Sáng kiến kinh nghiệm một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn giáo dục thể chất

[Sáng kiến kinh nghiệm] một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [118.45 KB, 14 trang ]

CỢNG HÒA XÃ HỢI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Đợc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 T̉I

Quảng Bình, tháng 12 năm 2016


CỢNG HÒA XÃ HỢI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Đợc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI

Họ tên: Phan Thị Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường mầm non Thanh Thủy

Quảng Bình, tháng 12 năm 2016


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân,
chiếm vị trí quan trọng trong giáo dục Mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở


ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là hạnh phúc
của mọi gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không
phải chỉ là trách nhiệm của mọi người mà của toàn xă hội và của cả nhân loại. Đây là
thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất. Thời điểm này tất cả mọi việc đều bắt đầu: bắt
đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và vận động bằng đơi chân, đơi tay của
mình.... Tất cả những cử chỉ đó đều làm nên nhưng thói quen, kể cả thói xấu. Vì vậy
chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống là một
việc làm hết sức cần thiết, và có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong sự nghiệp chăm lo
đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ, trở thành những con người tương lai của đất nước.
Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và bảo
vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Vì thế giáo dục con
người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi con người đối
với xã hội, đối với cộng đồng. Trẻ em là công dân của xã hội, là thế hệ tương lai của
đất nước nên ngay từ thuở lọt lòng chúng ta cần chăm sóc giáo dục trẻ thật chu đáo.
Đặc biệt giáo dục thể chất cho trẻ càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi trong nghị
quyết trung ương 4 về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe của nhân dân có ghi rõ: “ Sức khỏe là cái vốn quí nhất của mỗi con người và của
toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Giáo
dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển tồn diện, có mối quan
hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và lao động. Hơn nữa giáo dục thể chất
cho trẻ mầm non càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi cơ thể trẻ đang phát triển mạnh
mẽ, hệ thần kinh, cơ xương hình thành nhanh, bộ máy hơ hấp đang hồn thiện, cơ thể
trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch lạc, mất cân đối nếu khơng được chăm sóc giáo
dục đúng đắn thì có thể gây nên hậu quả trong sự phát triển cơ thể trẻ mà không thể
khắc phục được. Nhận thức được điều đó. Đảng và nhà nước ta những năm gần đây
đặc biệt chú trọng tới công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Vì vậy giáo dục thể
chất là một trong những nội dung giáo dục quan trọng của nhà trường nhằm đào tạo
thế hệ trẻ Việt Nam phát triển trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần
và trong sáng về đạo đức. Trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, nhiệm
vụ giáo dục thể chất được hoàn thành bằng các hình thức khác nhau. Hình thức giáo

dục thể chất ở trường mầm non là sự tổng hợp giáo dục về những hoạt động vận động
nhiều dạng của trẻ, mà cơ bản là tính tích cực vận động của chúng. Sự tổng hợp
những hình thức đó tạo nên một chế độ vận động nhất định, cần thiết cho sự phát triển
đầy đủ về thể chất và củng cố sức khỏe cho trẻ. Ở trường mầm non sử dụng hình thức
giáo dục thể chất qua các tiết học Thể dục sáng, thể dục giờ học được tiến hành với
tất cả các lớp mẫu giáo, nhưng trong các hình thức đó đòi hỏi giáo viên phải chọn lọc
những bài tập vận động và phương pháp tiến hành phù hợp với từng độ tuổi nhất định.
Ngoài ra giáo viên cần chú ý hướng đến việc giáo dục trí tuệ, cảm xúc, điều khiển


hành vi vận động ở trẻ, giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của nhiệm vụ đó, giáo viên đề ra
trẻ thực hiện tốt hoạt động của mình. Thực tế hiện nay trong trường tôi. Bản thân thấy
rằng sự quan tâm đúng mức đến thể dục cho trẻ thực sự chưa đầy đủ lắm. Chính vì
vậy tơi đã chọn đề tài:“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phát triển
thể chất cho trẻ mẩu giáo 5 - 6 tuổi ” làm đề tài nghiên cứu nhằm phát triển
một cách tồn diện cho trẻ, góp phần phát huy tính tích cực vận động của trẻ một cách
có hiệu quả hơn.
2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp :
Phạm vi tôi nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể
chất cho trẻ 5 - 6 tuổi" tại trường mầm non nơi tôi đang công tác.
* Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp
Với đề tài này tôi đã đưa ra 5 giải pháp, song điểm mới của đề tài mà tôi chú
trọng là làm thế nào để thu hút những trẻ nhút nhát, thiếu tự tin tham gia vào hoạt
động giáo dục phát triển thể chất và cách tổ chức các hình thức giáo dục phát triển thể
chất thơng qua các hoạt động thể dục trên tiết học cũng như các hoạt động khác. Vì nó
có tầm quan trọng trong chương trình giáo dục trẻ em ở lứa tuổi mầm non đặc biệt là
trẻ 5-6 tuổi trong chương trình giáo dục mầm non, lĩnh vực phát triển thể chất rất gần
gũi với trẻ là hoạt động được chú ý nhiều nhất trong các hoạt động hằng ngày, và nó
được coi là phương tiện thiết thực cho các hoạt động giáo duc, nói cách khác phát
triển thể chất là bộ phận khơng thể tách rời trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ.

Tham gia vào các hoạt động phát triển thể chất giúp trẻ tăng cường và bảo vệ
sức khỏe ngoài ra tham gia vào các hoạt động này còn giúp trẻ tích lũy và hình thành
cho trẻ các tố chất vận động như: nhanh nhẹn, khéo léo, bền bỉ…

II. PHẦN NỢI DUNG
1. Thực trạng của nợi dung cần nghiên cứu
Năm học 2016 – 2017 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 5 - 6
tuổi, gồm 30 cháu, trong đó số cháu nam 18 cháu, nữ 12 cháu. Điều kiện về cơ sở vật
chất,trang thiết bị đồ dùng đồ chơi trong lớp tương đối đầy đủ. Ban giám hiệu thường
xuyên dự giờ chỉ đạo giúp đỡ chuyên môn cho giáo viên, cấp phát tài liệu, tạo điều
kiện động viên cho giáo viên sưu tầm các nguyên vật liệu làm đồ dùng, đồ chơi để
phục vụ dạy học, và giúp đỡ tận tình của các bậc phụ huynh, sự quan tâm sâu sắc của
Phòng Giáo dục & Đào tạo đặc biệt là cấp học Mầm non.
Bản thân đã công tác nhiều năm trong nghề, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm,
ln học hỏi ở bạn bè, đồng nghiệp, có năng lực sư phạm, bên cạnh đó cũng có những
hạn chế
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà trường còn hạn chế
- Một số trẻ thể lực còn yếu, chưa mạnh dạn, tự tin trong luyện tập
- Trường chưa có khu phát triển thể chất tập riêng biệt
- Một số dụng cụ thể dục chưa được phong phú .
- Nhận thức của phụ huynh về môn giáo dục thể chất không quan trọng mà chỉ
là một môn phụ không cần quan tâm.


Dựa vào mục tiêu giáo dục mầm non nói chung và yêu cầu cần đạt của lứa tuổi Mẫu
giáo lớn nói riêng, về nhận thức, trí tuệ, ngơn ngữ, đặc biệt là thể lực,và các nhu cầu
của trẻ để từ đó tơi tìm hiểu và đưa ra một số giải pháp hình thức tổ chức phát
triển tính tích cực vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ. Đây là một việc cần thiết
vì nó mang lại cho mỗi đứa trẻ niềm vui, sự tự tin, sự mạnh dạn và có một sức khỏe
tốt tham gia vào tất cả các hoạt động trong gia đình, trong nhà trường và xã hội. Vì

vậy đây là việc làm cần thiết giúp trẻ phát triển một cách tồn diện.
Chính vì những lí do trên vào đầu năm học tôi tiến hành khảo sát trẻ kết quả như
sau :

Nội dung
Số cháu Đầu năm
Sự tập trung chú ý, hứng thú của trẻ khi tham gia vận động
10/27
35%
Trẻ tích cực tự giác trong giờ học
7/27
25%
Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có thể lực tốt
15/27
55%
Trẻ có các kỹ năng kỹ xảo vận động tốt
11/27
40%
Với ý nghĩa và tầm quan trọng, những thuận lợi, khó khăn, kết quả trên, tơi
ln trăn trở, suy nghĩ, và tìm được một số giải pháp sau:
2. Các giải pháp:
Giải pháp 1: Lập kế hoạch tổ chức cho trẻ vận động và xây dựng góc vận đợng
- Dựa trên kế hoạch năm học của nhà trường xây dựng và căn cứ vào nội dung
trong chương trình theo độ tuổi, căn cứ vào thời gian, thời điểm thực hiện bài tập ở
vào giai đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ vào mức độ phát triển,
khả năng thực tế của trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung các vận động tập
luyện cho trẻ, xác định độ khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào
hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi từ dễ đến khó đảm bảo củng cố, phát triển những vận
động trẻ đã biết, đồng thời chuẩn bị những kỹ năng vận động cao hơn. Nội
dung trong chương trình đã được trình bày theo từng loại vận động và theo mức độ

tăng dần từ dễ đến khó, đồng thời phù hợp với từng chủ đề, các hoạt động khác và
các sự kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức tôi thấy yên tâm và thực hiện có hiệu
quả.
Sau khi xây dựng kế hoạch nội dung các vận động tập luyện cho trẻ, tôi tiếp tục
xây dựng “góc vận động”, để thuận tiện cho trẻ sử dụng đồng thời tuyên truyền
đến tất cả các bậc phụ huynh, tơi chọn vị trí trước cửa lớp. Sắp xếp các đồ
dùng dụng cụ để cho trẻ dễ lấy, dễ sử dụng, đến mỗi hoạt động như thể dục sáng, thể
dục giờ học , hoạt động ngồi trời trẻ có thể tự lấy đồ dùng đồ chơi để thực hiện vận
động mà giáo viên yêu cầu. Ngoài ra khi xây dựng góc vận động trẻ có thể tự tham
gia vận động khi trẻ được bố mẹ đón và chơi ở sân trường, trẻ có thể rủ bạn cùng tập
lại bài tập mà buổi sáng đã học cho bố mẹ xem. Khi đả có góc vận động tơi nhận thấy
trẻ lớp tôi tiến bộ nhiều hơn, trẻ tham gia vận động tự nhiên và tích cực hơn, đồng
thời phụ huynh lớp tôi thấy được rõ hơn tầm quan trọng của giáo dục thể chất, từ đó
quan tâm hơn đến sự vận động của con mình, từ vận động này, đến vận động kia con
mình thực hiện được đến đâu, có thực hiện tốt bài tập khơng, có mạnh dạn tự tin khi
trèo thang hay đi trên cầu thăng bằng như thế nào,...
* Thống nhất với giáo viên trong lớp


- Sau khi lập xong kế hoạch tổ chức các hoạt động vận động cho trẻ ở lớp mình tơi
trao đổi cùng cô ở lớp để thống nhất cách tổ chức và cùng nhau bàn bạc cách thực
hiện, tìm ra những hình thức tổ chức cho trẻ tham gia vận động trong cũng như
ngoài tiết học thu hút sự tham gia của trẻ. Đặc biệt khi thống nhất với giáo viên
trong lớp, khi đến tiết học giáo dục thể chất, giáo viên nào thực hiện bài dạy cũng có
thể truyền thụ kiến thức đến trẻ một cách tốt nhất và đồng nhất.
Giải pháp 2: Tập luyện thường xuyên liên tục đúng giờ [Đối với thể dục sáng]
- Như chúng ta đã biết, tác dụng của thể dục buổi sáng đối với trẻ em hàng ngày có ý
nghĩa to lớn về giáo dục sức khỏe cho trẻ em, đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi mầm non. Buổi
sáng ngay sau khi ngủ dậy tập thể dục đơn giản, trẻ tích lũy được sự sảng khoái cho
cả ngày. Tập luyện thường xuyên như vậy, cơ thể của trẻ nâng cao hoạt động của các

cơ quan của cơ thể, thúc đẩy sự phát triển những kỹ năng vận động cần thiết,
củng cố các nhóm cơ, hình thành tư thế đúng đắn cho trẻ. Vì vậy tơi cho trẻ tập thể
dục sáng hàng ngày vào một thời gian nhất định sau giờ đón trẻ. Trang bị dụng cụ như
gậy, vòng, cờ, nơ .... phù hợp với động tác để tạo hứng thú cho trẻ tập, khi trẻ tập giáo
viên quan sát cách đứng của trẻ, tư thế đầu, vai, mông và đặc biệt là cột sống của trẻ.
Trẻ cần đứng thẳng, vai thả lỏng, không lên gân, tay cử động thoải mái, không cúi
đầu. trẻ giử đúng tư thế khi đứng, khi nghỉ, khi đi bộ, chạy và làm các cử động khác.
Số lần lặp lại mỗi bài tập phụ thuộc vào tính chất mỗi động tác, phù hợp với thể lực
của trẻ. Những bài tập khó, có khối lượng vận động lớn chỉ nên lặp lại 2- 3 lần, còn
động tác phát triển chung đối với tay, chân thì tập từ 4- 6 lần. Chọn động tác và sắp
xếp bài tập cho trẻ cần theo một số quy định. Trước hết động tác phải phù hợp và hấp
dẫn đối với trẻ. Bài tập phải có tác động hồn thiện kĩ năng đi, chạy, trèo, ném, thúc
đẩy sự hình thành tư thế đúng, tạo sự hoạt động tích cực của các cơ quan hơ hấp, tuần
hồn, các nhóm cơ...
* Khuyến khích tính tự giác và tích cực ở trẻ
Giáo dục thể chất cho trẻ là một quá trình sư phạm, vì thế giáo viên không
những dạy cho trẻ biết bắt chước, mô phỏng, làm đúng được các động tác vận động
mà còn phải thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng cho trẻ có ý thức tự giác, tích cực, khả
năng chịu đựng và tập trung ý chí trong hoạt động thể dục thể thao. Giờ học giáo dục
thể chất thường đòi hỏi trẻ phải vận động, khơng nên cho trẻ vận động q sức, vì cơ
thể trẻ còn non nớt, khả năng tập trung kém, khiến trẻ khó mà theo kịp được
nội dung bài học. Nhiệm vụ của cô là phải thường xuyên bồi dưỡng cho trẻ
có thói quen lắng nghe những lời hướng dẩn trong quá trình tập luyện cho trẻ.
Giải pháp 3: Xây dựng mơi trường kích thích tính tích cực vận đợng của trẻ,
và các hình thức tập
Mơi trường ln đặt ra cho trẻ những thử thách, tìm tịi, khám phá trong các
hình thức hoạt động phát triển vận động hấp dẫn, lơi cuốn trẻ tích cực hứng thú tham
gia vận động một cách tự nguyện và tự giác: Môi trường cần cung cấp cho trẻ em
nhiều cơ hội để thực hiện các hoạt động phát triển vận động phù hợp “Chỉ khi ở trong
một môi trường thuận lợi đứa trẻ mới có cơ hội phát triển đầy đủ và bộc lộ những

tính cách tiềm ẩn của mình” [M.Montessori]. Mơi trường kích thích nhu cầu trải
nghiệm và thử thách khả năng vận động của trẻ.


Làm thế nào giáo viên có thể tạo ra mơi trường kích thích trẻ tích cực vận
động hiệu quả?
Mơi trường trong lớp: cần sắp xếp một khoảng không gian đủ rộng, có thể tận
dụng hành lang để những trẻ dư cân béo phì tăng cường vận động, có thể tổ chức
những vận động rèn luyện khả năng giữ thăng bằng, phát triển tố chất khéo léo, mạnh
mẽ: Đi thăng bằng trên dây thừng hoặc trên ghế thể dục, ném còn, ném vịng vào cổ
chai. Ngồi ra nên treo các quả bóng ở độ cao thấp khác nhau để trẻ có thể nhảy lên
đánh bóng, một vài thùng giấy để trẻ bị chui qua đường hầm, những hình khối để trẻ
có thể tự sắp xếp leo trèo, bật nhảy…
Mơi trường ngồi trời tạo cho trẻ nhiều cơ hội được trải nghiệm thử thách vận
động. Tất cả những trị chơi ngồi trời đều giúp trẻ phát triển sự thăng bằng, dẻo dai
và khả năng phối hợp. Thiết bị để trẻ leo trèo phải được đảm bảo an tồn. Khoảng đất
phía dưới đồ chơi phải mềm để đở cho trẻ khi ngã. Những đồ chơi để trẻ leo trèo:
Thang leo hình chữ A, thang leo hình chữ A bằng dây thừng, thắt nút. Ngồi ra tận
dụng các lốp xe để trẻ có thể bị chui hoặc làm xích đu.
a. Thơng qua hình thức trò chơi:
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ tuổi mẫu giáo, trong đó trị
chơi vận động có vai trị to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Vì
thế giáo viên phải tạo cho trẻ bầu khơng khí thật sự hứng thú, tích cực để trẻ bộc lộ
khả năng, kĩ năng trong khi thực hiện vận động của mình, từ đó giáo viên sẽ có những
điều chỉnh kịp thời nhằm giúp cho việc rèn luyện kĩ năng vận động của trẻ được hiệu
quả hơn.
Trị chơi có tác dụng nhằm gây hứng thú cho trẻ đến bài tập vận động, giúp trẻ
thực hiện nhiều lần mà không nhàm chán, đánh giá được tương đối khách quan kết
quả vận động của trẻ. Khi tham gia vào trị chơi, trẻ vận động tích cực hơn, tự nhiên,
thoải mái, có tác dụng củng cố và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận động phát triển tố

chất. Khi chơi trò chơi vận động, hệ vận động được củng cố, các hệ cơ bắp của cơ thể
trở nên rắn chắc hơn, các khớp xương và dây chằng trở nên linh hoạt, có tác dụng
củng cố, tăng cường sức khỏe cho trẻ, tạo điều kiện cho việc rèn luyện thể lực, củng
cố kĩ năng vận động trong điều kiện thay đổi. Hoạt động trị chơi mang tính tổng hợp
và được xây dựng kết hợp với những kĩ năng vận động khác nhau như chạy, nhảy,
bị…trong khi chơi trẻ có khả năng giải quyết bài tập mới xuất hiện một cách sáng
tạo, thể hiện tính độc lập, nhanh trí trong việc lựa chọn cách thức vận động, những
tình huống biến đổi bất ngờ trong q trình chơi, sẽ kích thích trẻ thực hiện nhanh
hơn, khéo léo hơn.
Hình thức này tiến hành dưới hai dạng:
- Đưa yếu tố chơi vào bài tập. Ví dụ: “Trườn sấp” giống như các chú bộ đội, “vươn
thở” cho trẻ bắt chước gà gáy, thổi bóng, ngửi hoa, “bò” như chuột, nhảy qua rảnh
nước, nhảy như thỏ.
- Sử dụng trò chơi vận động để tiến hành bài tập. Ví dụ trị chơi “đuổi bắt” vận động
chạy, “chng reo ở đâu?” rèn luyện khả năng định hướng âm thanh, khơng gian
cho trẻ.
b. Thơng qua hình thức thi đua:


Mục đích của tinh thần thi đua nhằm hồn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động
ở mức độ cao và rèn luyện phẩm chất đạo đức như lòng tự trọng, tinh thần đồng đội
cho trẻ. Thi đua làm tăng hứng thú, tăng khả năng vận động, phát triển các tố chất vận
động, kích thích, lơi cuốn trẻ vào việc tập luyện.
Hình thức thi đua tiến hành dưới hai dạng:
*Thi đua cá nhân: Chọn các cháu ngang sức, mức độ thực hiện động tác gần
ngang nhau, để tránh gây nản chí giữa các cháu. Lúc đầu, tơi u cầu trẻ thực hiện
đúng bài tập: “ai bò đúng”, “ai ném đúng”, sau đó địi hỏi cao hơn. Ví dụ: “thi xem ai
bật giỏi”, “thi xem ai chạy nhanh tới cờ”, “thi xem ai bật nhanh qua vòng”.
*Thi đua đồng đội: Phân chia đội làm sao cho tương đối vừa sức, số lượng bằng
nhau, yêu cầu tổ chức nhanh, các đội bắt đầu thực hiện cùng một lúc. Trước khi bắt

đầu cuộc thi, nên cho trẻ nhắc lại điều kiện của cuộc thi. Sau khi chơi xong, cô là
người phân xử thắng thua một cách khách quan, thì sẽ có tác dụng giáo dục sự công
bằng trong một tập thể trẻ nhỏ.
Chú ý: Khi sử dụng hình thức thi đua, cần tránh để trẻ hưng phấn quá mức,
tránh gây những kích thích căng thẳng thần kinh làm ảnh hưởng không tốt đến hành vi
và trạng thái của trẻ. Cần lưu ý đến thời gian mà trẻ vận động và tham gia thi đấu,
điều khiển lượng vận động cho trẻ sao cho phù hợp.
c. Thông qua tổ chức ngày hội ngày lễ:
Trẻ được thực hiện các vận động theo một trình tự đã được sắp xếp. Trong ngày
hội này, tất cả các trẻ đều được tham gia thể dục, thể thao một cách tích cực, hào hứng
sơi nổi, qua đó thúc đẩy các hoạt động tập thể, tạo khơng khí náo nức cho trẻ vì trẻ
được tham gia “ biểu diễn”, “thi tài” của lớp mình cho các bạn xem. Trong quá trình
hoạt động tập thể như vậy sẽ phát triển ở trẻ tính linh hoạt, mạnh dạn tự tin hơn, tinh
thần tập thể và để lại cho trẻ ấn tượng cảm xúc vui vẻ, phấn khởi, óc thẩm mỹ về cái
đẹp khi vận động của các “ vận động viên tí hon”.
Cơng tác tuyên truyền đến phụ huynh cũng vô cùng quan trọng. Tổ chức hướng
dẫn nội dung đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường trong các cuộc họp hội
đồng, sinh hoạt chuyên môn. Triển khai nội dung tới các bậc phụ huynh trường thông
qua trao đổi hàng ngày, qua các góc tuyên truyền.
Tổ chức cho trẻ phát triển vận động dưới nhiều hình thức phù hợp với lịch sinh
hoạt hàng ngày đối với trẻ mầm non, tạo cảm giác thoải mái, vui vẻ cho trẻ khi tham
gia hoạt động và thu hút trẻ tham gia. Sưu tầm và sáng tác trò chơi vận động phù hợp
với trẻ. Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động phát triển vận động dưới các hình
thức: chơi tự do, thi bé khéo tay, hội khỏe Bé mầm non…
Điều quan trọng phải nhớ là, tuổi mầm non không chỉ cần quan tâm đến sự phát
triển trí tuệ, đây là thời điểm đặt nền móng cho sức khỏe lâu dài sau này của con
người.
Giải pháp 4: Lựa chọn hình thức tổ chức phong phú đa dạng.
Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ, chúng ta tiến hành thông qua
nhiều hình thức giáo dục như trong tiết học và ngồi tiết học, bao gồm thể dục sáng,

thể dục chống mệt mỏi, trò chơi vận động, dạo chơi, thăm quan, hội khỏe, giáo dục cá
biệt, nhưng hình thức tiết học là cơ bản vì trên tiết học thể dục, các tri thức, kỹ năng,


kỹ xảo vận động được truyền thụ một cách có mục đích, hệ thống, tổ chức và có kế
hoạch. Tồn bộ nội dung giáo dục thể chất được diễn ra trên tiết học, cịn các hình
thức khác chỉ rèn luyện một khía cạnh nào đó của giáo dục thể chất. Hiệu quả của
việc phát triển tính tích cực vận động không chỉ phụ thuộc vào cách lựa chọn các
phương pháp dạy học, mà cịn phụ thuộc vào các hình thức tổ chức. Trong tiết học
giáo dục thể chất tôi đã sử dụng các hình thức sau:
- Hình thức tập cả lớp đồng loạt: Khi áp dụng hình thức này có nghĩa là tôi cho tất cả
trẻ cùng thực hiện một bài tập vận động giống nhau. Hình thức dạy học này cho phép
giáo viên hướng dẩn trẻ hoạt động cùng một lúc thực hiện, tăng lượng vận động, tạo
điều kiện củng cố kỹ năng vận động, phát triển tố chất thể lực, tính tập thể, khả năng
phối hợp vận động khi thực hiện bài tập. Ví dụ: Khi dạy trẻ bài tập: “Nhảy lị cị” tơi
cho trẻ tập đồng loạt tại chỗ.
- Hình thức tập cả lớp – nối tiếp: Khi áp dụng hình thức này, tơi cho trẻ cùng thực
hiện một bài tập, liên tiếp trẻ nọ nối tiếp trẻ kia. Có thể một nhóm có từ 3 – 5 trẻ tập
xong bài tập rồi tiếp theo đến nhóm khác, giống như tập quay vịng. Tập theo nhóm
nối tiếp trẻ rất hứng thú và thi đua nhau tập.
.- Hình thức tập theo nhóm: Khi áp dụng hình thức này, trong thời gian cho trẻ thực
hiện tôi chia lớp thành 2 hoặc 3 nhóm , mỗi nhóm tập bài tập ở các vị trí khác nhau và
có giáo viên hoặc trẻ có năng lực tổ chức phụ trách. Trong khi thực hiện bài tập theo
nhóm, nếu vận động mới có một bài tập vận động cơ bản thì tập theo kiểu nhóm
khơng chuyển đổi, các nhóm tập xong bài tập thì cả lớp chuyển sang phần tiếp theo
của buổi tập…. Tơi đưa hình thức tập theo nhóm này vào buổi tập giúp cho trẻ phát
triển khả năng tự lực và tự tổ chức theo tốp nhỏ, tăng lượng vận động và rèn luyện kỹ
năng vận động cho trẻ.
- Hình thức tập cá nhân : Khi tiến hành hình thức này, trẻ tập lần lượt một bài tập,
giáo viên hướng dẫn, kiểm tra bài tập, các trẻ còn lại quan sát và nhận xét ưu, nhược

điểm của trẻ khi thực hiện bài tập
Giải pháp 5: Sử dụng đồ dùng trực quan, xây dựng bài tập vận đợng đảm bảo
tính khoa học và hệ thống , đảm bảo tính vừa sức
Trẻ mầm non có tư duy và nhận thức theo lối trực quan cảm tính, vì vậy mọi
hoạt động giảng dạy đối với lứa tuổi này đều cần phải sử dụng những hình mẫu trực
tiếp và hấp dẫn. Giáo viên cần hình thành cho trẻ những thói quen vận động dựa trên
cơ sở cảm giác một cách trực tiếp với động tác. Có hai hình thức giảng dạy trực quan
là làm mẫu trực tiếp cho trẻ quan sát [trực quan trực tiếp] và dùng lời nói để mơ tả
động tác kèm với phim, ảnh, mơ hình cho trẻ hình dung ra cách tập [trực quan gián
tiếp]. Khi dạy giáo dục thể chất cho trẻ mầm non cô cần phải phối hợp vận dụng cả
hai loại trực quan trên, nhất là ở giai đoạn đầu khi mới học động tác vì ở giai đoạn
này, nguyên tắc trực quan là tiền đề để trẻ tập và làm quen với động tác mới.
Xây dựng bài tập vận động đảm bảo tính khoa học và hệ thống, bảo đảm tính
vừa sức và coi trọng đặc điểm cá nhân của trẻ . Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý lứa
tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ, khả năng tiếp thu của trẻ mầm non, giáo viên cần
phải xây dựng bài tập sao cho phù hợp, cân đối vận động giữa chân và tay, giữa cơ
quan vận động và cơ quan nội tạng, giữa các tố chất nhanh, mạnh, bền, khéo của cơ


thể…Việc giảng dạy giáo dục thể chất cần phải có hệ thống cụ thể toàn diện như vậy,
Giáo viên cần nâng dần độ khó của các bài tập để cơ thể trẻ quen dần với vận động,
các cơ quan và hệ thống trong cơ thể tăng dần khả năng thích ứng. Trong khi đưa vào
giảng dạy cũng cần lưu ý dạy từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, khối lượng vận
động từ ít đến nhiều, và phải thường xuyên luyện tập, thường xuyên theo dõi, cập nhật
tình trạng phát triển của trẻ
- Lồng ghép các bài hát vào tiết thể dục và đưa bài tập Erobic vào bài tập phát
triển chung theo chương trình giáo dục trẻ mầm non cấu trúc một tiết học giáo dục thể
chất bao gồm 3 phần: Khởi động, Trọng động, Hồi tĩnh. Thường các giáo viên tổ
chức phần khởi động cho trẻ hát bài: “ Một đoàn tàu” đi các kiểu chân sau đó về hàng
tập bài tập phát triển chung là các động tác hô hấp, tay, chân, bụng, bật với nhịp hô

của cô… Nếu tiết thể dục nào tôi cũng cho trẻ tập như vậy thì trẻ sẽ chán, uể oải trong
giờ học, khơng phát huy tính tích cực vận động ở trẻ, trẻ sẽ không đạt chỉ số 14:
“Tham gia hoạt động học tập liên tục và khơng có biểu hiện mệt mỏi trong khoảng 30
phút” Vì vậy tơi đã mạnh dạn đưa yếu tố âm nhạc vào trong giờ dạy thể dục. Cụ thể:
Với phần khởi động tôi dẫn dắt cho trẻ hát một bài hát phù hợp với chủ đề và đi khởi
động kết hợp các kiểu chân.. sau đó cho trẻ về đội hình hàng dọc điểm số, tách hàng
để tập bài tập phát triển chung. Bài tập phát triển chung tôi lựa chọn là bài tập Erobic
có động tác phù hợp với bài tập vận động cơ bản đầy đủ các động tác tay - chân bụng - bật có nhịp đầy đủ, có động tác nhấn mạnh cho vận động cơ bản. Và khi tập
vận động cơ bản, q trình trẻ tập tơi cho trẻ tập cùng nhạc, nhạc là những bài hát phù
hợp với chủ đề, khi tập cùng bài hát trẻ rất hào hứng thực hiện bài tập của mình. Đến
phần hồi tĩnh tôi cho trẻ vận động nhẹ nhàng như: Tập dưỡng sinh, yoga,... kết hợp
với nhạc du dương, nhẹ nhàng tạo cho trẻ thấy thoải mái và vui vẻ hoàn thành bài tập.
Khi đưa biện pháp này vào dạy trẻ trong tiết học giáo dục thể chất tôi thấy trẻ lớp tôi
học tốt hơn, hứng thú hơn và kiến thức, kỹ năng của trẻ được nâng lên rõ rệt
*Tổ chức cho trẻ giao lưu vận động với các trẻ lớp khác trong khối
Khi trẻ đến trường học trẻ được tham gia học tập vui chơi cùng các bạn ở lớp của
mình . Để mở rộng mối quan hệ bạn bè không những ở trong lớp mà với các bạn ở lớp
khác để trẻ được giao lưu học hỏi, giúp trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, mạnh dạn
chia sẻ cảm xúc và thể hiện mình, trẻ giao lưu và trực tiếp tham gia hoạt động tôi đã
cho trẻ tham gia giao lưu cùng các trẻ khác trong khối, trong các chủ đề và ngày lễ hội
Bên cạnh đó tơi tổ chức cho trẻ tham gia vận động ở mọi lúc, mọi nơi để củng
cố và nâng cao khả năng vận động cho trẻ. Biện pháp này rất cần thiết để đảm bảo và
giữ vững kết quả của bài tập trước và duy trì thói quen vận động đã tiếp thu được,
đồng thời củng cố sự bền vững cho những thói quen này trong cơ thể. Để vận dụng
giải pháp này trong giảng dạy giáo dục thể chất, giáo viên cần cho trẻ tập đi tập lại
động tác thật nhiều lần để trẻ hình thành phản xạ có điều kiện với động tác đó.. Sau đố
tổ chức cho trẻ tham gia vận động ở mọi lúc, mọi nơi.
Qua một năm tiến hành và sửa đổi theo nhiều cách khác nhau để tìm ra những
giải pháp tốt nhất cho cháu khi hoạt động và tôi nhận thấy đa số cháu trở nên nhanh
nhẹn, chủ động trong mọi hoạt động rõ rệt, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm 100%, trẻ

béo phì giảm 68%. Trẻ khỏe mạnh phát triển cân đối, hài hịa về hình thái và chức


năng cơ thể của trẻ. Phát triển các tố chất nhanh, mạnh, khéo, bền; phát triển khả năng
định hướng trong khơng gian. Có khả năng vận động và phối hợp vận động tốt, có ý
thức giữ gìn sức khỏe bản thân, thích hoạt động, mạnh dạn, tự tin, có ý thức kỷ luật
khi tham gia các hoạt động thể chất, phát huy các tố chất vận động khéo léo, kiên trì,
bền bỉ, dẻo dai, đáp ứng yêu cầu mong đợi của chương trình GDMN đối với các độ
tuổi và các chỉ số phát triển thể chất trong bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi:
Từ đó phụ huynh lớp tơi cũng quan tâm hơn tới khả năng vận động của con mình.
Kết quả khi sử dụng các giải pháp trên như sau:
Nội dung
Số cháu Cuối
năm
Sự tập trung chú ý, hứng thú của trẻ khi tham gia vận động
27/27
100%
Trẻ tích cực tự giác trong giờ học
27/27
100%
Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có thể lực tốt
26/27
96,3%
Trẻ có các kỹ năng kỹ xảo vận động tốt
27/27
100%

III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp
Qua một năm tổ chức tăng cường tính tích cực vận động cho trẻ. Lớp tơi trẻ

khỏe mạnh, trẻ tăng cân đều, tình trạng dư cân béo phì của lớp giảm rõ rệt, tỉ lệ trẻ
mắc các bệnh truyền nhiễm khơng cịn, trẻ đến trường chun cần hơn. Tôi nhận thấy
trẻ trở nên thông minh, nhanh nhẹn rõ rệt, tích cực và chủ động trong mọi hoạt động
tìm tịi và khám phá thế giới xung quanh. Trẻ biết suy nghĩ và đặt ra nhiều câu hỏi suy
luận lý thú cho cả cô và trẻ khác cũng suy nghĩ trả lời. Bên cạnh đó, ngơn ngữ của trẻ
trở nên mạch lạc hơn, trẻ mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp rất nhiều, thói quen
lao động tự phục vụ ở trẻ tốt hơn. Không những thế ở trẻ cũng hình thành những
phẩm chất tốt như khả năng phối hợp hoạt động tốt với các bạn, khả năng tự kiềm
chế, nhường nhịn bạn, biết chia sẻ cùng bạn và giúp đỡ bạn. Đó là niềm vui khơng chỉ
dành cho các bậc cha mẹ mà cũng là niềm vui lớn của cô giáo mầm non, của những
người làm công tác giáo dục. Tăng cường tính tích cực vận động cho trẻ chính là một
trong những mục tiêu mà nhà trường luôn chú trọng. Chúng tôi thường xuyên phát
động các phong trào như thi sáng tác, sưu tầm các trò chơi vận động cho trẻ, tổ chức
khá nhiều cuộc thi như bé khỏe, bé thông minh, bé vui khỏe nhanh trí, bé khỏe măng
non…”. Sân chơi bằng phẳng, khn viên rộng rãi, thoáng mát với nhiều cây xanh là
một trong những lợi thế của trường để trẻ có điều kiện thoải mái vui đùa, tích cực vận
động, gần gũi với thiên nhiên.
Xã hội đã dành cho giáo viên mầm non một danh hiệu: "Người mẹ thứ hai của
trẻ". Đã là mẹ thì phải dành hết tình yêu thương cho những đứa con của mình. Phải
tạo mọi điều kiện giúp cho trẻ phát triển tốt nhất. Và việc tổ chức tăng cường tính tích
cực vận động cho trẻ cũng nhằm mục đích đó."Nghề giáo là nghề cao q". Vì vậy, để
đứng vững với nghề chúng ta cần có lý tưởng, và ý thức trân trọng nghề của mình, và
có niềm tin vào ngày mai. Xin đừng để một khó khăn nào làm mờ đi danh hiệu cao
quý mà xã hội đã tôn vinh giáo viên mầm non chúng ta: "Nghề giáo là nghề cao quý


trên mọi nghề cao quý" và giáo viên mầm non, tuy khơng phải là mẹ của trẻ nhưng
chứa chan tình mẹ. Vì yêu trẻ mà yêu nghề và đứng vững với nghề. Tăng cường tính
tích cực vận động và tổ chức tốt hoạt động này cho trẻ là chúng ta đã thực hiện một
phần lời hứa với ngành giáo dục, với sự nghiệp đào tạo thế hệ tương lai tự tin, năng

động cho đất nước.
2. Kiến nghị, đề xuất
Để dạy trẻ phát triển thể chất đạt được kết quả cao hơn tôi xin được kiến nghị
như sau :
- Đối với nhà trường :
Tăng cường bổ sung thêm đồ dùng, trang thiết bị dạy học. Đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị để phục vụ tốt hơn về Lĩnh vực phát triển thể chất [Thể dục ] cho trẻ 5- 6
tuổi
- Đối với phịng giáo dục : Ngồi việc tổ chức hội thi giáo viên giỏi, cần tổ chức bồi
dưỡng chuyên môn về chuyên đề phát triển thể chất nhiều hơn nữa để giáo viên học
hỏi thực hiện chương trình giáo dục Mầm non hiệu quả hơn
Trên đây là một số giải pháp nhỏ của bản thân tôi, trong quá trình nghiên cứu,
tìm tịi sáng tạo, thực hành phát triển giáo dục thể chất cho trẻ mẩu giáo 5- 6 tuổi. Rất
mong sự quan tâm của lãnh đạo phòng, hội đồng khoa học cũng như sự góp ý của bạn
bè, đồng nghiệp giúp tơi có những giải pháp hiệu quả và sáng tạo hơn ./.


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD- ĐT
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................

..........................................................................................................................................



SKKN Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh khối lớp 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [106.38 KB, 11 trang ]

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: - UBND thành phố Hội An;
- Hội đồng khoa học và công nghệ thành phố Hội An.
Tôi ghi tên dưới đây:

Số
TT

Họ và tên


1

HUỲNH PHÚ
DƯƠNG

Ngày
tháng
năm sinh

Nơi công Chức
tác [hoặc danh
nơi thường

trú]

Trường
06/02/1991 THCS Phan
Bội Châu

Giáo
viên

Tỷ lệ [%]
Trình độ
đóng góp

chuyên vào việc tạo
môn
ra sáng kiến
[ghi rõ đối
với từng
đồng tác giả,
nếu có]
Đại học
TDTT Đà
100%
Nẵng


Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: "Giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất cho học sinh khối lớp 7, trường trung học cơ sở
Phan Bội Châu – TP Hội An – Tỉnh Quảng Nam".
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và Đào tạo.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 28
tháng 09 năm 2017.
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
Giáo dục thể chất là một quá trình sư phạm nhằm mục đích tăng
cường, bồi dưỡng kiến thức và bảo vệ sức khỏe, giúp hoàn thiện nhân cách và
nâng cao các kỹ năng vận động cần thiết của mỗi cá nhân trong cụộc sống, phát

triển thể lực, góp phần rèn luyện các phẩm chất đạo đức [hành động tập thể,
tính tích cực, kỷ luật, sáng tạo, ý chí và lối sống lành mạnh], giúp cho học sinh,
sinh viên có đầy đủ mọi điều kiện bước vào cuộc sống lao động, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.


Giáo dục thể chất trong nhà trường đóng một vị trí quan trọng trong việc
giáo dục con người phát triển toàn diện các mặt về: Đức –Trí -Thể -Mỹ.., một
mặt góp phần tích cực chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, mặt khác là môi trường thuận lợi và giàu tiềm năng để phát hiện
và bồi dưỡng tài năng thể thao cho đất nước..
Ngày nay thế hệ trẻ được sống và học tập trong một chế độ xã hội chủ

nghĩa, được thừa hưởng những thành quả vĩ đại của cha ông ta để lại. Trong sự
nghiệp đấu tranh để bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước, thế hệ trẻ được Đảng,
Nhà nước đặc biệt quan tâm, chăm sóc. Họ là những chủ nhân tương lai của đất
nước nắm trong tay vận mệnh của dân tộc. Trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Người đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau một việc
làm rất quan trọng và cần thiết…” thấm nhuần lời dạy của Người, các thế hệ
trẻ Việt Nam trong đó có lực lượng học sinh đã, đang và sẽ là lực lượng quyết
định tới tương lai của nước nhà.
GDTC là một mặt giáo dục toàn diện cho HS là phương tiện hiệu quả để
phát triển hài hòa cân đối hình thể, nâng cao năng lực thể chất và tố chất thể lực
của HS, sinh viên, đây cũng là một lĩnh vực sư phạm chuyên biệt có tác động tích
cực đối với việc rèn luyện và bồi dưỡng phẩm chất chính trị tư tưởng, đạo đức,

thẩm mỹ trong việc hình thành nhân cách cho người HS.
Trong những năm gần đây, việc đổi mới hình thức tổ chức, quản lý, đổi mới
phương pháp dạy và học các môn học nói chung và môn học GDTC nói riêng đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn
của nhà trường về yếu tố cơ sở vật chất, nguồn nhân lực... và một số điều kiện
khách quan khác, hiệu quả của các giờ học chính khóa đối với môn học GDTC
nói chung vẫn còn nhiều hạn chế. Mặc dù GDTC từ lâu đã trở thành môn học
chính thức, bắt buộc trong chương trình ở mọi cấp học, ngành học, nhưng đôi
khi vẫn bị xem nhẹ, giờ giảng dạy thể dục còn mang nặng tính hình thức.
Chương trình môn học chưa thực sự hợp lý, chưa phù hợp và đáp ứng được yêu
cầu của tuổi trẻ học đường, cơ sở vật chất, dụng cụ và sân bãi còn nghèo nàn và
thiếu thốn, đội ngũ cán bộ GV có nơi vẫn còn thiếu về số lượng và yếu về chất

lượng.
2


Những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt quan tâm đến công tác
giáo dục thể chất trong trường học. Thể hiện qua việc thường xuyên ban hành các
nội dung chương trình môn học Thể dục với các giờ học nội khóa, ngoại khóa
thường xuyên cải tiến chương trình cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đất
nước. Thường xuyên tổ chức các giải phong trào cho học sinh với nội dung thi
đấu đa dạng và phong phú đã động viên khích lệ học sinh tham gia nhiệt tình.
Ngoài chương trình đào tạo chính khóa, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quy
định tổ chức hoạt động thể thao ngoại khóa cho học sinh, sinh viên. Nhằm động

viên khuyến khích học sinh, sinh viên tự giác tham gia luyện tập thể thao hình
thành thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên cho học sinh, sinh viên.
Với trường trung học cơ sơ [THCS] Phan Bội Châu, thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam thì công tác GDTC cũng nằm trong tình trạng chung đó, giờ giảng
đôi khi vẫn còn mang tính hình thức, việc đầu tư cơ sở vật chất chưa tạo được
điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng dạy học. Quy trình quản lý, chỉ
đạo, tổ chức các hình thức luyện tập chưa thực sự hợp lý, phương pháp dạy học
còn đơn điệu thiếu sinh động chưa gây hứng thú học tập cho HS. Mặc dù học
sinh rất thích chơi thể thao nhưng lại không thích học môn Thể dục, coi giờ học
Thể dục như giờ vui chơi nên không chú tâm luyện tập. Kết quả khảo sát trong
các giờ học Thể dục cho thấy vẫn còn nhiều HS có thể lực chung chưa tốt làm
ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em.

4.2 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm
của giải pháp:
Công tác GDTC trường học đã có nhiều tác giả nghiên cứu, đề cập tới
những khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung là các tác giả thường đề xuất
những biện pháp còn mang tính chung chung, chưa cụ thể; các biện pháp chưa
thực sự thiết thực và gắn với thực tiễn của mỗi nhà trường.
Đối với công tác GDTC tại trường THCS Phan Bội Châu, Thành phố Hội
An, Tỉnh Quảng Nam thì chưa có đề tài nào đề cập, nghiên cứu việc nâng cao
GDTC trong nhà trường, đây cũng là một hạn chế lớn; việc phát triển công tác
GDTC cần phải được nhìn nhận một cách nghiêm túc và khoa học hơn, cần có
những nghiên cứu sâu phát triển.
3



Là một Giáo viên giảng dạy Môn Thể dục ở trường THCS, tôi nhận thấy công
tác GDTC cho HS còn nhiều hạn chế như về phương pháp, trang thiết bị dạy và
học môn Thể dục chưa tốt; thể lực chung của các em HS chưa đáp ứng được với
yêu cầu về khối lượng học tập của các em tại Nhà trường; môn học Thể dục chưa
được các em HS, phụ huynh và ngay cả Nhà trường cần xem xét đúng mức… Xuất
phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: "Giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh khối lớp 7, trường trung học
cơ sở Phan Bội Châu – TP Hội An – Tỉnh Quảng Nam".
4.3. Các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải
pháp:

Trong quá trình thực hiện, tôi đã nhận được sự hỗ trợ về trang thiết bị, cơ sở
vật chất từ phía nhà trường. Những phương tiện cần thiết để tổ chức trong quá
trình giảng dạy môn Thể dục.
4.4 Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
Để nhằm tìm ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác
GDTC cho HS, tôi đã sử dụng các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Tuyên truyền, giáo dục đối với học sinh về vai trò, ý nghĩa,
tác dụng của việc tập TDTT
- Mục đích: Với mục đích là tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của lãnh đạo nhà trường, các tổ chức đoàn thể có liên quan đến phong
trào TDTT của nhà trường, cũng như tuyên truyền nâng cao ý thức học tập của
học sinh, nhận thức vị trí và vai trò của rèn luyện nâng cao sức khoẻ và xây

dựng lối sống lành mạnh. Khuyến khích và tạo điều kiện tăng cường các hoạt
động thể thao lành mạnh của học sinh.
- Cách thức thực hiện: Tham mưu với lãnh đạo nhà trường đã tiến hành các
hoạt động nhằm thực hiện giải pháp như sau:
+ Mua thêm sách, báo và tạp chí thể thao để cho học sinh hiểu thêm về thể
thao, từ đó giúp các em có một vốn kiến thức nhất định về thể thao và khi đó các
em sẽ tích cực tập luyện hơn, các em sẽ chủ động đón nhận thể thao thì tác dụng
của thể thao đối với sức khoẻ của người tập sẽ rõ rệt hơn.
+ Tổ chức các cuộc nói chuyện về TDTT để các em hiểu rõ hơn về tác
4



dụng của việc nâng cao chất lượng GDTC.
+ Tuyên truyền về TDTT qua hoạt động của các thành viên trong các câu
lạc bộ thể thao của nhà trường.
+ Ngoài ra nếu có điều kiện cho các em xem các băng đĩa về TDTT để từ
đó thúc đẩy sự tự giác tích cực tập luyện của các em.
+ Tổ chức các phong trào thi đua dạy tốt, học tốt môn thể dục, giúp sinh
viên nâng cao nhận thức về TDTT. Từ đó giúp các em tích cực học tập hơn.
- Đánh giá giải pháp: Sau khi các hình thức tuyên truyền, giáo dục nhận
thức cho học sinh về vai trò, ý nghĩa, tác dụng của tập luyện GDTC đối với sức
khỏe được thực hiện của các em học sinh tham gia luyện tập thường xuyên hơn
Bảng thống kê: Mức độ tập luyện thể thao của học sinh khối 7 trường
Phan Bội Châu, Hội An [sau khi thực hiện giải pháp 1].

Kết quả phỏng vấn
T
T

Trước

Nội dung phỏng

Sau

thực hiện
thực hiện

Nam : 80
Nữ :75
Nam
Nữ
%
%
%
SL
Sl
SL
SL
Bạn có thường xuyên tham gia tập luyện TDTT ngoại khóa?

- Thường xuyên
vấn

%

35

43,6

25

33,3


59

73,7

49

65,3

24

30,0


15

20,0

13

16,3

18

24,0


21

26,3

35

46,7

8

10,0


8

10,6

[≥ 3 buổi/ tuần]
- Không thường
1

xuyên
[1 – 2 buổi/ tuần]
- Không tập

[0 buổi/ tuần]

Qua bảng thống kê có thể thấy khá rõ sự thay đổi tích cực về số lượng học
sinh tham gia tập luyện thể thao ngoại khóa đã tăng nên rõ rệt. Đây là giải pháp
mang lại hiệu quả tích cực có tác động đến học sinh trong quá trình nghiên cứu
5


của đề tài.
Giải pháp 2: Xây dựng câu lạc bộ và tăng cường hoạt động ngoại khóa
cho học sinh.
- Mục đích: tạo cho sinh viên có sân hơi thể thao lành mạnh tăng cường

sức khỏe phục vụ cho công việc học tập cũng như các hình thức vui chơi giải trí
giảm mệt mỏi căng thẳng trong các giờ học lý thuyết trên lớp.
- Cách thức thực hiện: Do kinh phí nhà trường có hạn nên Ban giám hiệu
quyết định chỉ cho thành lập 2 CLB là bóng chuyền và cầu lông. Đây là 2 môn
được nhiều học sinh yêu thích, hoạt động của 2 CLB được sự quản lý trực tiếp
của Bộ môn GDTC. CLB bóng chuyền hoạt động 2buổi/ tuần vào sáng thứ 2,
sáng chủ nhật. CLB cầu lông hoạt động 1 buổi/ tuần vào sáng thứ 7. Sau 1 tháng
đi vào hoạt động số lượng thành viên đã tăng lên khá nhiều.
- Đánh giá giải pháp: Việc thành lập 2 CLB bóng chuyền và Cầu lông là
sự thành công lớn góp phần giải quyết nhu cầu tham gia tập luyện thể thao có tổ
chức một cách chính quy và có sự quản lý của nhà trường, hướng dẫn của giáo
viên Thể dục thúc đẩy tinh thần học tập GDTC của học sinh, nâng cao chất

lượng công tác GDTC trong nhà trường.
Giải pháp 3: Tích cực tổ chức và tham gia thi đấu các giải TDTT trong
và ngoài trường.
- Mục đích: Khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa, các
CLB thể thao để có thể tham gia tốt các hoạt động thi đấu mà nhà trường hay
các giải thể thao cộng đồng tổ chức.
- Cách thức thực hiện: Ở giải pháp 1 và giải pháp 2 nhà trường đã tổ chức
các hoạt động tuyên truyền ý nghĩa, tác dụng của hoạt động TDTT và đồng ý
xây dựng 2 CLB thể thao và đưa vào hoạt động chính thức thu hút khá nhiều học
sinh tham gia tập luyện TDTT ngoại khóa và tham gia tập luyện tại các CLB thể
thao. Trên cơ sở đó nhà trường đã tổ chức giải điền kinh giữa các lớp. Tổ chức
thi đấu các giải thu hút sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường cũng như giáo viên

và đặc biệt học sinh toàn trường. Ngoài ra trong năm 2017 -2018 nhà trường
6


cũng đã chọn học sinh tham gia các giải TDTT do ngành tổ chức nhằm động
viên khích lệ tinh thần tập luyện TDTT cho học sinh của nhà trường.
- Đánh giá giải pháp: Việc tổ chức điền kinh và tham gia các giải thể thao
do ngành tổ chức sẽ góp phần thúc đẩy tinh thần học tập và tập luyện môn
GDTC trong nhà trường. Nếu các giải thể thao được tổ chức thường xuyên trong
hệ thống tổ chức của nhà trường sẽ là thành tố thúc đẩy rất lớn tới việc nâng cao
chất lượng công tác GDTC.
BẢNG SO SÁNH CHẤT LƯỢNG


Năm học

TỔNG
SỐ

Loại chưa Học sinh đạt giải qua các hội
đạt
thi thể dục thể thao cấp trường
trỏ lên
% T.số
%


Loại đạt
T.số

2016 -2017

145

145

100%


2017-2018

150

150

100%

-khuyến khích 1500m nữ
Giải nhì cá nhân chạy 1500m nữ,
khuyến khích 2000m nam


4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi đã được sự hỗ trợ của
Tổ bộ môn Thể dục và sự chỉ đạo và quan tâm của nhà trường, tôi đã có giải
pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh trường trung học cơ sở
Phan Bội Châu – TP Hội An – Tỉnh Quảng Nam".
Hiện nay việc nhận thức của một số cán bộ, giáo viên, học sinh về công
tác giáo dục thể chất không còn xem nhẹ vị trí và vai trò tác dụng của môn học
trong quá trình giáo dục chung của nhà trường. GDTC là một mặt giáo dục quan
trọng trong nội dung chương trình của nhà trường. Nó không những làm tăng
sức khỏe cho học sinh mà còn là nhân tố tác động trực tiếp đến các mặt giáo dục
khác như đạo đức, trí dục, thẩm mỹ, giáo dục lao động.... Hoàn thành tốt công
việc GDTC trong nhà trường đã tạo điều kiện để thực hiện giáo dục toàn diện.

Qua quá trình áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy sáng kiến này có thể dễ
dàng sử dụng vì hầu như trường nào cũng có đầy đủ những phương tiện, điều
kiện cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh.
7


5. Những thông tin cần được bảo mật: Không
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
Trong các giải pháp tôi đã áp dụng có thể thấy rõ có tác động trực tiếp
đến tình trạng thể lực của học sinh. Các học sinh tham gia các hoạt động CLB
thể thao nhà trường và các giải thể thao được nhà trường tổ chức.

Để xác định hiệu quả của các biện pháp của đề tài, trong quá trình thực
hiện tôi tiến hành kiểm tra học sinh ở 2 thời điểm: đầu học kỳ 1 và sau thực
hiện: Giữa cuối học kỳ 2. Nội dung kiểm tra ở các thời điểm xác định là các Test
đánh giá thể lực theo tiêu chuẩn RLTT của Bộ Giáo dục và Đào tạo:
+ Nằm ngửa gập bụng [lần/30 giây]: Nhằm đánh giá sức mạnh bền.
+ Bật xa tại chỗ [cm] : Nhằm đánh giá sức mạnh tốc độ chân.
+ Chạy 30m XPC [giây]: Nhằm đánh giá sức nhanh.
+ Chạy tuỳ sức 5 phút [m] : Nhằm đánh giá sức bền chung.
Kết quả kiểm tra thể lực của học sinh:
STT

Test


1

Nằm

2
3
4

[lần/30 s]
Bật xa tại chỗ [cm]
Chạy 30m XPC [s]

Chạy tuỳ sức 5 phút [m]

1

Nữ [75 em]
Nằm ngửa gập

2
3
4

ngửa


gập

bụng

Đầu HK I [80 em]
Tốt
Đạt
SL % SL %

Giữa HK II
Tốt

Đạt
SL % SL %

31

49

49

31

29

26
22

51
54
58

45
42
50

35

38
30

bụng

25
50
46
29
[lần/30 s]
Bật xa tại chỗ [cm]
32

43
55
29
Chạy 30m XPC [s]
28
47
49
26
Chạy tuỳ sức 5 phút [m]
19
56
39

36
Qua bảng theo dõi kết quả cho thấy trình độ thể lực ban đầu theo tiêu
8


chuẩn ĐGTĐTL của học sinh ở thời điểm trước thực hiện và đến giữa học kỳ 2.
Ta thấy trình độ thể lực của học sinh đã tăng rõ rệt. Học sinh có ý thức học tập
hơn trong việc học tập môn Thể dục.
Tóm lại, từ những kết quả thu được như trên đã cho thấy việc ứng dụng
các giải pháp mà tôi đã lựa chọn và kiểm nghiệm đã có tác động tốt đến chất
lượng công tác GDTC tại trường THCS Phan Bội Châu.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng

sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần
đầu, kể cả áp dụng thử:
Trong quá trình họp tổ chuyên môn, tôi đã mạnh dạn trình bày sáng kiến
của mình và đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của tất cả các thành viên trong
tổ cũng như BGH nhà trường. Một số giáo viên trong tổ nhận thấy được tính
khả thi cũng như hiệu quả mang lại của sáng kiến này. Sau thời gian áp dụng
thử, kết quả học tập môn Thể dục của học sinh ở trường THCS Phan Bội Châu
có sự tiến bộ rõ rệt. Một số em lười học, thường xuyên không luyện tập đã có
những biểu hiện tích cực hơn. Các em hào hứng mỗi khi đến giờ học môn Thể
dục. Thậm chí có nhiều em thích tham gia vào các câu lạc bộ TDTT của trường.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu: Không.

STT

Họ và tên

Ngày
Nơi công tác
tháng
[ Hoặc nơi
năm sinh thường trú]

Chức
danh


Trình độ
chuyên
môn

Nội dung
công việc
hỗ trợ

Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Hội An, ngày 10 tháng 3 năm 2018

Xác nhận và đề nghị của cơ quan,
đơn vị tác giả công tác

Người nộp đơn

9


HUỲNH PHÚ DƯƠNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Năm học: 2017 - 2018
I. Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường THCS Phan Bội Châu - Hội An
1. Tên đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho học sinh khối lớp 7,
trường THCS Phan Bội Châu”.

2. Họ và tên tác giả: HUYNH PHÚ DƯƠNG
3. Chức vụ: Giáo viên Thể dục
Tổ: Thể dục

10



4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a] Ưu điểm: .....................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
b] Hạn chế: ......................................................................................................................
.....................................................................................................................................
5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường :THCS PHAN BỘI
CHÂU.
.......................................................................................thống

nhất
xếp
loại : ...................
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
[Ký, ghi rõ họ tên]
[Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên]
............................................................
............................................................
............................................................
II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD&ĐT .....................................................
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT .........................

...........................thống nhất xếp loại: ...............
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
[Ký, ghi rõ họ tên]
[Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên]
............................................................
............................................................
............................................................
III. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam thống
nhất xếp loại: ...............
Những người thẩm định:

Chủ tịch HĐKH
[Ký, ghi rõ họ tên]
[Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên]

11



Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng dạy học môn thể dục – giáo dục thể chất cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội

31 28 2
Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ THỦ THUẬT GÂY HỨNG THÚ CHO TRẺ EM 5 -6 TUỔI NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN HỌC
  2. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Vấn đề vị trí của giáo dục Mầm non trong chiên lược “Phát triển nguồn lực con người” đã và đang được Đảng và nhà nước ta rất quân tâm. Vạy sự pphát triển thể lực của trẻ em ở lứa tuổi Mầm non hiện nay như thế nào ? Chúng ta đều biết tầm vóc của đứa trẻ lớn lên hàng ngày bởi vì cơ thể trẻ em là cơ thể đang lớn, đang phát trển không ngừng theo từng giai đoạn. Sự phát triển thể chất của trẻ được đánh giá dựa vào một số chỉ số thông thường như: chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, tỉ lệ các phần của cơ thể. Xuất phát từ những đặc điểm cơ thể trẻ luôn phát triển tuân theo những quy luật cơ bản của sinh học, trình tự và tốc độ củ sự phát triển phụ thuộc vào những yếu tố về di truyền, môi trường sống và đặc biệt là phương pháp nuôi dưỡng và rèn luyện thân thể một cách có ý thức. Trong vài thập kỉ và đặc biệt là trong những năm gần đây , cùng với sự chuyển biến mọi mặt của xã hội và đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội trẻ em đã có điều kiện được chăm sóc tốt hơn dẫn đến tinh trạng béo phì rất nhiều . Trên thực tế có nhiều yếu tố ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển thể chất của trẻ như: kinh tế, xã hội , chất lượng môi trường sống, song yếu tố chính vẫn là hình thức tổ chức giáo dục thể chất cho trẻ. Như vậy việc tìm hiểu cách tổ chức các hình thức giáo dục thể chất cho trẻ để từ đó tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ là một việc làm rất quân trọng trong việc chăm sóc , bảo vệ sức khoẻ của trẻ. Xuất phát từ những vấn đề trên , đễ nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong ngành học mầm non nói chung và trong trường mầm non Việt Tiến số 1 nói riêng tôi đã mạnh dạn chọn đề taid nghiên cứu: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc tổ chức các hình thức giáo dục thể chất cho trẻ từ đó chọn lọc các hình thức giáo dục thể chất phù hợp nhất
  3. III. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU: - Đối tượng là trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Việt Tiến số 1 – Việt Yên – Băc Giang. IV.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: - Nhiệm vụ chính của quá trình giáo dục thể chất cho trẻ tuổi mẫu giáo là hoàn thiện kĩ năng vận động cơ bản như: đi, bò, chạy, nhảy, ném, trườn, leo trèo và phát triển các tố chất vận động như: nhanh nhẹn, mạnh dạn, bền bỉ và khéo léo nhằm cho trẻ có đủ năng lực để đến trường phổ thông. Chính vì vậy nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: 1. Phương pháp nghiên cứu sử dụng tài liệu. 2. Phương pháp tuyên truyền với các bậc phụ huynh 3. Phương pháp đàm thoại nêu gương 4. Phương pháp dùng tình cảm 5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Là giáo viên ngành học mầm non nhất lại là giáo viên dạy ở trường mầm non nông thôn vấn đề đặt ra hiện nay đối với tôi là cách tổ chức các hình thức giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường ra sao? PHẦN NÔI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
  4. Giáo dục lễ giáo cho trẻ ở tuổi mầm non là bước đầu hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên về nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa Giáo dục lễ giáo cho trẻ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giáo dục con người mới. Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhà giáo dục cần hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách tạo tiền đề cho sự phát triển nhân cách về sau cho trẻ. Đó là cả 1 vấn đề đáng được đặt ra cho những người làm công tác giáo dục phải làm sao để đổi mới việc giáo dục đạo đức truyền thống cho thế hệ trẻ. Trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non và cần được coi là 1 nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện chủ chương giải pháp của giáo dục hiện nay để tăng cương giáo dục truyền thống của dân tộc. Hiểu được thực trạng đó tôi đã mạnh dạn đưa ra mội số giải pháp bằng chính kinh nghiệm thực tế giảng dạy của mình, tôi đã suy nghĩ và nghiên cứu những kinh nghiệm giáo dục lễ giáo cho trẻ mần non đạt kết quả cao. II. THỰC TRẠNG: Bản thân tôi luôn xác định rõ mục tiêu muốn cho trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt: Đức – Trí – Thể – mỹ – lao động. Phải dạy đều dạy tốt các bộ môn hoc. Trong đó việc tổ chức rèn nề nếp thói quen hành vi văn minh lễ phép cho trẻ là rất cần thiết. Trong 1 năm nghiên cứu đề tài tôi đã gặp 1 số thuân lợi và khó khăn sau. 1.Thuận lợi: - Được sự quan tâm của phòng giáo dục Việt Yên hàng năm đã tổ chức chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên. - Thường xuyên được than dự các buổi sinh hoạt cụm chuyên môn giữa các trường để trao đổi kinh nghiệm. - Dự giờ đồng nghiệp để trau rồi kiến thức nâng cao chất lượng rèn nề nếp, hành vi văn minh, thói quen cho trẻ lớp mình. - Được sự giúp đỡ nhiệt tình của ban giám hiệu nhà trường, UBND xã và lãnh đạo thôn.
  5. - Trường lớp có quy mô gọn gàng sạch sẽ phòng học rộng rãi thoáng mát đảm bảo hợp vệ sinh an toàn cho trẻ. - Lớp có 24 cháu đều cùng ở 1 độ tuổi 5 tuổi 2. Khó khăn: - Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đồ dùng đồ chơi chưa đủ cho việc học tập - Lớp tôi có 24 cháu thì có 23/ 24 cháu là con gia đình nông thôn nên việc giao tiếp với xã hội bên ngoài còn hạn chế. Một số phụ huynh học sinh còn lạc hậu, chưa nhân thức được tầm quan trọng của việc chăm sóc giáo dục trẻ ở mầm non. Nhất là việc giáo dục lễ giáo cho trẻ họ ít quan tâm đến nên bước đầu tiếp nhận trẻ vào lớp cũng gặp nhiều khó khăn. - Tài liêu tham khảo còn hạn chế - Sự hứng thú học tâp của trẻ chưa cao. III. NHỮNG GIẢI PHÁP: Trong thực trạng đó cũng như nhận thức được tình hình thực tế hiện nay tôi đã suy nghĩ tìm tòi nghiên cứu tìm ra những giải pháp để chất lượng giáo dục lễ giáo cho trẻ ngày càng nâng cao. 1. Tích luỹ kinh nghiệm và nắm chắc phƣơng pháp giáo dục để dạy trẻ: Cô dạy trẻ cách chào hỏi yêu cầu trẻ là: - Khi đến lớp: + Trẻ biết tự động chào cô, các bạn và khách đến trường đến lớp cũng như khi ra về. + Khi chào phải đứng ngay ngắn, tự nhiên khoanh tay trước ngực và nói “ Cháu chào…, con chào… ” + Có khách đến lớp phải biết chủ động đứng dạy chào khách, khi chào ai mắt phải nhìn vào người ấy, niềm nở khi gặp gỡ cũng khi lúc chia tay.
  6. + Trong giờ học muốn nói phải giơ tay, nếu cần ra ngoài phải xin phép cô giáo. + Cô giáo hỏi ai thì người ấy trả lời, không nói leo hoặc lấn át bạn. + Khi hỏi ai không được nói trống không ví dụ: Phải hỏi Bạn ơi cái gì đấy? + Không nói khi mọi người đang bận việc, nếu cần hỏi phải xin phép và nói nhỏ. + Muốn mượn hoặc lấy bất cứ cái gì đều phải hỏi và được sự đồng ý mới được sử dụng. - Khi về nhà: + Khi đi học về trẻ biết tự động chào tất cả mọi người thân trong gia đình 1 cách hợp lý chào [ Ông, Bà, Bố, Mẹ, Anh , Chị, Em… ] + Trẻ biết chủ động chào và tạm biệt khi khách đến thăm gia đình. + Khi muốn đi chơi phải xin phép bố mẹ. + Biết hỏi han quan tâm đến người thân trong gia đình khi ốn đau. - Dạy trẻ cách nói năng: + Yêu cầu trẻ nói năng phải mạch lạc, hồn nhiên, mạnh dạn. + Không nói nhanh hất tấp, không nói quá to nơi đông người hoặc người khác đang làm việc và nghỉ ngơi. + Không nói ngọng, nói lắp, không văng tục chửi bậy. - Với bạn bè: + Xưng hô thân mật [ xưng mình gọi bạn hoặc tên bạn ] không xưng hô mày tao, thằng, đứa, con... + Không nói quá nhiều hoặc lấn át bạn
  7. - Với em bé hơn: + Xưng hô thân mật anh chị gọi em - Với người lớn: + Biết thưa gửi vâng dạ + Không lắc, gật, ừ và nói trống không. + Không nói ngang, nói leo khi người lớn không cho phép. + Khi người lớn bận việc không được quấy, vòi vĩnh. Hàng ngày tôi dạy trẻ và tích hợp vào các môn học để giáo dục tôi đã dùng các phương pháp khác nhau như: - Phương pháp quan sát: trước hết cô phải là tấm gương sáng cho trẻ học tập và noi theo, tôi thực hiện giờ nào việc ấy và cho trẻ quan sát những hình ảnh xung quanh trẻ giúp phát triển qua thị giác. - Phương pháp tổ chức các hoạt động: cho trẻ được trực tiếp hoạt động để trẻ làm quen với cuộc sống tự nhiên xã hội vì qua hoạt động trẻ phát huy tính tích cực và điều khiển tính hiếu động Ví dụ: Qua trò chơi phân vai gia đình trẻ biết xưng hô giao tiếp với ông bà cha mẹ Qua trò chơi bác sỹ trẻ biết cẩn thận chăm sóc bệnh nhân Qua lao động tự phục vụ rửa mặt, rửa tay, chải đầu trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân. Qua chăm sóc vật nuôi cây trồng ở góc thiên nhiên trẻ biết yêu quý chăm sóc cây trồng, con vật. - Phương pháp tạo tình huống: Cô tận dụng các tình huống, tạo ra các tình huống để trẻ phải suy nghĩ ứng sử và thực hiện những yêu cầu của người lớn đề ra nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của trẻ.
  8. - Phương pháp nêu gương: cô nêu một số gương người tốt, việc tốt làm mẫu cho trẻ noi theo nhằm tạo ra sự hứng thú xây dựng tính tự giác cho trẻ trong việc thực hiện hành vi lễ giáo. Cô dùng lời nói, cử chỉ âu yếm dụi dàng để tạo cảm xúc tích cực ở trẻ cần có nghệ thuật để lôi cuốn trẻ vào những hành vi lễ giáo một cách tự giác mà không bị một sức ép buộc phải làm. 2- Một số hình thức giáo dục lễ giáo cho trẻ: Nội dung giáo dục lễ giáo cho trẻ mầm non nói trên được thực hiện thông qua kế hoạch sinh hoạt hàng ngày và được tích hợp vào các môn học ở mọi lúc mọi nơi như: - Với trò chơi phân vai theo chủ đề: qua trò chơi trẻ biết phản ánh những hành vi, thái độ của vai chơi, biết cùng chơi với nhau trong tập thể và phục tùng những qui định chung của tập thể. Biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong khi chơi. Biết nhận xét hành động, thái độ của mình và của bạn. - Với trò chơi xây dựng: trẻ biết sử dụng các đồ chơi, nguyên vật liệu khác nhau để tạo ra công trình xây dựng theo từng chủ đề riêng. - Với hoạt động học tập : + Với môn làm quen với môi trường xung quanh: thông qua các bài học trẻ biết các mùa trong năm, các loại động vật thực vật, một số luật và phương tiện giao thông phổ biến … + Với môn làm quen với văn học: thông qua nội dung các bài thơ câu chuyện giáo dục trẻ biết yêu thương giữa người với người, biết ơn những người lao động, biết giữ gìn sản phẩm lao động … + Với môn âm nhạc: thông qua các bài hát điệu múa giúp trẻ cảm thụ được giai điệu đặc trưng của từng vùng miền. + Với hoạt động lao động: như tổ chức cho trẻ tưới cây chăm sóc cây cô cùng làm với trẻ để đàm thoại giáo dục trẻ cách tưới cây và chăm sóc cây qua đó trẻ biết chăm sóc và bảo vệ cây xanh. - Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường thống nhất nội dung trong việc giáo dục lễ giáo cho trẻ.Ví dụ: trong lớp tôi có một cháu hay nói bậy với cô giáo và chửi các bạn, tôi trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của cháu đó để phụ huynh nắm được rồi đi đến thống nhất cùng giáo dục trẻ một cách có hiệu quả. 3. Tạo môi trƣờng lễ giáo cho trẻ:
  9. Trong lớp tôi xây dựng góc tuyên truyền lễ giáo được phân thành 2 mảng: một bên là giáo dục hành vi bằng hình ảnh 1 một bên là các bài thơ câu truyện có nội dung giáo dục lễ giáo. Tôi kết hợp với phụ huynh sưu tầm các loại tranh ảnh, câu truyện, bài thơ, ca dao, đồng dao có nội dung giáo dục lễ giáo phù hợp với chủ điểm độ tuổi của trẻ cho trẻ xem hàng ngày, cho trẻ hoạt động trải nghiệm với sách, tranh ảnh, giúp trẻ hình thành cơ sở cho trẻ đọc và viết. - Tạo môi trường cho trẻ xem tranh ảnh cùng người lớn [ Bố, mẹ, cô giáo ] qua xem tranh tạo cơ hội cho trẻ trò chuyện và giáo dục lễ giáo cho trẻ … - Trong lớp cô tranh trí các bức tranh theo chủ điểm có nội dung giáo dục lễ giáo để cho trẻ quan sát, nhận xét và học tập. - Nội dung giáo dục hành vi tôi ghi những hành vi của trẻ đối với mọi người, mọi vật xung quanh để phụ huynh có thể tham khảo sau mỗi giờ đón và trả trẻ. - Tôi lên kế hoạch từng giai đoạn, từng tháng để phụ huynh biết thêm về yêu cầu của nội dung giáo dục lễ giáo. - Để giáo dục cho trẻ có hiệu quả cao tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh nhằm tìm và nắm được hoàn cảnh gia đình của từng trẻ để có biện pháp kịp thời uốn nắn. Với những trẻ cá biệt như: bướng bỉnh, hay đánh bạn, chưa ngoan tôi phải gặp gỡ gia đình để trao đổi tìm hiểu nguyên nhân cùng gia đình thao gỡ thống nhất biện pháp giáo dục trẻ. - Giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi: Vào đầu năm học khi trẻ đến lớp tôi luôn luôn nhắc nhở trẻ khi đến lớp biết chào cô giáo chào các bạn và chào bố mẹ rồi mới vào lớp, những cháu còn nhút nhát tôi yêu cầu phụ huynh phải nhắc trẻ để tạo cho trẻ thói quen khi đến lớp …Để trẻ luôn nhớ những hành vi đó. Tôi sưu tầm bài hát “ thật là ngoan” để dạy trẻ: “ Em đi học về đến nhà, em khoanh tay, em chào bố mẹ, em đến trường, em chào cô .Bạn gặp nhau cũng chào ríu rít. Biết chào hỏi biết vâng lời. Ai cũng khen em thật là ngoan”… - Trong mọi lúc mọi nơi giờ nào việc ấy tôi phải làm gương cho trẻ noi theo, khi vào lớp tôi dạy trẻ phải ngồi ngoan, nghe cô giảng bài muốn phát biểu hay có ý kiến phải giơ tay …
  10. - Qua hình thức rèn nề nếp tập thể đầu tiên tôi dạy trẻ bài thơ “ Ngồi giơ tay ” Khi ngồi tay để trên bàn Không bàn ta để tay ngang trên đùi Phải trật tự khi ta ngồi Muốn hỏi, muốn nói xin mời giơ tay Cô chỉ định, ta nói ngay Còn các bạn khác hạ tay xuống chờ. - Trong các tiết học tôi đã lồng ghép tích hợp vào để dạy trẻ cách nói năng, cách chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi… Tôi dạy trẻ nói năng rõ ràng mạch lạc, mạnh dạn, hồn nhiên, không nói ngang nói lắp, hấp tấp, không nói quá to la hét nơi đông người hoặc lúc người khác đang làm việc và nghỉ ngơi, không văng tục chửi bậy. + Xưng hô với bạn bè: mình hoặc bạn không xưng hô tao mày + Không nói quá nhiểu hoặc lấn át bạn + Với em bé hơn xưng hô thân thiện anh, chị gọi em + Đối với người lớn biết thưa gửi vâng dạ + Không lắc đầu hoặc nói trống không, không nói ngang, nói leo khi người lớn chưa cho phép + Khi người lớn đang bận việc không quấy, vòi vĩnh + Khi đến lớp biết tự động chào cô giáo, các bạn cũng như khi ra về với tư thế đứng ngay ngắn tự nhiên khoanh tay trước ngực và nói “ Cháu chào, con chào …” + Khi khách đến lớp thăm, biết chủ động đứng dậy chào khách, chào ai cũng phải nhìn vào người đó, niềm nở khi gặp gỡ cũng như lúc chia tay
  11. + Khi người lớn cho vật gì thì phải xin bằng 2 tay và nói “ Cháu xin ạ ” + Khi được mọi người giúp việc gì phải biết cảm ơn + Khi làm phiền ai hoặc hỏng việc gì phải thật thà nhận lỗi và xin lỗi tự sửa lỗi + Không nói dối hoặc đổ lỗi cho người khác - Trong các hoạt động chung cả lớp tôi đưa các nội dung các nội dung giáo dục lễ giáo vào phù hợp với tiết dạy để giáo dục trẻ. - Với việc dạy trong hoạt động vui chơi: Tôi giáo dục trẻ phải chơi đoàn kết, giúp đỡ bạn trong khi chơi chung đồ chơi với bạn, không tranh dành đồ chơi khi chơi xong phải cất đúng nơi quy định - Với việc dạy hoạt động vệ sinh: Giáo dục trẻ vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, đi đại – tiểu tiện đúng nơi quy định. - Giáo dục lễ giáo: trẻ biết chào hỏi lễ phép, vâng dạ, cảm ơn, xin lỗi. Muốn cho trẻ nắm được nội dung nề nếp ra vào lớp, tôi sưu tầm bài thơ để dạy trẻ như: “ Ra vào lớp ” hành ngày trẻ đọc để nhớ và thi đua thực hiện. Tôi cho trẻ hát bài hát “ Ngã tư đường phố ”, “ Đường em đi ” dạy cho trẻ hiểu biết về 1 số luật lệ giao thông. Tôi cho trẻ dạo chơi ngoài trời trẻ quan xát tiếp xúc với cây cối, các con vật trong thiên nhiên … từ đó trẻ biết yêu quý chăm sóc bảo vệ vật nuôi cây trồng. - Nội dung giáo dục lễ giáo cho trẻ tôi lồng ghép tích hợp vào các môn học như: Toán, Âm nhạc, Tạo hình, Làm quen với chữ viết, Tìm hiểu môi trường xung quanh, Làm quen với văn học… Qua quá rrình thực hiện lồng ghép vào các môn học tôi thấy đạt kết quả cao nhất và trẻ hứng thú nhất là môn làm quen văn học Ví dụ: Dạy kể truyện “ Ai đáng khen nhiều hơn ”Tôi nhấn mạnh cho trẻ biết những hành vi và việc làm tốt của thỏ anh như vâng lời mẹ, biết giúp mọi người khi gặp khó khăn, biết nhường nhịn em
  12. nhỏ…. Giáo dục trẻ phải ngoan ngoãn vâng lời bố mẹ, nhường nhịn em nhỏ, biết yêu thương giúp đỡ mọi người. Tôi gợi ý hỏi trẻ để trẻ xin phép được kể những việc làm của mình đã giúp bố mẹ ở nhà như: Trông em quét nhà xứng đáng với lời Bác Hồ đã dạy “ Tuổi nhỏ lamg việc nhỏ tuỳ theo sức của mình ”vì vậy tiết học rất sinh động, gây hứng thú lôi cuốn trẻ vào giờ học đạt kết quả cao. - Qua tiết học dạy trẻ làm quen với toán Ví dụ: Dạy tiết “ thêm bớt chia nhóm đồ vật có số lượng là 8 làm 2 phần ”chủ điển thế giới thực vật trẻ biết yêu cây xanh vì cây xanh góp phần làm cho môi trường xanh – sạch - đẹp và mang nhiều lợi ích cho con người.[ Cho bóng mát, cho hoa thơm quả ngọt, cho gỗ làm đồ dùng dồ chơi ] nên chúng ta phải tích cực trồng cây chăn sóc và bảo vệ cây xanh. - Dạy môn tìm hiểu môi trường xung quanh: Ví dụ: Chủ diểm quê hương, thủ đô Hà Nội – Bác Hồ. Cô giới thiệu với trẻ về Bác Hồ khu di tích lịch sử, thủ đô Hà Nội, danh lam thắng cảnh, làng xóm phố phường…qua đó trẻ luôn kính trọng Bác Hồ trẻ thể hiện tình cảm kính yêu Bác qua những lời ca tiếng hát và luôn mong muốn mình chở thành cháu ngoan của Bác. Trẻ biết thủ đô nước ta là Hà Nội, có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đẹp như: lăng Bác Hồ, chùa một cột, văn miếu, hồ gươm … Trẻ biết nơi sinh ra trẻ có làng xóm, có nhiều người họ hàng ruột thịt, biết ở quê hương cũng có những danh lam thắng cảnh như: đình, chùa, nhà văn hoá…Qua đó trẻ biết yêu quê hương - thủ đô Hà Nội – Bác Hồ biết bảo vệ những công trình công cộng, bảo vệ khu di tích lịch sử danh lam thắng cảnh, trẻ mong muốn hào hứng được đến thăm lăng Bác và các khu danh lam thắng cảnh. - Khi tổ chức hoạt động góc cho trẻ mỗi buổi chơi tôi cho trẻ nắm được yêu cầu giáo dục của buổi chơi Ví dụ: + Nhóm chơi gia đình -> các thành viên trong gia đình phải yêu thương chăm sóc lẫn nhau, các con phải biết kính trọng vâng lời bố mẹ, biết giúp đỡ bố mẹ những công việc vừa sức và xưng hô đúng mực … + Nhóm chơi bán hàng -> người bán hàng phải vui vẻ niềm nở với khách hàng và đáp ứng những yêu cầu của khách hàng, người mua phải xếp thứ tự [ nếu đông] và biết cảm ơn khi nhận hàng. Ngoài ra tôi còn tổ chức trò chuyện với trẻ về một vài tình huống để trẻ tranh luận Ví dụ: + Khi gặp người lớn bé Ly không chào đúng hay sai?
  13. + Khi về quê ngoại bé Ly đòi mua quà, đồ chơi mẹ không mua cho bé lăn ra khóc vòi vĩnh, nói bậy với mẹ thì việc đó đúng hay sai? vì sao ?

Video liên quan

Chủ Đề