và thay đổi theo lịch sử. Những luận điểm này trở thành cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đến nay./.

Trong tác phẩm này Ăngghen còn bàn về các hình thức nhà nước và cho rằng hình thức cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước ngày càng trở nên tất yếu đối với chúng ta, vì hình thức nhà nước đó không chính thức thừa nhận sự chênh lệch về của cải nữa mà của cải chỉ có thể phát huy quyền lực của nó một cách gián tiếp. Chừng nào giai cấp vô sản chưa trưởng thành đến mức có thể tự giải phóng, thì phần lớn họ sẽ xem chế độ hiện tồn như một chế độ duy nhất có thể có được về mặt chính trị. Nhưng khi giai cấp vô sản đã trưởng thành thì nó tự tổ chức thành một đảng riêng biệt và cái ngày mà cái nhiệt kế đầu phiếu phổ thông chỉ điểm sôi trong những người công nhân, thì họ cũng như các nhà tư bản sẽ biết phải làm gì.

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê. Rất mong nhận được sự hợp tác!

Luật Minh Khuê [Sưu tầm và biên tập].

Video liên quan

Chủ Đề