Phương pháp đo lường tâm lý xã hội học

Trong các ngành nghề đại học khác nhau, chủ đề xã hội học được nghiên cứu, bằng cách này hay cách khác. Nhưng, Chính xác phương pháp nghiên cứu này là gì, đặc điểm của nó là gì và mục tiêu của nó là gì??

Xã hội học là một phương pháp nghiên cứu định lượng [số] được sử dụng trong xã hội học, tâm lý học xã hội và các lĩnh vực liên quan. Nó nhằm mục đích đo lường các mối quan hệ xã hội trong một nhóm cụ thể, để đánh giá cả dữ liệu cá nhân và chung.

Xã hội học là gì và nó được sử dụng để làm gì??

Xã hội học góp phần áp dụng các phương pháp đo định lượng trong sự có của các nhóm và cấu trúc xã hội nhất định, và giúp chúng ta hiểu được năng lực, sự tương tác và sức khỏe tinh thần ở cả cấp độ nhóm và ở từng thành viên..

Phương pháp này được thiết kế bởi nhà tâm lý học và nhà trị liệu Jacob Levy Moreno. Kể từ khi thành lập, xã hội học đã là một công cụ rất có giá trị khi đánh giá và đo lường sự tương tác giữa các thành phần của các nhóm khác nhau, ví dụ như trong các lĩnh vực học thuật, giáo dục, lao động hoặc thể thao..

Phương pháp xã hội học sử dụng một số tài nguyên phương pháp luận theo phương pháp định lượng, ví dụ: bảng câu hỏi và khảo sát, thuộc về phổ của các phương pháp kiểm tra xã hội học.

Lịch sử xã hội học

Xã hội học ra đời vào đầu thế kỷ 20 tại Hoa Kỳ, nơi Jacob Levy Moreno cư trú. Khái niệm mới này đã tạo ra các phương pháp làm cho xã hội học trở thành một kỹ thuật có khả năng nghiên cứu, chẩn đoán và dự đoán động lực của tương tác nhóm và xã hội, cả trong các nhóm ít thành viên và trong bối cảnh xã hội phức tạp và quy mô hơn nhiều.

Ảnh hưởng của Jacob Levy Moreno

Bác sĩ tâm thần người Vienna và sinh viên của Sigmund Freud đã có liên hệ đầu tiên với nghiên cứu xã hội học khi ông hợp tác trong việc tổ chức một thuộc địa tị nạn ở nước mình. Do đó, trước tiên biết được những vấn đề khác nhau nảy sinh trong các nhóm người, Moreno đã cố gắng tổ chức các nhóm này và các thành viên của họ thông qua một kế hoạch xã hội học.

Từ năm 1925, Jacob Levy Moreno chuyển đến New York và trong bối cảnh đó, ông đã phát triển một cơ sở lý thuyết vững chắc cho phương pháp xã hội học của mình. Anh ta đã thử nghiệm phương pháp của mình trên quy mô lớn trong nhà tù Sing-Sing, tại thành phố nơi anh ta cư trú. Thử nghiệm này sẽ cung cấp cho bạn cái nhìn chi tiết hơn nhiều về nhiều biến số ảnh hưởng đến mối quan hệ cá nhân giữa các nhóm khác nhau trong một bối cảnh vật lý cụ thể.

Với dữ liệu thu thập được và sử dụng kinh nghiệm tốt nhất của mình, ông đã tinh chỉnh phương pháp và phát triển một phiên bản xã hội học bóng bẩy hơn, một hình thức trực quan dưới dạng sơ đồ cho phép nghiên cứu mối quan hệ tốt hay xấu giữa các cá nhân trong bối cảnh của một nhóm lớn hơn..

Từ thời điểm đó, Moreno sẽ công khai các xã hội học của mình trong cộng đồng khoa học và khoa học Mỹ. Phương pháp của ông được đánh giá theo một cách rất tích cực, và trở thành một phần của các công cụ được sử dụng và hiệu quả nhất tại thời điểm bắt đầu các phân tích định lượng và tâm lý xã hội.

Năm năm sau bản thảo đầu tiên của ông, đã ngoài ba mươi, Jacob Levy Moreno đã xuất bản một tác phẩm về các mối quan hệ giữa các cá nhân mà cuối cùng sẽ đặt nền móng của xã hội học. Chính từ thời điểm đó, phương pháp được tạo ra bởi Moreno trải qua một sự bùng nổ và được áp dụng trong nhiều bối cảnh và dự án. Trên thực tế, ông thậm chí còn có tạp chí học thuật chuyên ngành của riêng mình từ năm 1936. Ngoài ra, Viện Xã hội học ở New York, sau đổi tên thành Việnuto Moreno, được thành lập để vinh danh Jacob Levy.

Mục tiêu của xã hội học

Xã hội học theo đuổi các mục tiêu khác nhau và có cách sử dụng khác nhau. Theo chính Jacob Levy Moreno, các mục tiêu chính của xã hội học là như sau:

  • Đánh giá mức độ cảm thông mà một người thức tỉnh trong một nhóm người.
  • Tìm hiểu sâu hơn lý do tại sao điều này là như vậy.
  • Phân tích mức độ gắn kết giữa các thành phần khác nhau của cùng một nhóm.

1. Phát hiện những người bị từ chối

Một trong những mục tiêu của xã hội học là phát hiện và phân loại những cá nhân bị từ chối nhiều hơn bởi các thành phần khác của nhóm. Tương tự, nó cũng xử lý các trường hợp ngược lại: xác định và phân loại những cá nhân được đánh giá cao nhất bởi những người còn lại.

Theo cách này, mục tiêu là làm việc với người trước để thúc đẩy các kỹ năng xã hội của họ và tăng cường giao tiếp và quan hệ với những người còn lại, trong khi với giá trị nhất, năng lực lãnh đạo của họ có thể được nâng cao..

2. Phát hiện người bị cô lập

Một mục tiêu khác của xã hội học là phát hiện những người cho rằng mình bị cô lập hoặc cô lập khỏi nhóm. Làm thế nào được đo lường này? Họ là những cá nhân không tạo ra ảnh hưởng, tích cực hay tiêu cực, trong các động lực và mối quan hệ trong nhóm.

3. Phân tích tính năng động của nhóm

Một cơ hội khác mà nó cung cấp cho chúng tôi để có thể thấy trước, sau khi nghiên cứu động lực của nhóm, Làm thế nào nó sẽ phản ứng và thích ứng với những thay đổi nhất định, chẳng hạn như bao gồm các cá nhân mới hoặc sự ra đi của người khác.

Ba mục tiêu này có thể được tìm thấy bằng xã hội học trong bối cảnh giáo dục và chuyên nghiệp, đó là hai nhóm được phân tích phổ biến nhất bằng kỹ thuật này.

Phương pháp xã hội học hoạt động như thế nào?

Phương pháp xã hội học được phát triển bởi Jacob Levy Moreno thường được sử dụng trong bối cảnh giáo dục. Nó được sử dụng để có nhiều dữ liệu và các yếu tố phân tích về mức độ tương tác, sự cảm thông / ác cảm và sự gắn kết giữa các đồng nghiệp. Nó cũng phục vụ để phát hiện các mô hình tích cực nhất định hoặc bất đồng có thể tồn tại giữa một số thành viên này và cách các động lực này ảnh hưởng đến nhóm.

Các chức năng cơ bản của xã hội học về cơ bản là hai: thứ nhất, xác định các mối quan hệ cá nhân trong một nhóm. Cần lưu ý rằng xã hội học hiếm khi giải quyết việc nghiên cứu các nhóm lớn, để đảm bảo rằng các biến trong trò chơi có thể được xác định rõ. Đã phát hiện các mô hình hành vi trong nhóm, phương pháp được áp dụng, thông qua kiểm tra xã hội học.

Bài kiểm tra xã hội học là một bảng câu hỏi phải được hoàn thành bởi mỗi thành viên của nhóm đã được phân tích. Nó phải được quản lý mà không ảnh hưởng hoặc gây áp lực cho những người tham gia. Bài kiểm tra đề xuất các kịch bản khác nhau và cho phép người tham gia tự do lựa chọn thành viên nào khác muốn thành lập một nhóm nhỏ và lý do của họ. Theo cách này và thông qua các câu trả lời của từng thành viên, bạn có thể tìm hiểu tận mắt sự năng động trong nhóm và lý do tại sao mỗi người tham gia có sự đánh giá cao hơn hoặc ít hơn đối với các cá nhân khác.

Cuối cùng, phương pháp được sử dụng để đưa ra dự báo. Đó là, nó có thể giúp hình dung các động lực thích hợp và hiệu quả nhất để giải quyết căng thẳng giữa những người tham gia và kích thích các động lực tốt đã được phát hiện trong quá khứ..

Tài liệu tham khảo:

  • Forselledo, A. G. [2010]. Giới thiệu về xã hội học và các ứng dụng của nó. Montevideo: Đại học nghiên cứu cao hơn.
  • Jennings, H.H. [1987] Xã hội học trong quan hệ nhóm. Tái bản lần 2 Westport: Gỗ xanh.
  • Moreno, J. L. [1951]. Xã hội học, Phương pháp thí nghiệm và Khoa học xã hội: Cách tiếp cận một định hướng chính trị mới. Nhà Beacon.
  • Trang, J. 1988/9. Giáo dục và Acculturation ở Malaita: Một dân tộc học về mối quan hệ giữa các sắc tộc và liên sắc tộc. Tạp chí nghiên cứu liên văn hóa. 15/16: 74-81. Trực tuyến: //eprints.qut.edu.au/3566/

[Last Updated On: 03/07/2021]

Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu tâm lý người.

Các nguyên tắc phương pháp luận

– Nguyên tắc quyết định duy vật biện chứng

Nguyên tắc này khẳng định tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan tác động vào bộ não con người, thông qua “lăng kính chủ quan” của con người. Tâm lý định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động, hành vi của con người tác động trở lại thế giới, trong đó cái quyết định xã hội là quan trọng nhất. Do đó khi nghiên cứu tâm lý người cần thấm nhuần nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng.

– Nguyên tắc thống nhất tâm lý, ý thức, nhân cách với hoạt động

Hoạt động là phương thức hình thành, phát triển và thể hiện tâm lý, ý thức, nhân cách. Đồng thời tâm lý, ý thức, nhân cách là cái điều hành hoạt động. Vì thế chúng thống nhất với nhau. Nguyên tắc này cũng khẳng định tâm lý luôn luôn vận động và phát triển. Cần phải nghiên cứu tâm lý trong sự vận động của nó, nghiên cứu tâm lý qua sự diễn biến, cũng như qua sản phẩm của hoạt động.

– Phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong mối liên hệ giữa chúng với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng với các hiện tượng khác:

Các hiện tượng tâm lý không tồn tại một cách biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa cho nhau, đồng thời chúng còn chi phối và chịu sự chi phối của các hiện tượng khác.

– Phải nghiên cứu tâm lý của một con người cụ thể, của một nhóm người cụ thể, chứ không nghiên cứu tâm lý một cách chung chung, nghiên cứu tâm lý ở con người trừu tượng, một cộng đồng trừu tượng.

Các phương pháp nghiên cứu tâm lý

Để tiến hành nghiên cứu tâm lý có hiệu quả, điều quan trọng là xác định được một hệ thống các phương pháp nghiên cứu khách quan, phù hợp với đối tượng cần nghiên cứu. Thông thường người ta hay nói đến bốn nhóm phương pháp sau:

Phương pháp tổ chức việc nghiên cứu

Tổ chức việc nghiên cứu tâm lý bao gồm nhiều khâu có quan hệ chặt chẽ, từ việc chọn đối tượng nghiên cứu đảm bảo tính khách quan, có ý nghĩa về mặt khoa học và có tính chất cấp thiết phải giải quyết cho đến việc xác định mục đích việc nghiên cứu, xây dựng giả thiết khoa học, xác định nhiệm vụ nghiên cứu, lựa chọn các phương pháp nghiên cứu phù hợp; xây dựng kế hoạch nghiên cứu, tổ chứ lực lượng nghiên cứu vấn đề, chuẩn bị địa bàn nghiên cứu và các phương tiện, điều kiện cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu có kết quả.

Việc tổ chức tốt công việc nghiên cứu từ khâu chuẩn bị cho đến khâu triển khai nghiên cứu, thu thập số liệu, xử lý số liệu, phân tích, lý giải các kết quả thu được và rút ra kết luận phụ thuộc vào mục đích nhu cầu nhiệm vụ nghiên cứu và phụ thuộc vào trình độ, năng lực của nhà nghiên cứu.

Phương pháp thu thập số liệu

Có nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lý: quan sát, thực nghiệm, trắc nghiệm, trò chuyện, điều tra, nghiên cứu sản phẩm hoạt động, phân tích tiểu sử, …

– Phương pháp quan sát: quan sát được dùng trong nhiều khoa học, trong đó có tâm lý học.

  • Quan sát là loại tri giác có chủ định, nhằm xác định các đặc điểm của đối tượng qua những biểu hiện như: hành động, cử chỉ, cách nói năng,….
  • Quan sát có nhiều hình thức: quan sát toàn diện hay quan sát bộ phận, quan sát có trọng điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp,…
  • Phương pháp quan sát cho phép ta thu thập các tài liệu cụ thể, khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người, do đó có nhiều ưu điểm. Bên cạnh các ưu điểm nó cũng có những hạn chế sau: mất thời gian, tốn nhiều công sức, …
  • Trong tâm lý học, cùng với việc quan sát khách quan, có khi cần tiến hành tự quan sát [tự thể nghiệm, tự mô tả diễn biến tâm lý của bản thân, nhưng phải tuân theo những yêu cầu khách quan, tránh suy diễn chủ quan theo kiểu “suy bụng ta ra bụng người”].

Muốn quan sát đạt kết quả cao cần chú ý các yêu cầu sau:

  • Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
  • Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
  • Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống.
  • Ghi chép tài liệu quan sát một cách khách quan, trung thực.

– Phương pháp thực nghiệm: đây là phương pháp có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu tâm lý.

Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động, trong những điều kiện đã được khống chế, để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp lại nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một cách khách quan các hiện tượng cần nghiên cứu.

Người ta thường nói tới hai loại thực nghiệm cơ bản là thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên:

+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành dưới điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài, người làm thí nghiệm tự tạo ra những điều kiện để làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần nghiên cứu, do đó có thể tiến hành nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan sát và thực nghiệm tự nhiên.

+ Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện bình thường của cuộc sống và hoạt động. Trong quá trình quan sát, nhà nghiên cứu chỉ thay đổi những yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh, còn trong thực nghiệm tự nhiên nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra các biểu hiện và diễn biến tâm lý bằng cách khống chế một số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bật những yếu tố cần thiết có khả năng giúp cho việc khai thác, tìm hiểu các nội dung cần thực nghiệm. Tùy theo mục đích và nhiệm vụ mà người ta phân biệt các thực nghiệm tự nhiên nhận định và thực nghiệm hình thành:

  • Thực nghiệm nhận định: chủ yếu nêu lên thực trạng của vấn đề nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể.
  • Thực nghiệm hình thành [còn được gọi là thực nghiệm sử dụng]: trong đó tiến hành các tác động giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành một phẩm chất tâm lý nào đó ở thực nghiệm [bị thực nghiệm].

Tuy nhiên, dù thực nghiệm tiến hành trong phòng thí nghiệm hoặc trong hoàn cảnh tự nhiên cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm, vì thế phải tiến hành thực nghiệm một số lần và phối hợp đồng bộ với nhiều phương pháp khác.

– Test [trắc nghiệm]: Test là một phép thử để “đo lường” tâm lý đã được chuẩn hóa trên một số lượng người tiêu biểu.

Test trọn bộ thường bao gồm 4 phần:

  • Văn bản test.
  • Hướng dẫn qui trình tiến hành.
  • Hướng dẫn đánh giá.
  • Bản chuẩn hóa.

Trong tâm lý học đã có một hệ thống test về nhận thức, năng lực, test nhân cách, chẳng hạn:

+ Test trí tuệ của Bine – Ximong.

+ Test trí tuệ của D. Wechsler [WISC và WAIS]. Test trí tuệ của Raven.

+ Test nhân cách của Ayzen, Rôsát, Muray, …

Ưu điểm của test:

  • Có khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cần đo được trực tiếp bộc lộ qua hành động giải bài tập
  • Có khả năng tiến hành nhanh, tương đối đơn giản bằng giấy, bút, tranh vẽ, …
  • Có khả năng lượng hóa, chuẩn hóa chỉ tiêu tâm lý cần đo.

Tuy nhiên test cũng có những khó khăn, hạn chế:

  • Khó soạn thảo một bộ test đảm bảo tính chuẩn hóa.
  • Test chủ yếu cho ta kết quả, ít bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết quả.

Cần sử dụng phương pháp test như là một trong các cách chẩn đoán tâm lý của con người ở một thời điểm nhất định.

Phương pháp đàm thoại [trò chuyện]

Đó là cách đặt ra các câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để trao đổi, hỏi thêm, nhằm thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.

Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp, tùy sự liên quan của đối tượng với điều ta cần biết.

Có thể nói thẳng hay đi lòng vòng.

Muốn đàm thoại thu được tài liệu tốt nên:

  • Xác định rõ mục đích, yêu cầu [vần đề cần tìm hiểu].
  • Tìm hiểu trước thông tin về đối tượng đàm thoại với một số đặc điểm của họ.
  • Có một kế hoạch trước để “lái hướng” câu chuyện.
  • Cần linh hoạt trong việc “lái hướng” này để câu chuyện vẫn giữ được logic của nó, vừa đáp ứng yêu cầu của người nghiên cứu.

Phương pháp điều tra

Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó. Có thể trả lời viết [thường là như vậy], nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại.

Có thể điều tra thăm dò chung hoặc điều tra chuyên đề đi sâu vào một số khía cạnh. Câu hỏi dùng để điều tra có thể là câu hỏi đóng, tức là có nhiều đáp án sẵn để đối tượng chọn một hay hai, cũng có thể là câu hỏi mở, để họ tự do trả lời.

Dùng phương pháp này, có thể trong một thời gian ngắn thu thập được một số ý kiến của rất nhiều người nhưng là ý chủ quan. Để có tài liệu tương đối chính xác, cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra viên [người sẽ phổ biến bản câu hỏi điều tra cho các đối tượng] vì nếu những người này phổ biến một cách tùy tiện thì kết quả sẽ rất sai khác nhau và mất hết giá trị khoa học.

Phương pháp phân tích sản phẩm của hoạt động

Đó là phương pháp dựa vào các kết quả, sản phẩm [vật chất, tinh thần] của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người. Bởi vì trong sản phẩm do con người làm ra có chứa đựng “dấu vết” tâm lý, ý thức, nhân cách của con người. Cần chú ý rằng: các kết quả hoạt động phải được xem xét trong mối liên hệ với những điều kiện tiến hành hoạt động. Trong tâm lý học có bộ phận chuyên ngành “phát kiến học” [Oritxtic] nghiên cứu qui luật về cơ chế tâm lý của tư duy sáng tạo trong khám phá, phát minh.

Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân

Phương pháp này xuất phát từ chỗ, có thể nhận ra các đặc điểm tâm lý cá nhân thông qua việc phân tích tiểu sử cuộc sống của cá nhân đó, góp phần cung cấp một số tài liệu cho việc chẩn đoán tâm lý.

Tóm lại, các phương pháp nghiên cứu tâm lý người khá phong phú. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Muốn nghiên cứu một hiện tượng tâm lý một cách khoa học, khách quan, chính xác cần phải:

+ Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp với vấn đề nghiên cứu.

+ Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đem lại kết quả khách quan, toàn diện.

Các phương pháp xử lý số liệu

Quan sát, điều tra, tiến hành thực nghiệm, trắc nghiệm, … ta thu được nhiều tài liệu, số liệu cần phải xử lý để tạo thành các tham số đặc trưng có thông tin cơ động. Từ việc lượng hóa các tham số đặc trưng có thể rút ra những nhận xét khoa học, những kết luận tương ứng về bản chất, quy luật diễn biến của các chức năng tâm lý được nghiên cứu.

Thông thường người ta dùng các phương pháp xử lý số liệu theo phương pháp thống kê toán học để tính các tham số sau:

  • Phân phối tần số, tần suất.
  • Giá trị trung bình cộng.
  • Độ lệch trung bình, độ lệch chuẩn, trung vị, phương sai, hệ số biến thiên.
  • Tính các hệ số tương quan Pearson, hệ số tương quan thứ bậc
  • Phương pháp biểu thị kết quả nghiên cứu bằng các sơ đồ, biểu đồ, đồ thị,…

Phương pháp lý giải kết quả và rút ra kết luận

Trên cơ sở xử lý các số liệu thu được bằng các phương pháp thống kê, cần tiến hành phân tích, lý giải các kết quả thu được và rút ra kết luận khoa học. Việc lý giải được tiến hành theo hai khía cạnh trong một chỉnh thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau:

  • Phân tích mô tả, trình bày các số liệu thu được về mặt định lượng.
  • Phân tích lý giải các kết quả về mặt định tính trên cơ sở lý luận đã xác định, chỉ rõ những đặc điểm bản chất, những biểu hiện diễn biến có tính quy luật của đối tượng nghiên cứu.
  • Khái quát các nhận xét khoa học, rút ra những kết luận mang tính đặc trưng, khái quát về vấn đề được nghiên cứu.

Video liên quan

Chủ Đề