So sánh định ngữ trong tiếng Trung và tiếng Việt

Nghiên cứu thành phần định ngữ của đoản ngữ danh từ tiếng hán hiện đại [trong sự so sánh với thành phần định ngữ của đoản ngữ danh từ tiếng việt]

  • pdf
  • 119 trang
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NGỌC KIÊN

Nghiên cứu thành phần định ngữ của đoản ngữ
danh từ tiếng Hán hiện đại
[Trong sự so sánh với thành phần định ngữ của
đoản ngữ danh từ tiếng Việt]
LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn: GS.TS. Hoàng Trọng Phiến

Hà nội - 2008

KÍ HIỆU VIẾT TẮT:
1.

ĐN: định ngữ

2.

TTN: trung tâm ngữ

2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Trung Quốc là hai nƣớc láng giềng có quan hệ truyền thống
về kinh tế và văn hóa từ lâu đời. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa nhƣ hiện nay,
sự hợp tác toàn diện đó đƣợc nâng lên một tầm cao mới. Chính vì vậy, việc học tập
tiếng Việt đối với ngƣời Trung Quốc và việc học tiếng Hán đối với ngƣời Việt là
một nhu cầu cấp thiết trong quá trình trao đổi và hiểu biết lẫn nhau.
Nhƣ chúng ta đã biết, tiếng Việt và tiếng Hán là hai ngôn ngữ điển hình về
loại hình đơn lập. Cả hai ngôn ngữ đều dùng trật tự từ làm phƣơng thức cơ bản để
biểu hiện quan hệ ngữ pháp giữa các từ hoặc cụm từ.
Song, trật tự của đoản ngữ danh từ trong hai ngôn ngữ này lại rất khác
nhau. Chẳng hạn, khi ngƣời Việt nói: máy bay thì ngƣời Hán lại nói: 飞机 [phi cơ];
còn khi ngƣời Việt nói: quyển sách Trung văn này thì ngƣời Hán lại nói: 这本中文

书 [giá bản Trung văn thư : này - quyển - Trung - văn - sách]. Tuy vậy, trật tự của
chúng lại giống nhau ở vị trí số lƣợng từ trƣớc TTN theo mô hình sau:
Số từ + lƣợng từ + TTN [tiếng Hán]
Số từ + đơn vị từ + TTN [tiếng Việt]
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy tiếng Hán cho ngƣời
Việt, chúng tôi nhận thấy, đa số học sinh trong giai đoạn đầu học tiếng Hán thƣờng
hay mắc những lỗi về trật tự từ, đặc biệt là trật tự của các từ ngữ làm ĐN trong
đoản ngữ danh từ, một đơn vị ngữ pháp tƣơng đƣơng với từ để tạo câu. Nguyên
nhân chủ yếu là các học viên có thói quen tƣ duy theo lối tƣ duy của tiếng mẹ đẻ khi
thấy hai ngôn ngữ có những điểm tƣơng đồng về ngữ pháp.
Vì thế, trong luận văn này, chúng tôi chọn đề tài: Nghiên cứu thành phần
định ngữ của đoản ngữ danh từ tiếng Hán hiện đại [trong sự so sánh với thành
phần định ngữ của đoản ngữ danh từ tiếng Việt]. Đề tài này đƣợc thực hiện nhằm
đƣa ra đƣợc một bức tranh khái quát về ĐN trong đoản ngữ danh từ tiếng Hán có so
sánh với hiện tƣợng tƣơng đƣơng trong tiếng Việt. Trên thực tế, hầu nhƣ cuốn sách
ngữ pháp nào cũng đề cập tới thành phần ĐN trong đoản ngữ danh từ với các cách lí
giải khác nhau.
Ở Việt Nam đã có một vài công trình nghiên cứu về thành phần ĐN trong
đoản ngữ danh từ tiếng Hán có so sánh với tiếng Việt. Tuy vậy, thông qua luận văn
này, chúng tôi cố gắng làm nổi bật những điểm tƣơng đồng cũng nhƣ những điểm dị

1

biệt giữa ĐN tiếng Hán và tiếng Việt trong cấu trúc đoản ngữ danh từ theo một hƣớng
tiếp cận khác, để giúp cho những ngƣời học tập nghiên cứu tiếng Hán và tiếng Việt
có thêm những kiến giải khoa học hữu ích.
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu
Thực hiện luận văn này chúng tôi muốn phân tích, lý giải các loại ĐN cho
danh từ trong tiếng Hán cả về mặt cấu trúc và ngữ nghĩa, các loại từ ngữ có thể
tham gia làm ĐN trong tiếng Hán. Sau đó, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh ĐN trong
đoản ngữ danh từ tiếng Hán với ĐN trong đoản ngữ danh từ tiếng Việt nhằm làm
nổi bật những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng, từ đó rút ra đƣợc những
qui tắc ngữ pháp nhất định để có thể giúp cho ngƣời sử dụng hai ngôn ngữ này
tránh những sai sót do lối tƣ duy của tiếng mẹ đẻ gây ra.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này có đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu là các loại từ ngữ có thể
tham gia đảm nhiệm chức vụ ĐN trong đoản ngữ danh từ tiếng Hán; các loại từ ngữ
có thể tham gia đảm nhiệm chức vụ ĐN tƣơng đƣơng trong đoản ngữ danh từ tiếng
Việt.
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Ngữ liệu trong luận văn này lấy từ các sách báo phổ thông [danh sách tƣ
liệu nghiên cứu sẽ đƣợc trình bày ở cuối luận văn] trong tiếng Hán và tiếng Việt.
Để hoàn thành đƣợc những nhiệm vụ đã đặt ra, ngoài việc sử dụng những
phƣơng pháp làm việc chung [phân tích, tổng hợp], chúng tôi còn sử dụng một số
phƣơng pháp, thủ pháp làm việc nhƣ: phân tích cấu trúc, phân tích ngữ cảnh, phân
tích đối chiếu.
Phƣơng pháp phân tích cấu trúc sẽ là phƣơng pháp làm việc chủ đạo để có
thể tìm ra sự phân bố [trật tự và vị trí] và khả năng kết hợp của các thành tố trong
cấu trúc đoản ngữ đoản ngữ danh từ. Khi gặp những trƣờng hợp phức tạp, lối phân
tích cấu trúc không làm rõ đƣợc các phẩm chất ngữ pháp của các từ ngữ tham gia
làm ĐN trong đoản ngữ danh từ, chúng tôi sẽ sử dụng bổ sung các thao tác phân
tích ngữ cảnh. Tiếp theo, thao tác phân tích đối chiếu sẽ đƣợc sử dụng để làm rõ các
phẩm chất ngữ pháp của những yếu tố tham gia làm ĐN trong đoản ngữ danh từ
của cả tiếng Hán và tiếng Việt. Trong phân tích đối chiếu, đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn là ĐN trong tiếng Hán. Vì thế, tiếng Hán sẽ là ngôn ngữ nguồn, còn tiếng
Việt sẽ là ngôn ngữ đích, và tiếng Hán sẽ là ngôn ngữ đƣợc chúng tôi mô tả kỹ.

2

5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc bố cục thành ba chƣơng.
Chƣơng I. Những khái niệm có liên quan đến đề tài.
Chƣơng II. Các yếu tố tham gia làm định ngữ trong đoản ngữ danh từ
tiếng Hán.
Chƣơng III. Sự phân bố của các loại định ngữ trong đoản ngữ danh từ
tiếng Hán.

3

CHƢƠNG I.
NHỮ NG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Định ngữ trong đoản ngữ danh từ tiếng Hán
1.1.1. Khái niệm định ngữ
ĐN là thành phần tô điểm hoặc hạn định cho danh từ[*]. ĐN trả lời cho câu
hỏi của ai? loại gì? bao nhiêu?; có nghĩa là, nó là thành phần biểu thị tính
chất, trạng thái, chất liệu, số lƣợng, nơi chốn thời gian, phạm vi... Trong cấu trúc
đoản ngữ danh từ, thành phần đƣợc tô điểm, hạn định là thành phần trung tâm hay
trung tâm ngữ [TTN]. Khác với ĐN của danh từ trong tiếng Việt, ĐN của danh từ
trong tiếng Hán bao giờ cũng đƣợc đặt trƣớc thành phần trung tâm, giữa ĐN và
TTN có thể có hoặc không có trợ từ kết cấu 的. ĐN có thể là danh từ, đại từ, tính từ,
số lƣợng từ và các ngữ v.v... Ví dụ:
ĐN là danh từ, đại từ: 他的书/ 学生的笔/ 工人的建议 [sách của anh ấy/
bút của học sinh/ kiến nghị của công nhân]. Loại ĐN này thƣờng trả lời cho câu hỏi
của ai?.
ĐN là tính từ và danh từ: 新铅笔/ 中国画报/ 世界地图 [bút chì mới/ họa
báo Trung Quốc/ bản đồ thế giới]. Loại ĐN này thƣờng trả lời cho câu hỏi loại
gì?.
ĐN là số lƣợng từ: 两张报/五支钢/ 一把椅子 [hai tờ báo/ năm chiếc bút
máy/ một chiếc ghế]. Loại ĐN này trả lời cho câu hỏi bao nhiêu?.
Nhƣ vậy, có thể thấy không phải lúc nào giữa ĐN và TTN cũng có trợ từ
kết cấu 的. [Điều này sẽ đƣợc làm rõ trong chƣơng II].
Cho đến nay, trong giới nghiên cứu Hán ngữ đã đạt đƣợc một sự thống
nhất tƣơng đối về khái niệm và nội hàm của thuật ngữ ĐN. Tuy nhiên, tác giả Chu
Đức Hy [Trung Quốc] đề xuất thêm khái niệm chuẩn định ngữ [75, tr.146]. Tác
giả dẫn ra các loại ĐN sau:
[A] 张三的原告,李四的被告 [Trƣơng Tam là nguyên cáo, Lý Tứ là bị cáo].
[B] 他篮球打得好 [anh ta chơi bóng rổ rất tốt].
[C]我来帮你的忙 [tôi đến để giúp anh].
Theo cách lí giải của Chu Đức Hy thì các ĐN này đều do các đại từ nhân
___________________
[*] Thuật ngữ thành phần định ngữ đƣợc dừng ở đây theo cách của các nhà Hán học Trung Quốc. Trong
tiếng Việt, có sự phân biệt thành phần định ngữ đùng cho câu.còn thành phần làm yếu tố thuyết minh cho
danh từ trung tâm danh ngữ là định tố. [Xem Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Văn Hiệp và
Nguyễn Minh Thuyết]. Trong luận văn này chúng tôi dùng định ngữ với nghĩa định tố.

4

xƣng và danh từ chỉ ngƣời đảm nhiệm, và đều biểu thị quan hệ sở thuộc. Thực chất,
trong [A], [B], [C], 的 đều không biểu thị quan hệ sở thuộc. Và:
[A] tƣơng đƣơng với 张三是原告,李四是被告.
[B] tƣơng đƣơng với 他打篮球打得好.
[C] tƣơng đƣơng với 我来给你帮忙.
Trong những trƣờng hợp này, theo Chu Đức Hy, về thực chất, loại [A]
thƣờng có cấu trúc ngữ pháp là một kết cấu chính phụ, vì trƣớc loại câu này có thể
thêm 的.

是张三的原告 tƣơng đƣơng với 原告是张三.
今天是老张的主席 tƣơng đƣơng với 今天主席是老张
Cấu trúc này, về bản chất, chính là cấu trúc 是..的. [Điều này cũng sẽ
đƣợc làm rõ trong chƣơng II].
[是]瓦特发明的蒸汽机 tƣơng đƣơng với 蒸汽机是瓦特发明的 [máy hơi
nƣớc do Giêm Oát phát minh].
Loại [B] có thể lƣợc bỏ chữ 的 sau khi thay đổi kết cấu chính phụ, biến câu
có kết cấu chủ vị thành câu vị ngữ chủ vị.

他的篮球打得好 他篮球打得好 [anh ta chơi bóng rổ rất tốt].
他的部长没当成 他部长没当成 [ông ta không làm đƣợc bộ trƣởng].
Hai câu trên có thể viết lại nhƣ sau:

他打篮球打得好
他当部长没当成
Chu Đức Hy cho rằng 他的 ở trên là chuẩn định ngữ . Loại cấu trúc này
luôn tiềm tại tính mơ hồ cú pháp; chẳng hạn:他的小说看不完. Trong câu này 他的
có thể hiểu là định ngữ thật, biểu thị quan hệ sở thuộc, và nhƣ vậy ý nghĩa của câu
sẽ là: tiểu thuyết do anh ta viết [hoặc: tiểu thuyết của anh ta] đọc chƣa xong.

5

Và cũng có thể hiểu 他的 là chuẩn định ngữ, tƣơng đƣơng với các lối
nói:

他小说看不完 hoặc 他看小说看不完 [anh ta xem tiểu thuyết chƣa xong].
Loại [C], nhƣ chúng ta đều biết, có kết cấu thuật tân, bản thân nó không
mang tân ngữ; tuy nhiên, về lý thuyết kết cấu thuật tân có thể có cái mà chúng ta
thƣờng gọi là bổ ngữ, tức vật tiếp nhận hành động. Chẳng hạn, với kết cấu 开玩笑
[nói đùa], chỉ có thể nói 开我的玩笑 [khai ngã đích ngoạn tiếu], chứ không thể nói:

开玩笑我 [khai ngoạn tiếu ngã]. Và ở trên, theo Chu Đức Hy, 我的 chính là chuẩn
định ngữ.
Ở đây, về đại thể, chúng tôi tán đồng quan điểm của Chu Đức Hy. Tuy
nhiên, riêng loại [B], chúng tôi nhận thấy bản thân Chu Đức Hy có một số điểm
mâu thuẫn sau:
Trong tiếng Hán cũng nhƣ trong tiếng Việt, có một loại câu có cấu trúc ngữ
pháp của câu chủ động nhƣng lại mang ý nghĩa bị động, hay nói cách khác, đó là
loại câu bị động có hình thức trùng với hình thức của câu chủ động. Ví dụ:

课文讲完了 , 语法还没有讲呢 [bài đọc giảng xong rồi, ngữ pháp chƣa
giảng].

他的汉字写得不但正确 , 而且好看 [chữ Hán của nó viết không những
chính xác mà còn rất đẹp].
Xét ví dụ sau: 她说汉语说得很流利 [cô ta nói tiếng Hán rất lƣu loát]. Đây
là một câu có bổ ngữ chỉ trình độ, và có thể có các cách nói khác nhƣ sau:

汉语她说得很流利 [tiếng Hán cô ta nói rất lƣu loát]: câu vị ngữ chủ vị, có
mô hình O - S - V.

她汉语说得很流利 [cô ta tiếng Hán nói rất lƣu loát]: câu vị ngữ chủ vị, có
mô hình S - O - V.

她的汉语说得很流利 [tiếng Hán của cô ta nói rất lƣu loát]: câu chủ vị, có
mô hình S - V.

6

Theo Chu Đức Hy, 她的 là chuẩn định ngữ. Nhƣ vậy, ở đây có một sự
mâu thuẫn: Chu Đức Hy thừa nhận đó là câu chủ vị, nhƣng lại phủ nhận cái vai trò
định ngữ thật của 她的.
Theo chúng tôi, 她的 là định ngữ thật hay "định ngữ đích thực"; vì, 她

的汉语说得很流利 chính là câu có cấu trúc ngữ pháp chủ động, mang ý nghĩa bị
động, và 她的汉语 cũng chính là chủ ngữ của câu.
1.1.2. Ý nghĩa của định ngữ
Nhƣ đã nói ở trên, nói chung, ĐN là bộ phận có giá trị tu sức cho trung tâm
ngữ [TTN]. Quan hệ giữa ĐN và TTN là vô cùng phức tạp. Tuy vậy, về cơ bản, các
nhà nghiên cứu ngữ pháp đều thống nhất chia ĐN thành hai loại: ĐN hạn định và
ĐN miêu tả.
1.1.2.1. Định ngữ hạn định
ĐN hạn định có tác dụng biểu thị số lƣợng, thời gian, nơi chốn, sở thuộc
v.v..., hạn định cho TTN. Nói khái quát, ĐN hạn định có vai trò biểu thị phạm vi
của sự vật. Chúng bao gồm 5 loại chủ yếu sau:
[1] ĐN hạn định biểu thị thời gian. Ví dụ:

老师给我们讲了一个三十年前的故事 [thầy giáo kể cho chúng tôi câu
chuyện ba mƣơi năm trƣớc].

经过十年的努力 , 他成为了一个有名的专家 [trải qua sự nỗ lực mƣời
năm, ông ta đã trở thành một chuyên gia nổi tiếng].

这是一年的工作计划 [đây là kế hoạch công tác trong một năm].
[2] ĐN hạn định biểu thị số lượng từ. Ví dụ:

我要买一本书 [tôi muốn mua một quyển sách].
星期天有很多人去公园玩玩儿 [chủ nhật có rất nhiều ngƣời đi công viên
chơi].

这五本杂志都是田劳的 [năm cuốn tạp chí này đều là của Điền Phƣơng].
[3] ĐN hạn định biểu thị nơi chốn. Ví dụ:

7

桌子上的书都中文的 [những quyển sách trên bàn đều là sách Trung văn].
前边的楼是我们的宿舍 [tòa nhà phía trƣớc là ký túc xá của chúng tôi].
她脑子里的想法我不明白 [ý nghĩ trong đầu cô ta tôi không rõ].
那架飞机向西北方向飞去 [chiếc máy bay đó bay về hƣớng tây bắc].
我们当中的一个人是新来的大夫 [ngƣời ở giữa chúng tôi là bác sỹ mới
đến].

墙上的一张油画是我朋友送的 [bức tranh sơn dầu trên tƣờng là của bạn
tôi tặng].
[4] ĐN hạn định biểu thị sở thuộc. Ví dụ:

我们公司有一个中国职员 [công ty tôi có một nhân viên ngƣời Trung
Quốc].

这是班长的书包 [đây là cặp sách của lớp trƣởng].
刘锋的自行车是新的,我的是旧的 [xe đạp của Lƣu Phong mới, xe của tôi
cũ].

寓公的儿子,孙子都决心移山 [con cháu của Ngu Công đều quyết tâm dời
núi].
[5] ĐN hạn định biểu thị phạm vi. Ví dụ:

你说的话我都记住在心坎里 [những lời anh nói em luôn khắc sâu trong
tâm khảm].

我刚买的书很有意思 [sách tôi mới mua rất hay].
这些杂志都是英文的 [những cuốn tạp chí này đều bằng tiếng Anh].
八路军抗日的功绩永存史册 [chiến công kháng Nhật của Bát Lộ Quân
mãi đƣợc ghi trong sử sách].

我们对武打虎的故事非常感兴趣 [chúng tôi rất thích câu chuyện Võ
Tòng đánh hổ].
Theo các tác giả Hoàng Bá Vinh và Liêu Tự Đông [Trung Quốc], trong ĐN
hạn định có một loại đƣợc gọi là ĐN đồng nhất tính [49, tr.356]. Ví dụ:

8

为谁服务的问题是一个原则问题 [vấn đề vì ai phục vụ là một vấn đề
nguyên tắc].

讲解员讲说着黄土高原变成肥沃良田的远景 [diễn giả nói về viễn cảnh
cao nguyên Hoàng Thổ biến thành ruộng lúa phì nhiêu].
Sở dĩ gọi nhƣ vậy là vì, quan hệ giữa ĐN đồng nhất tính và ngƣời/ vật mà
TTN sở chỉ là quan hệ đồng nhất; trợ từ kết cấu 的 giữa ĐN và TTN có thể đổi
thành 这个, và khi đó đoản ngữ danh từ sẽ biến thành ngữ đồng vị. Chẳng hạn, câu

为谁服务的问题是一个原则问题 [vấn đề vì ai phục vụ là một vấn đề nguyên tắc],
có thể đổi thành: 为谁服务这个问题是一个原则问题 [vì ai phục vụ, vấn đề này là
vấn đề nguyên tắc]; trong đó: 为谁服务这个问题 [vì ai phục vụ, vấn đề này] là ngữ
đồng vị đóng vai trò chủ ngữ trong câu.
1.1.2.2. Định ngữ miêu tả
ĐN miêu tả là loại ĐN tu sức cho TTN về các khía cạnh nhƣ: trạng thái,
tính chất, đặc điểm, công dụng, chất liệu, chức vụ v.v... Loại ĐN này thƣờng đƣợc
chia thành 6 tiểu loại chính nhƣ sau:
[1] ĐN miêu tả biểu thị trạng thái, tính chất của sự vật. Ví dụ:

这是一项非常困难的任务 [đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn].
你连这么漂亮的姑娘也不要,要谁呀 [ngay cả một cô gái xinh đẹp nhƣ
thế mà cậu cũng không thích thì còn thích ai].

今天她穿着一件天蓝色的衬衫 [hôm nay nàng mặc một chiếc áo sơ mi
màu xanh da trời].

小王是一个又聪明又可爱的小孩 [Tiểu Vƣơng là một cậu bé vừa thông
minh vừa đáng yêu].

在科学上没有平坦的大道,只有不畏劳苦沿着陡峭山路攀登的人,才有
希望达到光辉的顶点 [trong khoa học không có con đƣờng bằng phẳng, chỉ có
những ngƣời không sợ mệt nhọc dám trèo lên những con đƣờng gập ghềnh của nó
thì mới có hy vọng đạt tới đỉnh cao của vinh quang].
[C. Mác]

9

在这儿可以看见巍峨的群山 [từ đây có thể nhìn thấy những dãy núi hùng
vĩ].
[2] ĐN miêu tả biểu thị đặc điểm của người hoặc sự vật. Ví dụ:

他是一个矍铄的老人 [đó là một ông già quắc thƣớc].
老林有一些值得尊敬的品德 [anh Lâm có những phẩm chất đáng đƣợc
tôn trọng].

她有一个十二三岁的男孙 [nàng có một cậu con trai chừng mƣời hai
mƣời ba tuổi].

人们要警惕落井下石的朋友 [mọi ngƣời phải cảnh giác với những ngƣời
bạn dậu đổ bìm leo].
[3] ĐN miêu tả thuyết minh về cách sử dụng, nguồn gốc của sự vật. Ví dụ:

他送给我一支写大字的毛笔 [anh ta tặng tôi một chiếc bút lông để viết
đại tự].

那个装衣服的柜子是胶合板的 [chiếc tủ đựng quần áo kia làm bằng gỗ
dán].

她给了我们一些从树上打下来的苹果 [bà ấy cho chúng tôi mấy quả táo
vừa hái trên cây xuống].
[4] ĐN miêu tả biểu thị nghề nghiệp. Ví dụ:

我妹妹是英文老师 [em gái tôi là giáo viên tiếng Anh].
王兰的父亲是一个古文学专家 [bố của Vƣơng Lan là một chuyên gia về
văn học cổ].
[5] ĐN miêu tả biểu thị chất liệu. Loại ĐN này thƣờng trả lời cho câu hỏi
sự vật đƣợc làm bằng cái gì?.

我的房间里摆着一张木头桌子 [trong phòng tôi kê một chiếc bàn bằng
gỗ].

他穿着一件皮大衣 [anh ta mặc một cái áo khoác bằng da].
[6] Ngoài những loại ĐN miêu tả vừa nói ở trên, trong thực tế còn gặp một
số ĐN miêu tả khác. Chẳng hạn:

10

我看完了黄教授的一篇二万字的文章 [tôi đã đọc xong bài báo hai vạn
chữ của giáo sƣ Hoàng]. Trong Hán ngữ, những ĐN kiểu nhƣ: 黄教授的一篇二万

字 trong câu này thƣờng rất khó quy loại.
我的家乡是一个有很多名胜古迹的地方 [quê hƣơng tôi là một nơi có rất
nhiều danh lam thắng cảnh]. Trong câu này,有很多名胜古迹 là một cụm từ cố
định làm ĐN cho danh từ .

我们不喜欢道貌岸然的人 [chúng tôi không thích những kẻbề ngoài thơn
thớt nói cƣời, ở trong nham hiểm giết ngƣời không dao]. Trong câu này, 道貌岸然
là một thành ngữ tham gia làm ĐN cho danh từ.

饥寒交迫的时代一去不返了 [thời kỳ đói rét đã vĩnh viễn qua rồi].
1.1.2.3. Sự khác biệt giữa định ngữ hạn định và định ngữ miêu tả
Xét về đặc tính từ loại, động từ, ngữ động từ, ngữ giới từ, đều có thể đảm
nhiệm vai trò ĐN miêu tả và ĐN hạn định. Xét về mặt chức năng, trên đại thể, ĐN
hạn định và ĐN miêu tả đều là những thành phần phụ trong đoản ngữ danh từ, có
tác dụng tu sức cho danh từ trung tâm; nhƣng khi đi vào chi tiết, giữa chúng còn có
những điểm khác biệt nhất định. Ở đây, có thể kể đến 3 điểm khác biệt quan trọng
sau:
[1] Sự khác biệt về ý nghĩa và chức năng biểu đạt.
ĐN hạn định chỉ rõ cái này, ngƣời này,trong thế phân biệt với cái kia,
ngƣời kia, ĐN hạn định có tác dụng thu hẹp nội hàm khái niệm lại, và do đó,
sẽ mở rộng ngoại diên của khái niệm. Trong một đoản ngữ danh từ, ngƣời ta
hoàn toàn có thể cắt bỏ ĐN miêu tả, chứ không thể cắt bỏ ĐN hạn định. Cắt bỏ
ĐN hạn định sẽ ảnh hƣởng đến tính hoàn chỉnh về mặt thông tin, về khả năng
biểu nghĩa của đoản ngữ, và do đó, sẽ ảnh hƣởng đến khả năng thuyết giải của
ngƣời sử dụng ngôn ngữ, cụ thể là ngƣời tiếp nhận ngôn ngữ. So sánh: con mèo
khoang của tôi đã bị mất và con mèo khoang đã mất. Việc cắt bỏ ĐN miêu tả
không ảnh hƣởng nhiều đến tính toàn vẹn về mặt nội dung của đoản ngữ, không
có ĐN này ta vẫn có thể hiểu đúng nội dung đoản ngữ [chính vì thế mà loại ĐN

11

này, ngoài cái tên ĐN miêu tả ra, còn có khá nhiều tên khác nữa, thể hiện tính
phụ trợ của nó trong đoản ngữ, chẳng hạn nhƣ ĐN trang trí]. Nhƣ thế, nói
một cách tƣơng đối, xét về mặt chức năng, ĐN hạn định sẽ có tác dụng trả lời
cho câu hỏi: cái nào? ai/ người nào? của ai? ở đâu?; ĐN miêu tả sẽ trả lời cho
câu hỏi: như thế nào/ ra sao? Vì thế, nói một cách khái quát, ĐN hạn định sẽ
bao chứa các ý nghĩa về thời gian, nơi chốn, quan hệ sở thuộc Ví dụ:

北京的冬天天气很冷 [mùa đông ở Bắc Kinh khí hậu rất lạnh]. Ở đây,
北京 [Bắc Kinh] đƣợc khu biệt với các nơi khác.
今天的课文比较难 [bài học của ngày hôm nay tƣơng đối khó].今天 [ngày
hôm nay] khu biệt với ngày khác.

桌子上的杂志都是我的 [các tạp chí trên bàn đều là của tôi]. 桌子 [bàn]
khu biệt với bàn khác hoặc chỗ khác.
Thêm vào đó, xét về mặt kích thƣớc vật chất, nói chung ĐN hạn định có
thể là đoản ngữ đƣợc cấu tạo từ một cấu trúc ngữ pháp chủ vị, trong đó vị ngữ
thƣờng do động từ đảm nhiệm; đa số ĐN miêu tả không có đặc tính này. Điều này
gần nhƣ là tuyệt đối. Ví dụ:

专家讲的话我听不懂 [những lời mà chuyên gia nói tôi không hiểu đƣợc].
专家讲 [chuyên gia nói] khu biệt với không phải chuyên gia, hoặc chuyên gia
khác nói.

她做的饭非常好吃 [cơm mà cô ta nấu rất ngon]. 她做 [cô ta nấu] khu biệt
với ngƣời khác nấu.
ĐN miêu tả có tác dụng cung cấp thêm những thông tin phụ nhằm nêu rõ
những thuộc tính có tính chất bản thể cho cái đã đƣợc thể hiện bằng danh từ trung
tâm. Khi sử dụng loại ĐN này, ngƣời nói chủ yếu miêu tả bản thân sự vật mà không
quan tâm tới các sự vật khác. Nói cách khác, ĐN này chỉ rõ ngƣời hoặc sự vật đó
nhƣ thế nào. Vì vậy, ĐN miêu tả thƣờng là tính từ/ ngữ tính từ hoặc một ngữ có cấu
trúc ngữ pháp chủ vị, trong đó vị ngữ thƣờng do tính từ đảm nhiệm. Ví dụ:

我刚买了一本很有意思的书 [tôi mới mua một cuốn sách rất hay].
她是一个性情温和的姑娘 [đó là một cô gái tính tình hòa nhã].

12

Chúng tôi nói thƣờng là vì, động từ/ ngữ động từ, ngữ chủ vị, ngữ giới từ
vừa có thể đảm nhiệm vai trò của ĐN hạn định vừa có thể đảm nhiệm vai trò của
ĐN miêu tả. Nói rõ hơn, những từ ngữ thuộc loại này xuất hiện ở những vị trí khác
nhau trong đoản ngữ và ở những vị trí khác nhau trong câu sẽ đảm nhiệm những
cƣơng vị ngữ pháp khác nhau.Ví dụ:

戴近视眼镜的那个小伙子就是我们班的班长 [anh chàng đeo kính cận
kia là lớp trƣởng lớp tôi]; ở đây, 戴近视眼镜 là ĐN hạn định.

教室里只有一个戴近视眼镜的小伙子 [trong lớp học chỉ có một anh
chàng đeo kính cận]; ở đây, 戴近视眼镜 là ĐN miêu tả.

装油的这个桶是我的 [chiếc thùng để đựng dầu này là của tôi]; ở đây, 装
油 là ĐN hạn định.
这是一个装油的桶 [đây là chiếc thùng để đựng dầu]; ở đây, 装油 là ĐN
miêu tả.
Tƣơng tự, ta cũng dễ dàng nhận thấy sự khác nhau về phẩm chất ngữ
pháp của cùng một ngữ giới từ làm ĐN ở những vị trí khác nhau trong hai đoản ngữ
và ở trong hai câu khác nhau sau đây:

从云南民族学院来的那位教授教我们中国古文学 [vị giáo sƣ đến từ Học
viện Dân tộc Vân Nam ấy dạy chúng tôi văn học cổ Trung Quốc]

王先生是一位从云南民族学院来的教授 [Vƣơng tiên sinh là vị giáo sƣ
đến từ Học viện Dân tộc Vân Nam].
[2] Sự khác nhau về vị trí trong đoản ngữ
Trong đoản ngữ, trật tự xuất hiện của ĐN hạn định và ĐN miêu tả cũng
khác nhau: ĐN hạn định đứng trƣớc, ĐN miêu tả đứng sau. Điều này hoàn toàn
ngƣợc với trật tự của ĐN hạn định và ĐN miêu tả trong tiếng Việt. Chẳng hạn:

我刚买的一件羊皮大衣 [một chiếc áo da dê mà tôi mới mua].
Trong đoản ngữ trên,我刚买 [tôi mới mua] là ĐN hạn định,羊皮 [da dê] là
ĐN miêu tả.
[3] Sự khác biệt về tính xác định của TTN sau ĐN

13

TTN sau ĐN hạn định biểu thị một sự vật xác định, còn TTN sau ĐN
miêu tả biểu thị sự vật có thể là xác định mà cũng có thể là không xác định. Ví dụ:

林老师送给我的书很有意思 [quyển sách thầy Vƣơng tặng tôi rất hay].
Trong câu này, 林老师送给我 [thầy Vƣơng tặng tôi] là ĐN hạn định, 书 [ sách] là
vật xác định.

我很喜欢看中文书 [tôi rất thích đọc sách Trung văn]. Trong câu này, 中
文 [Trung văn] là ĐN miêu tả,书 [sách] là vật không xác định.
Tƣơng tự, trong hai câu sau:

教我们汉语的老师是王老师 [thầy giáo dạy chúng tôi tiếng Hán là thầy
Vƣơng] và 她的理想是当一个汉语老师 [nguyện vọng của cô ta là làm giáo viên
tiếng Hán]; rõ ràng là, 老师 [thầy giáo] ở câu trên là xác định, còn 老师 [thầy giáo]
ở câu dƣới là không xác định.
Bàn về ĐN nhiều tầng trong đoản ngữ danh từ tiếng Hán, hai tác giả Hoàng
Bá Vinh và Liêu Tự Đông [Trung Quốc] đã đƣa ra mô hình đoản ngữ sau:

我们学校的 两位 有三十年教龄的 优秀 语文 老 师
[1]
[2]
[3]
[4]
[5] TTN
[hai thầy giáo ngữ văn ƣu tú có ba mƣơi năm trong nghề của trƣờng tôi]
Trong đó:
Vị trí [1]: danh từ biểu thị nơi chốn, đại từ hoặc từ tổ [biểu thị của ai?]
Vị trí [2]: đại từ chỉ thị, từ tổ số lƣợng [biểu thị bao nhiêu?]
Vị trí [3]: động từ, từ tổ động từ [biểu thị thế nào?]
Vị trí [4]: tính từ, từ tổ tính từ biểu thị nhƣ thế nào?]
Vị trí [5]: danh từ biểu thị tính chất [biểu thị cái gì?]
Theo chúng tôi, đoản ngữ trên còn có thể đƣợc mở rộng nhƣ sau:

我们学校的从北京来的两位有三十年教龄的很有名的优秀老师
[hai thầy giáo ƣu tú nổi tiếng có ba mƣơi năm trong nghề đến từ Bắc Kinh
của trƣờng tôi].
Một ví dụ khác:
[他) 的 [一件) (新)



14

(羊皮)

大衣

(1)
(2)
(4)
[một chiếc áo da dê mới của tôi].

(5)

TTN

Trên cơ sở mô hình đoản ngữ danh từ của Hoàng Bá Vinh và Liêu Tự
Đông, chúng tôi đã mở rộng, phân chia lại theo chức năng cú pháp, ý nghĩa biểu đạt
và so sánh với mô hình đoản ngữ danh từ trong tiếng Việt. Điều này sẽ đƣợc thể
hiện trong chƣơng III của luận văn này.
1.2. Khái niệm định ngữ trong đoản ngữ danh từ tiếng Việt
1.2.1. Quan điểm của các nhà Việt ngữ học về định ngữ
Tác giả Diệp Quang Ban trong [3, tr.215] cho rằng: định ngữ là thành
phần phụ của từ đi kèm danh từ và nêu lên những đặc trưng của vật do danh từ ấy
biểu thị. Còn tác giả Đinh Văn Đức thì cho rằng: định ngữ là trung tâm hạn định
cho danh từ là quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của danh từ [9.tr.215].
Tác giả Nguyễn Kim Thản lại đề xuất khái niệm ĐN một cách hết sức khái
quát: trong lời nói, ta thường chỉ ra những đặc trưng hoặc chỉ ra vị trí số
lượng,v.vcủa sự vật, bằng cách thêm thành phần phụ vào.Ta gọi thành phần phụ
vào thể từ là định ngữ [28,tr.43].
Theo các tác giả Nguyễn Văn Tu, Lƣu Vân Lăng, Nguyễn Kim Thản, thì:
thành phần phụ của cụm danh từ trong câu có chức năng bổ sung thêm cho thành
phần chính bằng quan hệ phụ thuộc, chỉ ra các thuộc tính, tính chất của người, vật,
sự vật, hiện tượng do danh từ làm thành phần chính gọi tên. Nói rõ tính
chất,trạng thái sở thuộc của danh từ [đứng ở các thành phần] trong câu
[35,tr.219].
Nhƣ vậy, dù mỗi ngƣời có một cách diễn đạt khác nhau, nhƣng các tác giả
này đều thống nhất ở chỗ, ĐN là thành phần phụ hạn định hoặc miêu tả cho danh từ
[danh từ đó dƣợc gọi là TTN]. Nói cách khác, ĐN là thành phần phụ tu sức cho
TTN. Nó chỉ ra các thuộc tính, tính chất, vị trí, số lƣợng của danh từ làm TTN.
Khi bàn về ĐN cho danh từ, tác giả Hoàng Trọng Phiến cho rằng: về thực
chất loại định ngữ này là định tố của nhóm danh từ làm chức năng bổ ngữ, chủ ngữ
trong câu.Chúng đa dạng về ý nghĩa và phong phú về các phương tiện biểu hiện
[22,tr.141]. Tác giả cũng đã chỉ ra những từ ngữ có thể tham gia làm ĐN cho danh
từ/ nhóm danh từ:
+ ĐN bằng danh từ có giới từ hoặc không có giới từ chỉ ra tính chất, thuộc
tính chủ thể hay khách thể hành động. Đƣa vào mối liên hệ với từ chính có thể chia
thành ba trƣờng hợp:

15

a] Có giới từ: Chủ trƣơng về kinh tế.
b] Không có giới từ: Thƣ máy bay; Tƣờng vôi.
c] Tùy tiện: Dƣ luận [của] nhân dân Mỹ; Nhà [của] ông Hải..
Trƣờng hợp [a] là bắt buộc để phân biệt ĐN với các thành phần bổ ngữ, tổ
hợp tên gọi.
Chẳng hạn, Giấy mời của giáo viên, khác với Giấy mời giáo viên [bổ
ngữ], Mẹ của Suốt khác với Bà mẹ Suốt Chị của em cũng ra ngoài ấy đấy
khác với Chị và em cũng ra ngoài ấy đấy [thành phần đồng loại] v.v...
So sánh với tiếng Hán, trƣờng hợp [a] sẽ tƣơng đƣơng với cụm giới tân làm
ĐN, trƣờng hợp [b] tƣơng đƣơng với danh từ làm ĐN, còn trƣờng hợp [c] tƣơng
đƣơng với danh từ làm ĐN có thể có hoặc không có sự tham gia của trợ từ kết cấu

的 . Điều này sẽ đƣợc chúng tôi lý giải trong chƣơng II.
+ ĐN bằng vị thể từ [động từ và tính từ]. ĐN này chỉ ra dấu hiệu của đối
tƣợng thông qua mối quan hệ của nó với hành động. Ví dụ:
[a] Con đƣờng đau khổ.
[b] Đất nƣớc [được] giải phóng đã sạch bóng quân thù.
[c] Đƣờng đi rất sạch.
[d] Nhiều nhà cao tầng đã đƣợc xây dựng xong.
Trong loại này, thể từ làm ĐN có thể tƣơng ứng hoặc không tƣơng ứng với
vị ngữ:
[a] Giấy giới thiệu.
[b] Điện chúc mừng.
=> Không tƣơng ứng với vị ngữ.
[c] Con cá bơi [yêu nƣớc]
Con chim ca [yêu trời].
[d] Cái lọ đựng hoa.
=> Tƣơng ứng với vị ngữ.
So sánh với ĐN tiếng Hán, loại ĐN này tƣơng ứng với động từ và tính từ
làm ĐN trong đoản ngữ danh từ. Tuy nhiên, trong tiếng Hán, động từ và tính từ làm
ĐN luôn đứng trƣớc TTN nên ĐN không thể tƣơng ứng với vị ngữ. Tuy vậy, giữa
động từ, tính từ và trung tâm ngữ có dùng hay không dùng 的 là một vấn đề tƣơng

16

đối phức tạp. Chẳng hạn, sau động từ làm ĐN nếu không có 的, trong nhiều trƣờng
hợp đoản ngữ sẽ biến thành kết cấu động-tân. Điều này cũng sẽ đƣợc làm rõ trong
chƣơng II.
+ ĐN bằng số từ.
Ví dụ:
[a] Tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu.
[b] Bác Hồ là ngƣời công dân số một.
[c] Quân ta tiêu diệt 10 ngàn tên địch.
Tác giả cho rằng, các ĐN loại này biểu hiện vị trí trật tự trong tính toán.
Khi mang nghĩa tính toán lại đài thêm tiếng thứ.
Ví dụ:
Ngƣời con thứ hai của mẹ đã hy sinh.
Loại ĐN này tƣơng đƣơng với số từ làm ĐN cho danh từ trong tiếng Hán.
Số từ ở đây có thể là số phần trăm, phân số hoặc số thứ tự; khi biểu thị số thứ tự
thƣờng thêm 第 trƣớc số từ.
+ ĐN biểu hiện bằng các xác định từ về mức độ, về không gian, về thời
gian bằng các tổ hợp từ chỉ không gian, thời gian và bằng các đại từ.
Ví dụ:
[a] Công trình này đã đƣợc đánh giá cao.
[b] Phòng bên cạnh là của ai?
[c] Núi phía trước là Ngũ hành sơn.
Loại ĐN này tƣơng đƣơng với đại từ chỉ thị và phƣơng vị từ làm ĐN trong
tiếng Hán.
+ ĐN biểu hiện bằng kết cấu động từ - bổ ngữ
Ví dụ:
Ở đây có cửa hàng bán rượu.
Tác giả cho rằng, về thực chất kiểu ĐN này là biến thể của ĐN biểu hiện
bằng danh từ, vị thể từ.
So sánh:
[a] Cửa hàng bán rƣợu -> Cửa hàng rƣợu
[b] Cửa hàng may đo quần áo -> Cửa hàng may đo [nam nữ]

17

Loại ĐN này tƣơng đƣơng với kết cấu động tân làm ĐN làm trong đoản
ngữ danh từ tiếng Hán; giữa ĐN và TTN bắt bƣợc phải dùng trợ từ kết cấu 的.
Cũng theo tác giả, trong tiếng Việt, xét về tính phức tạp của cấu trúc có thể
chia định ngữ nhóm danh từ này thành ĐN đơn giản và ĐN phức tạp. ĐN phức tạp
bao gồm ĐN đƣợc biểu hiện bằng các kết cấu có hƣ từ hoặc không có hƣ từ và ĐN
đồng loại. Chẳng hạn:
[a] Con ngƣời chưa nói đã cười
Chưa đi đã chạy là người vô duyên.[Ca dao]
[b] Hắn nhe hàm răng sáng quắc như gươm.
[c] Tao già không sức cầm dao
Giết bay đã có con tao trăm vùng![Tố Hữu]
Tác giả khẳng định, chính tình hình này đã tạo ra những dữ kiện cho việc
mở rộng cấu trúc câu đơn tiếng Việt.
Cách phân loại các từ ngữ làm ĐN cho danh từ của tác giả Hoàng Trọng
Phiến đƣợc chúng tôi lấy làm cơ sở để miêu tả, phân tích và so sánh các yếu tố tham
gia làm ĐN cho danh từ trong tiếng Hán và tiếng Việt. Điều này sẽ đƣợc thể hiện
trong chƣơng II.
Nói đến ĐN không thể không nói đến đoản ngữ danh từ; ngƣợc lại, nói
đến đoản ngữ danh từ không thể không đề cập đến ĐN; chúng nhƣ hai mặt của một
vấn đề không thể tách rời nhau. Khi bàn về đoản ngữ danh từ [danh ngữ] trong tiếng
Việt, các nhà Việt ngữ học hầu hết đều đƣa ra mô hình của Nguyễn Tài Cẩn mà
trong đó TTN nằm giữa cấu trúc và các ĐN nằm trƣớc và sau TTN. Dƣới đây là mô
hình khái quát của đoản ngữ danh từ với các vị trí của ĐN nhƣ sau:
ĐN
chỉ gộp
[4]
Tất cả

ĐN
số lƣợng
[3]

ĐN
cái
[2]

ĐN
loại từ
[1]

TTN
[0]

ĐN miêu
tả
[1']

ĐN
chỉ định
[2']

những
cái
con
mèo
đen
ấy
Đó là quan điểm ban đầu của Nguyễn Tài Cẩn về đoản ngữ danh từ tiếng

Việt. Sau này, Nguyễn Tài Cẩn lại đề xuất mô hình đoản ngữ danh từ với hai trung
tâm ngữ [T1 và T2]. Ông cho rằng, hầu hết các từ ở vị trí TTN [trung tâm ngữ thứ
nhất -T1] đều không thể kết hợp trực tiếp với số từ vì chúng là các danh từ không
đếm đƣợc. Tuy nhiên, chỉ các từ ở vị trí đoản ngữ loại từ [đơn vị từ] mà ông gọi là
TTN thứ hai - T2 mới kết hợp đƣợc với TTN. Khi nghiên cứu về từ các, tác giả
Nguyễn Tài Cẩn đƣa ra kết luận, chỉ những từ ở vị trí đoản ngữ loại từ mới kết hợp

18

Tải về bản full

Video liên quan

Chủ Đề