So sánh tết cổ truyền xưa và nay năm 2024

Đầu tiên là nuôi lợn. Giống lợn quê cho ăn cám nấu cây chuối, dọc khoai hay bèo tấm, sức lớn mỗi tháng chỉ 4-6 kg, nên để đạt trọng lượng 50-60kg thịt cho ngày Tết, phải nuôi từ đầu năm.

Việc gói bánh chưng cũng được chuẩn bị từ rất sớm. Ngay từ đầu tháng Chạp, mọi người đã lo mua gạo nếp, đậu xanh... để sẵn. Thậm chí lá dong, lạt buộc... cũng phải lo liệu trước, không đợi cận Tết mới sắm.

Đến rằm tháng Chạp thì mọi nhà bắt đầu làm dưa hành. Hành củ to tròn, mua về ngâm nước tro bếp 5 ngày, rồi bóc vỏ, cắt rễ, trộn muối; 2 ngày sau thì đổ nước ngâm, mất 7-8 ngày nữa củ hành mới hết cay chuyển thành dưa chua dôn dốt. Dù không phải món chính, nhưng dưa hành là món không thể thiếu trên mâm cỗ ngày Tết và được xếp vào 6 loại phẩm vật đặc trưng của Tết cổ truyền xưa: "Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh/Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.”

Không khí Tết bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp khi nhà nhà cúng ông Công ông Táo lên chầu Trời. Ngày 24 trở đi đã rộn rã lắm rồi, trẻ con mua pháo lẻ ở chợ về đốt chơi đì đùng ở sân đình. Người lớn đi tạ mộ ông bà cụ kỵ; lau dọn bàn thờ tổ tiên; tổng vệ sinh nhà cửa, ngõ xóm... Từ 27 đến 30 tháng Chạp, nhà nhà lo mổ lợn, gói bánh chưng, bánh tẻ, quấy chè lam, nấu kẹo lạc, làm bỏng mụn...

Chỉ có một số ít gia đình quan lại và dân phố phường, thành thị là ăn Tết có cao lương mĩ vị đắt tiền, còn đại đa số người dân lấy bánh chưng, thịt lợn làm cơ bản để cúng và ăn Tết. Nhà đông người hay có điều kiện thì mổ một con lợn, nhà ít người hoặc nghèo thì chung nhau hai, ba, bốn nhà một con. Suốt các ngày từ 28 đến 30 tháng Chạp tiếng lợn kêu eng éc khắp làng xóm, các bến nước hai bên bờ sông kẻ lên người xuống dập dìu, chỗ này cọ lá dong, chỗ kia làm lòng lợn.

Quanh năm bữa ăn toàn là rau dưa, cà kiệu... Tết đến mổ con lợn ra mới có điều kiện bày vẽ, trước cúng, sau ăn. Cái sỏ thường dùng gói giò gọi là giò thủ, đôi thăn giã nhuyễn gói giò lụa, cũng có nhà gói cả giò mỡ. Chả rán thì dùng thịt nạc giã nhuyễn nặn như chiếc đĩa, chả nướng thì thái miếng ướp hành nước mắm, ướp cả riềng mẻ nữa, vót tre làm xiên mỗi xiên 7-8 miếng.

Những khổ thịt ba chỉ hay nửa nạc nửa mỡ luộc qua cho cứng lại rồi thái thỏi bề ngang vài ngón tay, đem áp chảo. Sườn thì chặt quân cờ nướng chả vè hoặc tút xương làm chả chìa. Xương để hầm măng khô. Món nem thính gói lá ổi cũng nhiều nhà làm, vì có nó hương vị Tết mới đậm đà...

Bánh chưng là món ăn ngon, hạt gạo tự mình làm ra chẳng cần đong đếm. Song ngặt một nỗi là chiếc nồi đồng luộc được ba bốn chục bơ gạo bánh, trong làng chỉ có năm bẩy nhà giàu sắm được.

Vì vậy phải mượn chuyền tay nhau, phải dạm trước với nhà chủ để còn sắp xếp. Có nhà luộc bánh từ sáng ngày 27, nhà mượn cuối cùng là chiều 30, tính đếm sao cho kịp trả nồi trước lúc gia chủ thắp hương đón giao thừa, tiếng pháo nổ rền mừng năm mới.

Chiều 30 Tết, nhà nào cũng cắm một cây nêu ở giữa sân. Dùng cây tre nhỏ hay cây nứa còn bánh tẻ để nguyên ngọn cong vút như cần câu, buộc lá cờ đuôi nheo xanh đỏ hoặc túm lá dứa dại làm tín hiệu chào đón “ông bà ông vải” về ăn Tết, và để ngăn trừ ma quỷ.

Khâu chuẩn bị cuối cùng là món tiền lẻ để phát vốn cho trẻ con. Trước tiên là sáng mùng Một phát vốn cho con cháu trong nhà, sau đó bất cứ đứa trẻ nào đến chơi cũng được phát vốn. Trường hợp có bổn phận phải đến chúc Tết các bậc vai vế bề trên, thì cũng cần mang theo tiền lẻ để phát vốn cho trẻ nhỏ.

Bên cạnh sắm sửa Tết cho nhà mình, người xưa còn chuẩn bị đồ lễ, biếu. Con cháu khi đã ra ở riêng, dù xa xôi cách trở, cũng tìm về lo liệu biếu Tết cho ông, bà, cha mẹ, nhiều ít tuỳ hoàn cảnh sinh sống; học trò, dù có trở thành ông nghè, ông cống, bia đá có đề tên thì cũng nhớ về thăm thầy cũ.

Có thể thấy, công việc chuẩn bị cho Tết nhiều công đoạn và vất vả là vậy, nhưng mọi người ai nấy đều vui mừng háo hức.

Nay: chơi Tết

Cuộc sống ngày càng đủ đầy nên việc ăn uống trong ngày Tết hiện đã không còn quá quan trọng. Nếu như xưa kia, cả năm chỉ đợi đến ngày Tết để được ăn miếng bánh trưng, thịt lợn, gà... thì nay bánh trưng được bán quanh năm ngoài chợ, thịt cá là những thức ăn hàng ngày.

Do đó, đây không còn là những món ăn đặc biệt, cơ bản trong ngày Tết nữa. Nhiều gia đình vẫn duy trì việc gói bánh trưng nhưng chỉ là để vui, để cho có không khí ngày Tết.

Việc chuẩn bị Tết cũng không phải cầu kỳ, vất vả như trước. Mọi mặt hàng từ hoa quả, bánh trái, thực phẩm, đồ uống... đều có sẵn, chỉ dành ra một, hai buổi là có thể sắm đủ. Thậm chí, không cần ra chợ, chỉ vài cú click chuột hay đôi cuộc điện thoại đặt hàng, mọi hàng hóa đều đến tay.

Tết nay, bên cạnh xu hướng về quê đón Tết của những người xa xứ, còn có xu hướng đi du lịch của những gia đình hiện đại. Nếu như trước đây, Tết là cơ hội để cho mọi người được ăn ngon mặc đẹp, thì nay, người ta dành thời gian nghỉ Tết cho việc vui chơi giải trí, thăm thú bạn bè hay đi du lịch...

Nói đến Tết xưa người ta không thể không nhắc tới hai câu thơ: 'Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh' - Ảnh: Internet

Theo lịch trăng, gắn liền với nền văn minh lúa nước có chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dằng dặc đầy bão giông, máu lửa, cái Tết khởi niên bắt đầu từ buổi sáng thứ nhất của 12 tháng. Riêng tên gọi Tết Nguyên đán cũng đã bao hàm ý nghĩa sự bắt đầu (Nguyên), buổi sớm (Đán).

Sách Tùy thư địa lý chí viết về lễ tết, các phong tục tập quán của người Việt vào giữa thế kỷ 1 sau Công nguyên có đoạn: Năm nào đến ba ngày Nguyên đán, người ta cũng dọn cỗ bàn linh đình cúng tổ tiên, trai gái ăn chay, và dùng hương hoa niệm Phật, rồi rủ nhau chơi đu ném còn, hát múa, kéo co, bên nào được cuộc thì uống rượu, bên nào thua cuộc thì phải chịu uống nước lã…

Theo dòng thời gian, Tết Nguyên đán ít nhiều có những biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển xã hội, hoàn cảnh đất nước, lối sống con người nhưng ý nghĩa cốt lõi hầu như vẫn được lưu giữ. Đó là mừng năm mới với những hy vọng tốt lành, may mắn sẽ đến với mọi nhà, mọi người. Đó là giữ đạo lý Uống nước nhớ nguồn thông qua tục thờ cúng thần linh, tổ tiên, người thân đã mất trong dịp Tết. Từng lời nói, hành vi trong những ngày đầu năm đều hướng tới sự sạch sẽ, tinh tươm, tốt đẹp. Sự khởi đầu vui tươi lành mạnh trong mấy ngày Tết tạo cảm hứng, niềm tin về một năm may mắn, hanh thông cho nhiều người.

Nói đến Tết xưa người ta không thể không nhắc tới hai câu thơ:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Phong vị Tết Việt đã hiện rõ trong đó. Từ món dùng để thờ cúng, ăn uống trong dịp đầu xuân (bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành) đến những thứ thuộc về văn hóa (câu đối), tâm linh (cây nêu trừ quỷ), vui chơi (tràng pháo) đều có đủ. Bánh chưng, bánh dày cũng được cổ tích hóa, vừa mang những quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa: Trời tròn đất vuông, vừa phản ánh tâm thức của dân tộc về đạo lý sống: Phải biết yêu thương và tri ân.

Xưa, dù cái ăn, cái mặc còn nhiều thiếu thốn nhưng có vẻ người ta luôn chăm chút cho Tết. Cỗ bàn dâng cúng trời đất, thần linh, tiên tổ đều phải được chuẩn bị nghiêm ngắn, sạch sẽ; nghi thức lễ lạt cũng không thể đại khái, "đâu phải ra đấy", có như vậy thì thần linh, ông bà mới hài lòng khi được con cháu mời về ăn Tết.

Câu đối và tranh dân gian là nét đẹp không thể thiếu trong Tết Việt xưa. Năm hết Tết đến, trong mỗi ngôi nhà thường có các câu đối đỏ và những bức tranh dân gian nhiều màu sắc rực rỡ. Các câu đối hướng tới những điều tốt lành như:

Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ

Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường

(Trời thêm năm tháng, tuổi thêm thọ

Xuân khắp đất trời, phúc khắp nhà);

Tân niên hạnh phúc bình an tiến

Xuân nhật vinh hoa phú quý lai

(Năm mới, hạnh phúc bình an đến

Ngày xuân, vinh hoa phú quý về)

Hay, khuyên dạy đạo lý sống tử tế ở đời:

Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức

Khải hậu nhân, trường phát kỳ tường

(Nhớ tổ tiên, đẹp điều nhân đức

Tin con cháu, bền sự lạ hay)…

Tranh Tết cũng phong phú; người ta có thể treo các bộ tứ bình như mai-lan-cúc-trúc tượng trưng cho bốn mùa xuân-hạ-thu-đông hay bốn tố nữ chơi đàn, thổi sáo, gõ phách và ca hát…hoặc các tranh dân gian Hàng Trống, Đông Hồ... như Lý ngư vọng nguyệt (Cá chép trông trăng); tranh Mẹ con đàn gà, Mẹ con đàn lợn, Hứng dừa, Đám cưới chuột, Thầy đồ cóc dạy học…

Có lẽ, phiên chợ Tết là nơi đông vui, nhộn nhịp nhất của những ngày cuối năm. Người bán kẻ mua xôn xao, nhộn nhịp. Cái sự chen chúc, đa thanh, đa sắc mới đáng nhớ làm sao. Những chao chát ồn ã thường ngày của chợ búa chừng như cũng giảm xuống và thay vào đó là những mời mọc chân chất ấm áp hơn. Xin được nhắc lại bài thơ Chợ Tết rất nổi tiếng của Đoàn Văn Cừ. Bài thơ hội tụ đặc sắc các yếu tố tả-kể, họa-nhạc trong thi ca. Nhờ thế, mà bức tranh "sơn mài thơ" ấy vẫn còn rực rỡ, tưng bừng đến hôm nay:

Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.

Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc,

Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,

Vài cụ già chống gậy bước lom khom

Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ...

Hình như cả làng xã, thôn mạc đã kéo về đây, mỗi người một vẻ, chen vai thích cánh trong phiên chợ cuối năm này. Chợ Tết ấm cúng màu sắc của các sản vật đồng quê:

Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha

Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết.

Con gà sống mào thâm như cục tiết...

Không gian chợ sáng lên những mảnh ghép văn hóa truyền thống mà thiếu nó thì chẳng còn cái Tết Việt nữa:

Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,

Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán

Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản,

Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.

Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm

Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ...

Còn bao nhiêu điều muốn nói nữa về Tết xưa như tục mừng tuổi, chúc Tết, hái lộc, các trò chơi như đánh đu, kéo co, đánh cờ người… Có lẽ, phải cần một cuốn sách dày dặn hàng trăm trang mới tải đủ chuyện Tết của trăm miền trên đất nước ta.

Tết bây giờ có gì đáng nói? Âm hưởng truyền thống dù được truyền lưu qua các thế hệ nhưng hương vị Tết cổ truyền có lẽ đã vơi phai đi nhiều rồi. Chuyện sắm Tết, ăn Tết, chơi Tết không còn như thời xưa cũ. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tác động sâu sắc vào nếp nghĩ, lối sống của rất nhiều người vốn có gốc gác từ chốn thôn mạc ruộng đồng với hình ảnh quen thuộc con trâu đi trước cái cày theo sau.

Nhịp điệu cuộc sống thời nay gấp gáp, dồn dập khác xa với sự dềnh dàng, chậm rãi của những tháng năm xưa cũ. Người ta không tất bật sắm Tết như thời trước. Chợ truyền thống cùng với hệ thống siêu thị ăm ắp các mặt hàng giúp các bà, các cô nội trợ sắm Tết dễ dàng. Chỉ cần có tiền, một buổi đi chợ hay siêu thị cũng đủ cho các bà, các cô mang được những thứ mình cần về nhà.

Có tiền là có Tết. Càng nhiều tiền Tết càng to. Điều đáng nói nhất là khi sự phân hóa giàu nghèo đã trở nên sâu sắc với khoảng cách xa rộng như hiện nay thì cái Tết của từng nhà rất không giống nhau. Ăn Tết, chơi Tết đều khác nhau. Đôi khi, một cây đào, gốc mai hay những chậu hoa quý bày trong phòng khách nhà này bằng số tiền chi cho vài chục cái Tết của nhà khác.

Giờ đây, chúc Tết qua điện thoại đã trở thành phổ biến. Trong thế giới phẳng, mạng xã hội kết nối rộng rãi trong ngày thường cũng như Tết, tiện lợi và ít tốn kém tiền của nhất. Lời chúc, hoa tươi, quà mừng, rộn ràng, rực rỡ, hào phóng trên mạng xã hội. Rất nhiều trò chơi dân gian cũng như các dòng tranh Tết có nguy cơ bị quên lãng. Người ta có nhiều lựa chọn hiện đại hơn trong chơi Tết. Du lịch là một xu hướng lựa chọn được chú ý trong mấy năm gần đây. Gia đình, người thân cùng nhau đến những miền đất mới trong mấy ngày nghỉ Tết là kiểu vui xuân nhẹ nhàng tuy khá tốn kém.

Một số phong tục đẹp bị biến tướng theo chiều hướng không hay như lì xì (tiền mừng tuổi), hái lộc… Hái lộc biến thành chuyện bẻ cành, xô cây và phong bì lì xì nhiều khi chứa đựng sự vụ lợi, cầu cạnh. Ý nghĩa của việc mừng tuổi bị chi phối bởi mệnh giá đồng tiền.

Tết cổ truyền nên hướng về sự ấm áp, đoàn tụ, chia sẻ, thương yêu trong gia đình, dòng họ, xã hội. Đừng phô trương, hoang phí trong mấy ngày Tết. Niềm vui trọn vẹn của những ngày đầu năm sẽ lâng lâng theo ta đi suốt mười hai tháng. Dù còn nhiều nhọc nhằn vất vả, ai cũng mang trong mình những kỷ niệm đẹp về Tết. Tết vui tươi mà nhẹ nhàng, thiết nghĩ, ai cũng cần điều đó.