Phong cách thơ của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, làm thơ Ðường luật và các thể cổ phong, lục bát, hát nói, văn sách, văn tế, câu đối, ký và tự dịch thơ của chính mình từ Hán sang Nôm. Số lượng tác phẩm của ông đến nay đã sưu tập tới hơn 800 bài, bước đầu đã công bố được hơn một nửa.

1. Tiểu sử 

- Nguyễn Khuyến [1835-1909] hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng.

- Sinh ra tại quê ngoại - xã Hoàng Xá [nay là xã Yên Trung], huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

- Lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội - làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo.

- Năm 1864, ông đỗ đầu kì thi Hương. Mấy kì sau thi tiếp lại trượt, đến năm 1871, ông đỗ đầu cả thi Hội và thi Đình=> Do đỗ đầu cả ba kì thi nên Nguyễn Khuyến được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ

- Tuy đỗ đạt cao nhưng ông chỉ làm quan hơn mười năm, còn phần lớn cuộc đời là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà.

- Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

- Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.

- Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

- Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau.

- Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương.

- Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình.

=> Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.

- Nội dung: thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.

b. Tầm ảnh hưởng của tác giả

- Đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến cho nền văn học dân tộc là mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng. 

Sơ đồ tư duy - Tác giả Nguyễn Khuyến

Loigiaihay.com

1. CƠ SỞ LÝ LUẬN1.1 Khái niệm loại hình tác giảTheo Từ điển thuật ngữ văn học: “Loại hình chỉ một nhóm nhà văn, một nhóm tác phẩmhoặc yếu tố [chủ đề, đề tài, thể loại, nhân vật] có những đặc trưng chung nhưng xuất hiện tạicác nước khác nhau, là ngành nghiên cứu những điểm tương đồng, những điểm khác biệt, biếnđổi cùng các nguyên nhân, ý nghĩa của chúng. Loại hình học có hai phân nhánh là chủ đề học,văn loại học” . Về thực chất, tác giả văn học là người làm ra cái mới, người sáng tạo ra các giátrị văn học mới. Tác giả văn học được nhận ra trong bối cảnh của quá trình văn học, là người cóđược bản sắc riêng trong vô vàn mối ảnh hưởng.Khái niệm loại hình tác giả theo khía cạnh phương pháp luận của loại hình học tác giảvăn học, có thể xem xét trên hai bình diện:Bình diện xã hội học lịch sử: xem tác giả là một con người xã hội, thuộc một giới, mộtnhóm xã hội nhất định trong các giai đoạn lịch sử.Bình diện thẩm mỹ - nghệ thuật: xem tác giả là những dấu ấn văn hóa nhân cách hiệndiện ở sáng tác [hình tượng tác giả, kiểu tác giả].Nếu khảo sát tác giả ở bình diện kể trên thì đó là một đề tài lớn của sử học. Nếu khảo sáttác giả ở bình diện kể sau thì đó là đề tài của văn học, nó đòi hỏi sự tập trung chú ý vào tài liệusáng tác [bài thơ, truyện…] hơn là phương diện ngoài sáng tác. Ở đây, người viết chọn khảo sátở bình diện thứ hai: Loại hình tác giả chính là xem tác giả như những dấu ấn văn hóa nhân cáchhiện diện ớ sáng tác [tác phẩm].Trong cuốn sách mới đây của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương: Loại hình học tác giảvăn học − Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam [Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1995] có nói khá chi tiếtvề khái niệm loại hình tác giả, đặc biệt ông quân tâm sâu sắc tới loại hình học tác giả - nhà nhotài tử.Tác giả Trần Ngọc Vương mô tả nhà nho tài tử như một loại hình tác giả văn học trongvăn học trung và cận đại Việt Nam trên cơ sở khai thác đối tượng như một kiểu tác giả, tức làtìm kiếm những thông tin về tác giả thông qua những biểu hiện của sự có mặt, sự tự ý thức củatác giả trong các văn bản nghệ thuật.Ông cũng đề cao vai trò của bối cảnh kinh tế - văn hóa - xã hội thời điểm nhà văn sinhsống, thông qua việc khẳng định: “..đằng sau mỗi một loại hình nhà nho đều có thể nhận ra mộtcơ sở kinh tế xã hội mang tính độc lập tương đối. Ở người hành đạo-trung nghĩa, đó là sự phân1chia lại tô thuế. Ở người ẩn dật đó là nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc trong đời sống công xã.Nhà nho tài tử chỉ có thể xuất hiện như là một loại hình khi nền kinh tế đô thị [với nhân vật kinhtế chủ yếu là thương nhân và thợ thủ công] tuy còn tản mạn, yếu ớt, nhưng đã được thiết định”.Nhận định này [vốn cũng có xuất xứ từ Trần Đình Hượu] cho thấy tác giả chuyên luận muốn đềcập ba loại hình nhà nho, ba loại hình tác giả văn học như những khách thể xã hội-lịch sử. Đó lànhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài từNếu hai loại hình nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật đều được xác lập hầu như trêncùng một tiêu chí phân loại, và đều có thể được xem như những nhóm xã hội nhất định [dùtương đối biến động ở thành phần bên trong], thì loại hình nhà nho tài tử được tác giả chuyênluận xác lập bởi những tiêu chí khác. Về thành phần "nhân sự", tác giả đã đưa vào loại hình nàycả những nhà nho hành đạo thành đạt lẫn những nhà nho ẩn sĩ với những số phận rất khác nhau.Có thể thấy nhà nho tài tử như một kiểu lập trường xã hội-văn hóa, thẩm mỹ. Đó lànhững cá nhân xuất chúng, ở họ tích tụ các khát vọng xã hội, nhu cầu giải phóng con người, nhucầu khẳng định cá nhân − tức là những nhu cầu phát triển mà chế độ chuyên chế quan liêuđương thời không cho phép thực hiện.1.2 Cơ sở để so sánh thơ Nguyễn Khuyến và Tú XươngTừ những đặc điểm và tiêu chí phân loại về loại hình tác giả như trên có thể khẳng địnhviệc so sánh thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương trên cơ sở loại hình là hợp lý, bởi lẽ:Thứ nhất: Nguyễn Khuyến và Tú Xương cùng thuộc kiểu tác giả là nhà nho. Xuất thân,hầu hết các hai tác giả đều xuất thân trong gia đình có truyền thống nho học, khoa bảng, thi thư.Bản thân họ là các nhà nho, được đào tạo một cách bài bản trong nhà trường phong kiến.Thứ hai: Có rất nhiều điểm chung về bối cảnh văn hóa xã hội thời điểm hai ông sáng tác.Nguyễn Khuyến và Tú Xương cùng chứng kiến sự lụi tàn của triều đình phong kiến cùng nềnnho học. Họ cùng đau xót trước cảnh đất nước suy tàn, thực dân tàn ác khiến nhân dân lầm than;văn hóa Phương Tây với những lai căng, phù phiếm. Do đó thơ của hai ông phản ánh cả bứctranh xã hội Việt Nam thời bấy giờ bằng một tâm tư riêng, thông qua một hình thức riêng.Thứ ba, lòng yêu nước và tính tự trào thể hiện rõ rệt trong phong cách của NguyễnKhuyến và Tú Xương; mặc dù Tú Xương được xem là biểu tượng xuất sắc của kiểu nhà nho tàitử, còn Nguyễn Khuyến lại là sự giao thoa gặp gỡ giữa kiểu nhà nho ẩn dật - tài tử.Cuối cùng, hai ông là đại diện tiêu biểu cho những cá nhân xuất chúng, những nhà thơmang khát vọng xã hội và nhu cầu khẳng định trước sự áp đặt của xã hội chuyên chế đương thời.2Vì vậy thơ của hai ông chúng là những di sản đáng trân trọng, minh chứng cho sự thăng hoa vănchương mà chúng ta cần gìn giữ.2. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT CỦA NGUYỄN KHUYẾN VÀ TÚXƯƠNG TRÊN CƠ SỞ LOẠI HÌNH2.1 Đôi nét về Nguyễn Khuyến & Tú Xương2.1.1 Nguyễn Khuyến [15/02/1835 - 24/2/1909]Nguyễn Khuyến tự là Miễn Chi, hiệu Quế Sơn, tại làng Văn Khuê, xã Hoàng Xá, huyệnÝ Yên, Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Nhà thơ sinh ratrong một gia đình dòng dỗi khoa bảng, dòng họ từng có nhiều người đỗ đạt và làm quan totrong các triều đại trước.Ông nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học và với 19 năm theo đuổi sự nghiệp thicử với 9 khoa thi, ông đã đạt được những kết quả được người đời vô cùng ngưỡng mộ. Năm1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hương và đỗ giải Nguyên ở trường Nam Ðịnh. Năm 1871, Thi Hộivà đỗ Hội nguyên và sau đó ông thi Ðình cũng đỗ Ðình nguyên. Vì đỗ đầu cả ba lần thi Hương,Hội, Đình nên Nguyễn Khuyến được Vua Tự Đức ban cờ biển với hai chữ “Tam nguyên” để vềlàng vinh quy bái tổ.Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Khuyến ra làm quan với triều đình khi đã 37 tuổi. Cuộc đời làmquan của Nguyễn Khuyến kéo dài hơn 10 năm với khá nhiều thăng trầm, đó lúc nước mất nhàtan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông khôngthực hiện được. Đến đầu năm 1884 viện cớ đau mắt nặng, ông cáo quan về nghỉ tại quê nhà;sống cuộc sống thanh bần, đạm bạc cùng với những người nông dân bình dị ở vùng quê nghèo,đồng chiêm trũng Bắc Bộ. Do vây, nhà thơ có điều kiện để hiểu kĩ về nông dân, nông thôn từcông việc làm ăn đến những lo nghĩ vui buồn, đồng thời có sự cảm thông, gắn bó thực sự với họ.Những tháng ngày này, ông cũng nhiều lần từ chối sự mời mọc ra làm quan trở lại của triềuđình.Nguyễn Khuyến để lại sự nghiệp đồ sộ với ca chữ Hán và chữ Nôm, hiện còn trên 800bài gồm: thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ. Tiêu biểu như: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập,Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, Long tuyển thi sách,…2.1.2 Trần Tế Xương [05/09/1870 – 29/01/1907]Trần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, hiệu là Mộng Tích Tử Thịnh, tên tự là MặcTrai, đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương, Trần Cao Xương. Tuy nhiên do suốt đời3đi thi, trải qua gần 20 năm, với 8 khoa thi, chỉ đậu một lần duy nhất đến Tú Tài cho nên có tênthường gọi là Tú Xương. Ông sinh tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, ngoại thành Nam Ðịnh.Tú Xương là một bộ óc thông minh, một tâm hồn giàu cảm xúc, tuy nhiên suốt đời TrầnTế Xương vẫn không gặp may: ông mãi mãi là một nhà nho lỡ vận, cố vươn lên khỏi những bếtắc nhưng không bao giờ thoát được nó, suốt đời lận đận nợ lều chõng. Thi hoài mà chỉ một lầnduy nhất đậu Tú Tài ở vào buổi Hán học suy tàn, lại bị lối sống thị thành quyến rũ, Tú Xươngthành ra một kẻ từ chỗ vô tích sự, chán đời dẫn đến bất mãn, ngông nghênh.Sinh thời, ngoài việc học hành, thi cử, hầu như Tú Xương không làm gì cả, kể cả nghề“gõ đầu trẻ” như những khóa sinh khác. Ông đúng là loại nhà nho “dài lưng tốn vải”, cuộc sốngvật chấtđều trông nhờ vào sự đảm đang, lo toan của vợ. Trong khó khăn chung của thời thế, cuộcsống cơm áo của gia đình nhà thơ nhiều lúc lâm vào cảnh túng thiếu là lẽ tất yếu.Với Tú Xương sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợcon, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu nên tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sứcphức tạp: không có di cảo, không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giảcòn sống hoặc vừa nằm xuống.Dù vậy tuy chỉ sống 37 năm và chỉ đỗ Tú tài nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thànhbất tử. Với khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ [thất ngôn bát cú, thấtngôn tứ tuyệt,…] và một số bài văn tế, phú, câu đối,… Tiêu biểu như: Thói đời, Lễ xướng danhkhoa Đinh Dậu, Giễu người thi đỗ, Để vợ chơi nhăng, Thương vợ,…2.2 So sánh tương đồng và dị biệt trên cơ sở loại hình của kiểu tác giả nhà nhoSự kiện đặc biệt quan trọng mở đầu thời kỳ này là sự xâm lược của Thực dân Pháp. Cuộcxâm lăng này đã kéo theo những biến động ghê gớm, những thay đổi sâu sắc và toàn diện trênmọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đối với các tầng lớp trong xã hội có sự phân hóa. Đời sống nôngthôn chìm trong màn đêm đen tối. Đời sống thành thị phát triển theo xu hướng tư bản với nhữngtầng lớp mới, những nghề kiếm sống mới. Ta có thể khẳng định bối cảnh xã hội Việt Nam cuốithế kỷ XIX là một xã hội đầy rẫy những “thói tục điển hình”. Một xã hội dễ làm hoen ố, bănghoại mọi danh dự, phẩm giá của con người. Với hoàn cảnh xã hội như vậy đã tác động và chiphối sự hình thành các kiểu hình tác giả nhà nho.2.2.1 Loại hình tác giảNguyễn Khuyến và Tú Xương đều ra đời trong xã hội mà Nho giáo là hệ tư tưởng chínhthống chi phối mọi mặt đời sống. Hai tác giả đều xuất thân trong gia đình có truyền thống nho4học, khoa bảng, thi thư. Bản thân họ là các nhà nho, được đào tạo một cách bài bản trong nhàtrường phong kiến. Trải qua quá trình tu dưỡng, học tập dưới cửa Khổng sân Trình cả hai đềunuôi ước vọng đỗ đạt, làm quan để thỏa ước nguyện cứu dân giúp đời, đem tài năng, lí tưởngphục dịch cho dân. Bởi con đường tiến thân và lí tưởng thời đại có thể xác định Nguyễn Khuyếnvà Tú Xương cùng thuộc kiểu tác giả là nhà nho. Đồng thời, ở họ có sự tương đồng về tư tưởng,về cách nhìn hiện thực cuộc sống. Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều có những nỗi niềm thếsự giống nhau: Sự bất mãn phản kháng trước xã hội, tiếng nói tâm tình của một tấm lòng yêunước, trung trinh nhưng bất lực trước thời cuộc.Tuy cùng là nhà nho nhưng thời đại có sư biến động lớn của lịch sử xã hội đã ảnh hưởngrất nhiều đến các sáng của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Nếu như Nguyễn Khuyến chọn cáchlánh xa thế sự để vui thú điền viên thì Tú Xương lại ngạo nghễ, ngông nghênh như thách thứcthực cuộc. Chúng ta thấy rằng ở Nguyễn Khuyến có sự giao thoa, gặp gỡ của loại hình nhà nhoẩn dật và nhà nho tài tử. Các nhà nho ẩn dật thường là những tác giả nhà nho có thể chịu ảnhhưởng của hệ tư tưởng Nho giáo trong việc lựa chọn con đường hành đạo – nhập thế nhưng khivề ẩn dật, họ đã tiếp thu linh hoạt tư tưởng Lão – Trang và phần nào tư tưởng Phật giáo; họ cóthể đi ở ẩn suốt đời hoặc chỉ đi ở ẩn trong khoảng thời gian nào đó và có sáng tác văn chươngthể hiện cuộc sống, tư tưởng ẩn dật. Dựa trên quan niệm đó có thể khẳng định Nguyễn Khuyếnlà nhà nho ẩn dật, nhưng cách ẩn dật của ông cũng biệt lệ so với những nhà nho ẩn dật của thếhệ trước.Nguyễn Khuyến, một trong những người ở ẩn cuối cùng của lịch sử Nho giáo Việt Nam,có thể nói, là biệt lệ cho mẫu nhà Nho ẩn dật. Biệt lệ, bởi việc cáo quan về ở ẩn của ông là mộtbước thoái lui đầy miễn cưỡng. Biệt lệ, bởi trong bối cảnh chế độ thực dân đang ra sức khai thácthuộc địa, làm gì còn chốn để người ở ẩn có thể sống an nhàn, thích thảng như trước? Biệt lệ,bởi cả việc dù đã tự nhận là người ở ẩn, song Nguyễn Khuyến lại vẫn tự mãn với những giá trịrất đời thường. Ông bộc lộ cái “Kiêu”, ông khoe sự đỗ đạt của mình khi dặn dò con trai trong bài“Di chúc” nổi tiếng: “Học tiếng rằng chẳng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”. Trongcái tâm thế nhùng nhằng “cờ đương dở cuộc không còn nước, bạc chửa thâu canh đã chạylàng” của người ở ẩn bất đắc dĩ, ông Tam nguyên lại khẳng định mình, lại “Kiêu” bằng cách tựthể hiện qua những hình tượng: Anh giả điếc, Lão đá rất nghịch phách....Đặc biệt là qua hình tượng Ông say ngất ngơ ngất ngưởng bất chấp điều tiếng của ngườiđời: “Lúc hứng đánh thêm dăm chén rượu/ Khi buồn ngâm láo một câu thơ”; “Câu thơ được5chửa, thưa rằng được/ Chén rượu say rồi, nói chửa say”... Không ngẫu nhiên mà khá nhiều lầnNguyễn Khuyến lại tự nhận mình là Túy ông. Cũng bởi: “Đừng trách bên song say khướt mãi/Không say thì tỉnh với ai mà!”. Nói về “tài” làm thơ không thể phủ nhận tài năng của NguyễnKhuyến, đặc biệt trong mảng thơ trào phúng. Không chỉ là một nhà nho ẩn dật mà NguyễnKhuyến còn là một nhà nho tài tử trào phúng – lỗi thế.Trong văn học Việt Nam trung cận đại cũng đã hình thành mẫu hình nhà nho tài tử, xuấtsinh từ đô thị kiểu thị tứ, kẻ chợ, mang yếu tố cá nhân phi Nho, phi Trang. Trong ba loại hìnhnhà nho được được Trần Ngọc Vương nêu ra chúng tôi xếp Tú Xương và Nguyễn Khuyến vàoloại hình nhà nho tài tử. Theo hai nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu và Trần Ngọc Vương, điểmphân biệt giữa nhà Nho tài tử với nhà Nho hành đạo và nhà Nho ẩn dật là ở chỗ nhà Nho tài tửcoi trọng “tài” và “tình”, chứ không phải đạo đức, là cái làm nên giá trị con người. Họ “thị tài”và “đa tình”. Họ không sống cho tổ quốc, không sống vì đạo lý. Họ sống cho họ, sống vì nghệthuật, vì cái đẹp. Quan niệm sống họ theo đuổi không nằm ở phụng sự mà là hưởng thụ, tậnhưởng thú vui “cầm kì thi tửu”. Theo nhận định này có thể khẳng định rằng Tú Xương có cáichất của một nhà thơ tài tử, nhưng chất tài tử của ông lại đặc biệt khác với những nhà nho tài tửnhư Tản Đà, Nguyễn Du hay Nguyễn Công Trứ.Tú Xương chính là nhà nho tài tử của xã hội tư sản. Mặc dù mang trong mình tư tưởngNho gia nhưng ông dễ dàng nhập thân vào đô thị, dù là nhập thân một cách không hoàn toàn TúXương người có tài, học hành lỗi lạc, văn hay chữ tốt nhưng trí tuệ ngang tàng, không chịu khépmình vào quy chế cổ hủ, bó buộc của khoa trường cũ rích, cho nên con đường công danh luônlận đận. Bởi tài hoa vốn có nên mục đích chính của ông vẫn là “phụng sự”. Muốn đem tài năngtheo con đường quan lại để tiến thân, giúp nước. Nhưng chính cái xã hội hỗn độn, sa đọa, vá víuđã làm lỡ vận mộng học hành công danh của ông. Nên ông mới mượn cái thú “cầm kì thi tửu”để khỏa lấp sự phẫn chí, chán thế sự của mình. Đã có “tài” phải có “tình” nữa mới thành ngườitài tử những cái tình của Tú Xương cũng rất đặc biệt. “Tình” gắn liền với gia đình và vận mệnhđất nước, vận mệnh dân tộc. Cũng như Nguyễn Khuyến, ông thể không đoái hoài đến thế sự,không thể hưởng được lạc thú như mình vốn nghĩ.Xét về loại hình tác giả, Nguyễn Khuyến và Tú Xương vẫn có những nét tương đồng vàdị biệt. Họ gặp gỡ nhau trong tư tưởng nho giáo những mỗi người lại có con đường sáng tácriêng.2.2.2. Phong cách tác giả6Tác giả Phương Lựu khi viết cuốn Lý luận văn học cũng đă khẳng định: “Phong cách làchỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩ được thể hiện trong sángtác của những nhà văn ưu tú. Nó đòi hỏi trước hết nhà văn phải đem lại tiếng nói mới cho vănhọc”. Điểm cốt lõi, yếu tố quyết định tạo lên phong cách nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ là tínhđộc đáo thể hiện trong sáng tác. Phong cách bắt nguồn sâu xa từ hiện thực khách quan, bằngthực tiễn sống của nhà văn. Nhà văn, nhà thơ muốn tạo cho mình phong cách riêng trước hếtphải có cách cảm nhận thế giới độc đáo, có tư tưởng nghệ thuật độc đáo, và có phương thức thểhiện độc đáo phù hợp với nội dung của nó. Phong cách sáng tác là một phạm trù rất rộng, trongđề tài này chúng ta chỉ đi qua nhưng phương diện cơ bản trong phong cách như: cái nhìn, đề tàichủ đề, giọng điệu, ngôn ngữ…Yếu tố đầu tiên tạo nên phong cách Nguyễn Khuyến đó chính là cái nhin thấu thị về bốicảnh đất nước lúc bấy giờ. Chính điều đó đã tạo nên một nhà nho tài tử trào phúngVề đề tài, những bức tranh thơ Yên Đổ đã kế thừa thật uyển chuyển tinh hoa của cả mộtchặng đường dài tiếp cận và thể hiện thiên nhiên trong thơ trung đại. Thiên nhiên trong trong thơông không bó buộc phải là rộng lớn, đặc sắc, mà nhiều khi chỉ là những cảnh, những hình ảnhgiản dị, quen thuộc của quê hương xứ sở, nhất là cảnh thôn quê mộc mạc, chân chất:Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắtNgõ trúc quanh co, khách vắng teo.[Thu điếu]Những cảnh đó ông khéo khơi rộng và tìm ra những vẻ đẹp chưa ai khai thác bao giờ vàông đã gửi vào đó nỗi niềm tâm sự, thể hiện một tình yêu nước sâu xa. Chính bởi yêu tố đó màông được mệnh danh là “nhà thơ của làng quê Việt Nam”.Ngoài đề tài về thiên nhiên ông còn viết về người phụ nữ với cảm hứng ca ngợi, trântrọng. Nguyễn Khuyến có bài “Mẹ Mốc”. Nhà thơ đã khắc họa hình tượng cảm động của mộtngười đàn bà danh tiết có thật lúc bấy giờ: mẹ Mốc. Mẹ Mốc nhan sắc tuyệt trần đã giả vờ điêndại để dành trọn tâm tư cho chồng con đang ở xa:Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,Giữ son sắt êm đềm một tiết.Đề tài chứa nhiều trăn trở, suy tư nhất của tác giả có lẽ là đề tài yêu nước. NguyễnKhuyến không bao giờ xóa bỏ được nỗi đau thời thế và tấm lòng yêu nước trung trinh. Lòng yêunước kết tinh thành một khối vững bền ở tận đáy lòng khiến ông giữ được thái độ bình thản7trước mọi thay đổi của thời cuộc. Tình yêu nước gắng liền với hiện thực xã hội, ta tìm thấy trongcác sáng tác của ông cái xã hội đang ngày càng mục nát, sản sinh ra nhiều bọn quan hư hèn, bọnthực dân xâm lược và những hạn người làm quan bằng những thủ đoạn bất chính.Về giọng điệu, Nguyễn Khuyến, một nhà nho theo những chuẩn mực đạo đức nho giáomang đến một giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm thúy. Trước hết là khi đọc thơ tự tràocủa Nguyễn Khuyến, ít nhiều ta thấy tâm sự và cá tính của ông. Ở đó, ta thấy những biểu hiệnđối lập trong tâm hồn nhà thơ. Đó là những bài tự trào được viết khi ông chưa đậu đạt: tiếngcười đùa hóm hỉnh mà còn có chút xót xa, tủi hổ vì sự nghèo và muộn trên đường khoa cử [Thannợ, Than nghèo, Giễu mình chưa đỗ,…]. Sau khi đã đậu đạt và nhất là từ khi rũ bỏ cuộc sốngquan trường để trở về làng quê Yên Đổ sống cuộc sống thanh bần, Nguyễn Khuyến đã cảm thấysự thất bại của cuộc đời mình. Ông đau khổ tự phủ định, giễu cợt bản thân một cách chua chát.Ông tự nhận là kẻ bất lực, gàn dở vì những đạo lí thánh hiền mà Nguyễn Khuyến từng tiếp nhậnkhông còn dung hòa được với sự bạc nhược, rệu rã của triều đình nhà Nguyễn nên ông từ bỏ.Ông đã cười cợt, khinh bỉ cái địa vị mà mình từng ngồi:Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉThế cũng bia xanh cũng bảng vàng.[Tự trào]Ông còn tự cười cợt bản thân mình thông qua hình ảnh một ông già vô tích sự:Mở miệng nói ra gàn bát sáchMềm môi chén mãi tít cung thang.[Tự trào]Bên cạnh sự tự trào, các tác giả còn tập trung vào việc chế giễu những thói hư tật xấutrong xã hội. Ở xã hội ấy có đủ mọi hạng người và đủ mọi suy đồi về luân thường đạo lí. Ông làngười dám công khai phê phán, giễu cợt cái xã hội vốn đang trên đà tuột dốc. Cái xã hội đangmất dần sự tôn nghiêm của buổi đầu thực dân hóa:Vua chèo còn chẳng ra gìQuan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.[Lời vợ người hát chèo]Khen ai khéo vẽ trò vui thếVui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.8[Hội Tây]Hình tượng ấy càng khắc họa sâu sắc nỗi đau thời cuộc của chính nhà thơ. Luôn day dứtvì chưa hoàn thành tâm nguyện “lo trước, vui sau”, Nguyễn Khuyến dùng một phần sự nghiệpthơ văn của mình để châm biếm những viên quan, những ông nghè, ông đồ dốt nát, không hề cótư tưởng phụng sự nhân dân mà chỉ đua đòi danh phận cho hợp với thời thế [Thầy đồ ve gáigóa].Xét về ngôn ngữ: Nguyễn Khuyến sáng tác thơ văn cả chữ Hán, chữ Nôm và ở loại nàoông cũng được coi là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ văn chương. Ngôn ngữ thơ ông rất phongphú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả, chúng rất giàugiá trị nghệ thuật.Nhà thơ đã khéo léo đưa các thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân ca vào bài thơ, câu văn củamình, chúng được ông sử dụng khá thành thạo. Có khi sử dụng nguyên xi [“Có ai ngờ sáng tainọ, điếc tai cày”, “Có hay chi cõng rắn cắn gà nhà”, “Thôi đừng có rước voi giày mả tổ”,…],có khi ông sáng tạo lại để biến thành câu văn, câu thơ mình [Chép miệng bà nuôi to cái dại/ Phờrâu chịu đấm mất phần xôi,…]Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ láy, từ ghép giàu giá trịgợi tả và biểu cảm: lơ phơ, ngất ngơ, lơ láo, khấp khểnh, lom khom, tênh nghếch, ngọng nghẹo,vắng teo, nhấp nhô, trong veo,…Đặc biệt, có những từ ngữ đã được Nguyễn Khuyến sáng tạo ra,làm phong phú thêm vốn từ ngữ của Tiếng Việt: quang quác quác, tẻ tè te, khỏe khoe,…Còn về phong cách Tú Xương mang đậm cái nhìn thời đại. Ông là một trong số ít tác giảtrong văn thơ trung đại hầu như không viết về thiên nhiên. Chủ đề – đề tài trong thơ ông đậmchất hiện thực. Từ việc người ta học gì chơi gì, đến chuyện đời thường của chính nhà thơ. Nhânvật trong thơ Tú Xương là những cá nhân riêng cụ thể, là những con người có đủ danh phận,không còn là những nhân vật theo loại như trước kia. Vì thế ông không úp úp mở mở, nói bóngnói gió bình phẩm ai mà ông nhìn thẳng nói thẳng. Tổng quát hóa thơ Tú Xương có ba đề tàichính là: bức tranh Tây hóa, hình ảnh người phụ nữ và hình ảnh những nhà Nho trong xã hội đảođiên này.Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ để thể hiện sự tri ân:Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.9Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.[Thương vợ]Bên cạnh đó, nhà thơ còn phơi bày sự vi phạm một cách trắng trợn về tiết hạnh của ngườiphụ nữ. Tú Xương đã mỉa mai những cô gái làm đĩ, gái góa, cô vợ vi phạm tam tòng tứ đức,…Còn khi viết về đối tượng khoa bảng, quan lại hèn kém này nhưng với giọng thâm độc,cay cú hơn. Giễu người thi đỗ là một lời chửi nghe rát cả mặt. Cái đau nhất có lẽ là hình ảnh đốirất chuẩn giữa bà đầm và ông cử. Bà đầm xuất hiện đã làm cho những giá trị thuần phong mĩ tụccủa dân tộc ta hoàn toàn sụp đổ:Trên ghế bà đầm ngoi đít vịtDưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.[Vịnh khoa thi Hương]Về giọng điệu, Tú Xương được xem như một nhà nho thị dân. Ông mang đến cho ngườiđọc những câu thơ trào phúng cay độc, bốp chát, ông châm biếm, cười cợt, phê phán khôngkhoan nhượng với bất cứ những gì “trái tai gai mắt” diễn ra trong buổi giao thời.Tiếp bước Tam nguyên Yên Đổ là nhà thơ “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”[Buồn thi hỏng]. Chuyện học hành thi cử của Tú Xương không được may mắn như NguyễnKhuyến. Và dòng thơ tự trào của ông xuất hiện như một sự an ủi chính bản thân mình, vỗ vềlòng mình. Biểu hiện của thơ tự trào Tú Xương cũng là sự châm biếm, cười cợt chính mình:Bác này mới thật thái vô tíchSáng vác ô đi tối tối vác về.[Vô tích]Trong sự biến đổi của xã hội đương thời thì con người nhà nho như Tú Xương không thểthích nghi và ông không chọn được cho mình một công việc thích hợp, đành phải “Sáng vác ô đitối vác về” và làm một vị quan tại gia ăn lương vợ:Hỏi ra quan ấy ăn lương vợĐem chuyện trăm năm giở lại bàn.[Quan tại gia]Tú Xương lại còn không ngần ngại phơi bày các tật xấu của mình. Hình thức tự bôi xấumình là một kiểu cười làm tan vỡ hình tượng, cốt cách nhà nho vốn rất đạo mạo, uy nghi:10Vị Xuyên có Tú XươngDở dở lại ương ươngCao lâu thường ăn quỵtThổ đĩ lại chơi lường.[Tự vịnh]Như Đỗ Đức Hiếu khẳng định: “Giọng thơ trào phúng của Tú Xương biến đổi nhiều vẻtừ bài này sang bài khác. Có những nụ cười nhẹ nhàng, dí dỏm, những nụ cười mỉa mai, chuachát, độc địa, đập thẳng vào bọn xu thời, tục rởm, cũng có những tiếng cười đau lòng, cười ranước mắt”. Quả thực, Tú Xương có giọng điệu trào phúng hết sức độc đáo, mà tùy theo đốitượng và hoàn cảnh mà nhà thơ dành những cảm xúc, điệu cười khác nhau.Tiếng cười trong thơ ông có khi hài hước, bông lơn [Đề ảnh], có khi dữ dội [Để vợ chơinhăng], có khi đay nghiến chì chiết [Ông Cử Nhu], có khi đau đớn, cay cú [Mai mà tớ thihỏng],.. Lời thơ của Tú Xương chua chát, nhằm mục đích mỉa mai, châm biếm xã hội phongkiến.Về ngôn ngữ, Tú Xương là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nên ngônngữ trong thơ ông luôn giản dị, chính xác, uyển chuyển, gợi hình và có tính chất dân gian. Đặcbiệt, Tú Xương sử dụng nhiều từ ngữ mang dấu ấn khẩu ngữ, đó là những từ có khả năng biểucảm cao như: “con mụ” [Tiền bạc phó cho con mụ kiếm], “con bu nó” [Vuốt râu nịnh vợ, con bunó], “mẹ mày” [Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay – Thưng đấu nhờ trông một mẹ mày], “mẹ đĩ mẹ”[No ấm chưa qua vành đĩ mẹ], “cha cu” [Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu],…Những khẩu ngữnày xuất hiện khiến cho thơ văn Tú Xương mang tính tự nhiên, bỗ bã, thân tình và gần gũi.Tóm lại, cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều là nhà Nho nên cả hai đều mang phongcách sáng tác của văn học thời Trung đại. Đặt biệt cả hai đều học hành, thi cử theo khoa bảngcủa triều đình lúc bấy giờ nên họ sáng tác bằng chữ Nôm, chữ Hán, theo thể thơ Đường luật củaTrung Quốc. Tuy nhiên về phong cách thì mỗi nhà thơ vẫn có điểm riêng biệt của mình. Nếunhư giọng điệu trào phúng của Nguyễn Khuyên thì hóm hỉnh, thâm trầm; thì tiếng cười của TúXương lại châm biếm sâu cay, đả kích quyết liệt.Nguyễn khuyến chọn đề tài nông thôn với những nét đẹp bình dị, gần gũi, nơi ông trốntránh cái xã hội nhiễu nhương thời bấy giờ. Về mảng trào phúng đả kích ta nhận thấy rằngNguyễn Khuyến chỉ mang tâm trạng bất mãn thời thế, chứ không thật sự đả kích, phê phán nó.Trái lại, với Tú Xương trong thơ ông hoàn toàn không có đề tài nông thôn mà chỉ có hiện thực11xã hội hiện ra với nhiều bộ mặt khác nhau. Ở Tú Xương không có cái nhàn nhạt, cái lưng chừng,mà cười là cười phá, chửi là chửi độc, chua chát. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùngngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục .Không phải ngẫu nhiên mà có sự khác nhau ấy, tất cả đều xuất phát từ chính hoàn cảnhsống và cuộc đời của hai nhà thơ. Một Nguyễn Khuyến tiêu biểu cho đạo học của xã hội phongkiến, học hành và thi cử đầy thuận lợi, đỗ đạt cao. Một Tú Xương “Thi không ăn ớt thế mà cay”.Mà phải ông Tú bất tài thì cũng không buồn mấy. Đằng này, chỉ vì quá cá tính mà ông cứ phảilao đao, gian nan với con đường khoa cử. Nỗi buồn thi hỏng là nỗi buồn ám ảnh Tú Xương đếnsuốt cuộc đời. Song song đó, hoàn cảnh sống cũng ảnh hưởng rất nhiều đến giọng điệu thơ củahai tác giả. Nguyễn Khuyến từ nhỏ sống cuộc sống nông thôn. Sau khi làm quan khoảng mườinăm, ông lại lui về ở ẩn tại vườn Bùi. Sự yên ả, nhẹ nhàng của cuộc sống ấy đã phần nào khiếncho dòng suy nghĩ của tác giả trầm lặng hơn. Còn Tú Xương vốn sinh ra và lớn lên ở mảnh đấtđô thị. Những đổi thay, xoay vần của lối sống tư sản thành thị đã cuốn ông vào những cái gấpgáp, bực dọc và làm nên chất tài tử trong ông, tạo nên một hồn thơ đầy khẳng khái.Quả thực, Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã đóng góp những tiền đề cho sự hình thànhdòng văn học hiện thực trào phúng của văn học hiện đại. Dù là tự trào bản thân hay phê phán,chế giễu những con người và những thói hư tật xấu trong xã hội, chung quy lại, vẫn là một tấmlòng yêu nước, một sự quan tâm và đau xót trước sự suy đồi của đạo đức truyền thống qua hàngloạt hiện tượng chướng tai gai mắt.2.3 Ảnh hưởng và đóng góp của hai nhà thơ đến văn học Việt NamBàn tới địa vị của Nguyễn Khuyến và Tú Xương trong làng thơ Việt Nam là ta nhắc tớihai nhà thơ một già, một trẻ, đỗ đạt cao thấp khác nhau, sinh khác thời, chết gần đồng thời,người ẩn cư nơi xóm làng thanh vắng, kẻ sống giữa chợ xô bồ, người tâm tình đôn hậu, kẻ góccạnh sắc sảo, cùng thích châm biếm trào lộng, là một cặp ngẫu nhiên lý thú của nền văn học dântộc. Chính lẽ ấy mà cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều là những nhà thơ có vị trí bất tử tronglịch sử văn học nói chung, trong nền văn học cổ điển Việt Nam nói riêng, đó là những đóng gópđộc đáo không thể thay thế.Nguyễn Khuyến có được vị thế đó là bởi vì tâm hồn nhà thơ đã cắm gốc, cắm rễ rất sâutrong mảnh đất màu mỡ của những phẩm chất cao quý về nhân bản Việt Nam được hun đúc từmấy nghìn năm của lịch sử dân tộc. Cái yêu thương chan hòa, cái thủy chung đôn hậu, cái liêmkhiết tự trọng, cái trong sáng thanh nhã, cái mực thước kín đáo, cái thâm thúy sâu sắc, cái nhạy12cảm tinh tế… trong cốt cách tâm hồn người Việt Nam đã được thừa hưởng, phát huy và thể hiệnhết sức tự nhiên, khéo léo trong nghệ thuật ngôn ngữ của thơ ca.Tú Xương cũng tương tự, người đời ai cũng phải công nhận ông là một thiên tài về thơtrào phúng. Tiếng cười trào phúng Tú Xương nhìn chung là tiếng cười mạnh mẽ, quyết liệtnhưng cũng có nhiều sắc thái, giọng điệu: có lúc dí dỏm, nhẹ nhàng, có lúc lại chua cay, độc địa,căm hờn. Đặc biệt ta thường nghe người đời truyền tụng về Tú Xương: “Kìa ai chín suối xươngkhông nát, Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.” [Lời tuyên đoán không sai này tương truyền chính làcâu đối của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương lúc ông qua đời.]Nhắc đến Tú Xương, Tản Đà cho rằng: “trong những thi sĩ tiền bối, tôi khâm phục nhấtTú Xương”. Nguyễn Công Hoan thì khẳng định: Tú Xương là “bậc thầy thơ thánh chữ”. CònXuân diệu thì ca tụng:Ông Nghè, ông Thám vô mây khói,Đứng lại văn chương một Tú tài.Tú Xương còn nổi tiếng đến độ, người ta cho rằng đất Nam Định có hai đặc sản: “Đọcthơ Xương, ăn chuối ngự”. Ông đã để lại một bản lĩnh thơ, một sự nghiệp văn học, một cốt cáchtrào phúng, trữ tình mà ít nhà thơ nào sánh kịp. Nói đến Trần Tế Xương, ai cũng phải công nhậncông là thiên tài và là bậc thầy trong thơ trào phúng. Đồng thời, Tú Xương còn là người đónggóp rất lớn vào việc cách tân thể thơ Đường luật, đưa thơ Nôm luật Đường trở thành thứ thơhoàn toàn tự nhiên, thoải mái, đến mức nó có thể đứng ngang hàng với lục bát và song thất lụcbát của dân tộc.Hơn một thế kỷ đã trôi qua, thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã tồn tại, đượclưu truyền, ghi chép cẩn thận rồi được sưu tầm chỉnh lý, xuất bản qua rất nhiều lần. Điều đó,chúng tỏ thơ văn của cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương không chỉ có ý nghĩa đối với tầng lớp tríthức đương thời mà đã thực sự trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần củanhiều thế hệ độc giả. Sáng tác của Nguyễn Khuyến và Tú Xương sẽ góp phần bổ sung, nuôidưỡng những xúc cảm thẩm mĩ cho mỗi người chúng ta hôm nay và có lẽ cả mai sau nữa.13KẾT LUẬN CHUNG:Tóm lại, việc so sánh Nguyễn Khuyến và Tú Xương trên cơ sở loại hình, khôngphải xác định ai hơn ai mà để từ đó ta thấy được tài năng cũng như phong cách của từng nhà thơ.Cho dù đã trải qua nhiều thế kỉ nhưng Nguyễn Khuyến và Tú Xương luôn để lại trong lòngngười đọc sự yêu mến, kính trọng: một cụ Tam Nguyên Yên Đổ nhẹ nhàng mà sâu sắc, một ôngTú Vị Hoàng sắc sảo và dữ dội. Chính vì thế, tên tuổi và tác phẩm của Nguyễn Khuyến và TúXương đã được lưu truyền từ xưa cho đến nay và sẽ còn vang danh mãi đến mai sau. Bởi vì“văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.14TÀI LIỆU THAM KHẢO[1] Nguyễn Văn Dân [2012], Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB KHXH, HàNội.[2] Mai Hương [Tuyển chọn, 2000], Tú Xương – Thơ, lời bình và giai thoại, NXB Văn hóaThông tin, Hà Nội.[3] Ngô Văn Phú [Biên soạn, 1998], Tú Xương con người và tác phẩm, NXB Hội Nhà văn.[4] Trần Đình Sử [2005], Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.[5] Vũ Thanh [2005], Nguyễn Khuyến – Tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục.[6] Đoàn Thị Thu Vân [Chủ biên, Tái bản, 2008], Văn học Trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục,Tp HCM.[7] Sách tham khảo dùng trong nhà trường, Nguyễn Khuyến – Tác phẩm và dư luận, NXB Vănhọc.15Thành viên nhóm1. Bùi Thị Kim Dung2. Nguyễn Thị Hồng2. Nguyễn Thị Thu Khanh3. Cao Quốc Sỉ4. Nguyễn Thị Thanh16

Chủ Đề