Sự tập trung chú ý là gì

Trí nhớ là quá trình tâm lí có liên quan chặt chẽ tới toàn bộ đời sống tâm lí của con người. Nếu không có trí nhớ, con người không thể có được quá khứ và cũng không thể có được tương lai: người đó chỉ sống được với  những gì  đang diễn ra.  Một người như vậy không  thể  làm  được  bất  kì  việc  gì, họ  cũng không biết  mình là ai và cũng không thể định hướng được thời gian, không gian.

Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu  để  con người  có được  đời sống tâm lí  bình thường, ổn định và lành mạnh.  Trí  nhớ  cũng  còn là điều kiện để con người phát triển được các chức năng tâm lí cấp cao, tích luỹ  kinh  nghiệm  và  sử dụng những kinh nghiệm đó vào  trong đời  sống,  đáp ứng  với  yêu cầu ngày càng  cao  của cuộc sống cá nhân và xã hội.

Đối với nhận thức, trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nhờ có trí nhớ, các biểu tượng của cảm giác, tri giác được lưu giữ làm nguyên  liệu cho  tư  duy.  Trí  nhớ cũng còn là nơi lưu giữ các quyết định, khái niệm..., kết quả của tư duy và các biểu tượng cảm xúc...

Trong Tâm lí học, trí nhớ  được  định nghĩa  là một  quá  trình ghi  lại, giữ lại  và tái hiện những gì cá nhân thu được  trong hoạt  động sống của mình.  Như  vậy  nét đặc trưng nhất của trí nhớ  là trung thành với  tất  cả những  gì  cá nhân  đã trải  qua. Trí nhớ không làm thay đổi những thông  tin  mà  nó  thu  được  và giữ  gìn.  Đây cũng chính là sự khác biệt của trí nhớ với nhận thức cũng như với tưởng tượng.

Các quá trình cơ bản của trí nhớ:

Quá trình trí nhớ bao gồm các  quá  trình thành  phần:  ghi  nhớ,  giữ gìn, tái hiện và quên.

Ghi nhớ:

Thường thường người ta chia ghi nhớ của con người thành 2 loại:

Ghi nhớ không chủ định là không  định  trước  cho mình nhiệm vụ  ghi  nhớ. Đây là loại ghi nhớ  không  cần phải  có  biện pháp  gì.  Ưu điểm của loại  ghi  nhớ  này là nhớ nhanh, nhớ lâu, tốn ít  sức  lực  và  thời  gian.  Tuy  nhiên trong đời sống tâm lí của con người, hình thức ghi nhớ chủ yếu là có chủ định.

Ghi nhớ có chủ định là loại ghi nhớ đặt trước cho mình mục  đích ghi nhớ. Trong dạng ghi nhớ này, con người cần có nỗ lực ý chí và phải sử dụng những thủ thuật, phương tiện ghi nhớ nhất  định.Ghi  nhớ  có  chủ  định  được  thực  hiện bằng hai thủ thuật:

Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ  dựa  vào  sự liên hệ  bề  ngoài  như trật tự  phát âm, liên tưởng... mà  không  cần  đi  sâu  vào  nội  dung tài  liệu. Những liên hệ  bề ngoài này mang tính tạm thời và ít bền vững.

Ghi nhớ ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa vào sự hiểu biết nội dung, mối quan hệ  logic bên trong của sự vật, hiện tượng. Do cần phải hiểu nên ghi nhớ ý nghĩa tốn nhiều thời gian hơn. Ngược lại,  tài  liệu được  ghi  nhớ  tốt hơn, khối  lượng nhiều hơn và thời gian bền hơn.

Giữ gìn:

Giữ gìn là quá trình củng cố  vững  chắc  những  dấu  vết  đã  được  hình  thành trên vỏ não khi nhớ. Người ta chia ra làm 2 loại giữ gìn: tiêu cực  và  tích cực. Nếu như ta lặp đi lặp lại nhiều lần tri giác tài liệu thì ta có giữ gìn tiêu cực. Còn ta chủ động tái hiện tài liệu đã ghi nhớ thì đó là giữ gìn tích cực.

Nhận lại và nhớ lại:

Nhận lại: là nhận ra đối tượng khi  đối tượng được  tri  giác  lại. Nhận  lại  có thể nhanh chóng và  chính  xác  nếu hình ảnh  cũ được  giữ gìn một  cách vững  chắc và hình ảnh mới trùng hợp với hình ảnh cũ. Trong nhiều trường hợp, do thời  gian  hoặc do các yếu tố khác,  hình ảnh  mới  đã thay đổi nhiều so  với  hình ảnh cũ. Do vậy chúng ta không thể nhận lại được. Cũng có  trường  hợp,  do  có  một  số  nét giống nhau giữa một biểu tượng cũ và biểu tượng  mới,  chủ  thể  đã nhận  nhầm. Quen quen hoặc hao hao hay hình  như...  là những  từ  thường  được  dùng  khi  chủ thể còn nghi  ngờ  tính chuẩn xác  của nhớ  lại. Chính vì  lẽ  đó, nhận  lại  không phải  là tiêu chuẩn đáng tin cậy về độ chính xác của trí nhớ.

Nhớ lại: làm hiện lại trong óc hình ảnh của đối tượng đã được tri giác trước  đây khi đối tượng không còn ở trước mặt ta. Nhớ lại mang tính cá nhân rất rõ nét; cùng một tài liệu được quan sát nhưng  mỗi  người  nhớ  lại  một  cách  khác  nhau cùng một bài học, một bộ phim,  một  sự kiện nhưng nội dung của những người lại  nhớ lại lại không hoàn toàn  giống  nhau.  Sự  khác nhau  này  là  do  kinh  nghiệm, hiểu biết, tình cảm, hứng thú... không giống nhau.

Các loại trí nhớ:

Phân loại theo biểu tượng:

Trí nhớ vận động: là trí nhớ những quá  trình vận  động ít nhiều mang tính tổ hợp. Loại trí nhớ nhớ này đặc biệt quan trọng để hình thành kĩ xảo trong lao  động chân tay. Vận tốc hình thành và độ bền  của  kĩ  xảo  được  dùng  làm  tiêu  chí  để đánh giá trí nhớ vận động.

Trí nhớ cảm xúc: là trí nhớ về những cảm xúc, tình cảm đẫ diễn ra trước đây. Cảm xúc luôn liên quan đến việc  thoả mãn  nhu  cầu,  đến việc  chúng ta thực  hiện các mối quan hệ với  thế  giới  xung  quanh.  Chính  vì  vậy,  trí  nhớ  cảm xúc  có  vai trò to lớn trong cuộc sống và hoạt động của mỗi  con người.  Trong  nhiều trường hợp, trí nhớ cảm xúc còn mạnh mẽ và bền vững hơn những loại trí nhớ khác.

Trí nhớ biểu tượng: là trí nhớ đối biểu tượng dạng  như  một  ấn  tượng, một hình ảnh của cuộc sống cũng như âm thanh,  mùi  vị...  Trí  nhớ  biểu tượng có thể được gọi theo giác quan như: thị giác,  thính  giác,  xúc  giác...  Nếu  như  trí  nhớ thính giác và thị giác thường đóng vai trò chủ đạo trong các  loại  trí nhớ  ở người  bình thường thì trí nhớ xúc giác, khứu giác và vị giác, trong một  chừng mực nhất  định, có sự  ảnh  hưởng  của nghề  nghiệp.  Ngoài  ra chúng cũng đặc  biệt  phát  triển ở những người có khuyết tật giác quan, ví dụ, khiếm thị hay khiếm thính.

Trí nhớ từ ngữ - logic: nội  dung  của trí nhớ từ ngữ  - logic chính là những ý nghĩ của chúng ta. Tuy nhiên những ý nghĩ luôn  tồn  tại  trong  từ  ngữ.  Do  vậy  không đơn thuần là nhớ logic mà là từ ngữ - logic. Khi tái hiện và truyền đạt cho người khác, chúng ta có thể thông báo những ý chính hoặc đầy đủ cả từ ngữ.

Phân loại theo mục đích:

Trí nhớ không chủ định: là loại trí nhớ  không có  mục  đích chuyên biệt ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện tài liệu. Trong  đời  sống cá thể, dạng trí nhớ này xuất  hiện đầu tiên. Có nhiều kinh nghiệm sống được thu nhập bằng trí nhớ này.

Trí nhớ chủ định: là trí nhớ có mục  đích ghi  nhớ,  giữ  gìn và  tái hiện. Trong dạng trí nhớ này con người thường dùng các thủ pháp, kĩ thuật  để ghi  nhớ.  Mặc dù xuất hiện sau  trí  nhớ  không  chủ  định  song  trí  nhớ  có  chủ  định  đóng vai trò to lớn trong quá trình tiếp thu tri thức  cũng  như  trong các  hoạt  động của con người.

Phân loại theo thời gian:

Trí nhớ ngắn hạn [hay trí nhớ tức thời]: là trí nhớ ngay sau giai đoạn ghi nhớ. Những tài liệu dường như chưa chìm vào vô thức mặc dù không còn trên ý thức.

Trí nhớ dài hạn: là trí nhớ sau giai đoạn ghi nhớ một khoảng thời gian dài.

Nó rất quan trọng để con người tích luỹ tri thức.

Phân loại theo phương tiện:

Trí nhớ trực tiếp: là loại trí nhớ mà khi ghi nhớ, con người không sử dụng phương tiện nào.

Trí  nhớ  gián tiếp:  là trí nhớ  phải  sử dụng các  phương tiện để ghi  nhớ. Đây  là dạng trí nhớ chủ yếu của con người.

Chú ý.

Khái niệm chú ý:

Chú ý là một trạng thái tâm lí tham gia vào mọi quá trình tâm lí, tạo điều kiện  cho một/một số đối tượng được phản ánh tốt nhất.

Nói chú ý là trạng thái tâm  lí  vì  chú ý luôn đi kèm với  các quá trình tâm lí  khác. Bản thân chú ý  không  tồn tại  độc lập, nó  cũng không có sản phẩm  mà chỉ  làm nền cho các quá trình tâm lí. Chú  ý được  ví  như  ngọn đèn pha, chiếu rọi vào một đối tượng nào đấy, giúp cho các quá trình tâm lí đạt hiệu quả cao.

Chú ý có sự biểu hiện bề ngoài: ở nét mặt, động tác của con người. Có  lúc sự  chú ý hướng vào đối tượng bên ngoài, cũng có lúc lại  hướng vào  nội  tâm.  Trong thực tế, đôi  khi  có  sự không  tương đồng giữa  sự biểu hiện của chú ý với  trạng  thái thực của  nó. Có  người  nhìn bề  ngoài  có vẻ  chăm chú theo  dõi  đối tượng, ví dụ nghe giảng, nhưng  thực  ra  họ  lại  đang  chú  ý  đến đối tượng khác. Ngược  lại, có người tưởng chừng lơ đãng nhưng họ lại đang chú ý cao độ.

Trong hoạt động học  tập  của sinh viên,  khả  năng  chú ý phụ thuộc vào  các yếu tố sau:

Mục đích, nhu cầu, động cơ học tập.

Lượng thông tin cần phải tiếp thu [quá cao, quá khó, quá cũ, quá nhiều...].

Phương pháp giảng dạy  của  giảng  viên  và  công  tác  tổ  chức  hoạt động dạy và học.

Cảm xúc và sức khoẻ của sinh viên.

Điều kiện tự nhiên của lớp học [ánh sáng, tiếng ồn...].

Các loại chú ý:

Căn cứ vào mức độ tự giác của chú ý,  người  ta chia thành  hai  loại  chú ý:  không chủ định và có chủ định.

Chú ý không chủ định:

Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không có một biện pháp nào và vẫn chú  ý  vào  đối  tượng.  Chú  ý không  chủ định có  thể  xuất hiện tuỳ thuộc vào một số đặc điểm của kích thích:

Độ mới lạ của kích thích: vật kích thích càng mới, càng  dễ  gây  ra chú ý  không chủ định; ngược lại, vật kích thích càng rập khuôn bao  nhiêu thì càng nhanh làm mất chú ý không chủ định bấy nhiêu.

Cường độ kích thích: theo quy luật cường độ  đối với  thần kinh,  kích thích càng mạnh bao nhiêu thì hưng  phấn  do  nó  gây  ra  càng  lớn  bấy  nhiêu,  do  vậy  càng dễ gây ra chú ý không chủ định. Ngoài ra, khi  vỏ  não  chuyển từ trạng thái  hưng phấn sang ức chế, như khi sắp ngủ, quy luật cường độ diễn ra theo pha trái ngược: kích thích và hưng phấn  tỉ  lệ  nghịch  với  nhau; hoặc cực  kì  trái ngược, tức là có kích thích nhưng không có  hưng  phấn.  Cũng  cần phải  lưu ý rằng  ở người,  chú ý không chủ định chỉ phụ thuộc vào cường độ kích thích một cách tương đối.

Độ hấp dẫn của kích thích là một đặc  điểm tổng hợp  của 2  đặc  điểm trên, thể hiện ở mức độ phù hợp với người bị tác động, dễ gây ra sự tò mò.

Chú ý có chủ định:

Chú ý có chủ định là sự định hướng hoạt  động do  bản thân chủ thể đặt ra. Do  bản thân  xác  định mục  đích hành  động nên chú ý có  chủ định phụ  thuộc  nhiều  vào chính mục đích và nhiệm vụ  hành  động.  Loại  chú ý này  mang  tính bền vững cao hơn. Tuy nhiên do cần phải  có nỗ  lực ý chí nên nếu kéo dài  chú ý có chủ định thì dễ gây căng thẳng, mệt mỏi.

Cả 2 loại chú ý đều có ưu điểm và nhược điểm. Nếu chỉ có chú  ý không chủ định thì có lúc ta không đạt được mục  đích,  yêu cầu đề  ra và  không  chủ động  được trước hoàn cảnh. Ngược  lại, trong hoạt  động, nếu chỉ  có  chú ý có chủ định  thì chẳng mấy chốc chúng ta sẽ mệt  mỏi, căng thẳng,  tắt lụi hứng thú. Trong thực tiễn, hai loại chú ý này liên quan rất mật thiết  và  bổ  sung cho  nhau.  Nhiều hoạt động khởi đầu bằng chú ý không  chủ định,  sau đó  là có  chủ định. Trong những  hoạt động kéo dài cũng cần có cả chú ý không  chủ định,  góp phần  hỗ  trợ  cho  chính các quá trình tâm lí đạt kết quả cao.

Những đặc điểm của chú ý:

Sức tập trung của chú ý [mức độ tập trung của chú ý]: là khả năng tách một phạm vi có hạn thành đối tượng cho chú ý hướng vào đó, tiến hành những hoạt động cần thiết với số đối tượng đó. Phạm vi các đối tượng  chú ý càng hẹp thì sức chú ý càng tập trung, cường độ chú ý càng lớn.

Sự phân phối của chú ý: là khả  năng  cùng  một  lúc  chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng khác nhau.

Trong quá trình hoạt động, chú ý có  thể  không  chỉ  hướng  vào  một  mà  là nhiều đối tượng. Điều đó cũng không có nghĩa rằng chú  ý  hướng  vào  các  đối tượng như nhau. Sự phân phối không mâu  thuẫn  với  sức  tập trung của chú ý.  Tại một thời điểm, chúng ta vẫn có  khả  năng  chú ý đến một  số  đối tượng,  trong đó vẫn có một đối tượng được chú ý nhiều hơn.

Khối lượng của chú ý: là số lượng đối tượng được chú ý ở cùng một  thời điểm. Nhiều nhà tâm lí học cho rằng tại một thời điểm, khối lượng chú ý tối đa không quá 7 đơn vị nếu chúng không liên hệ với nhau.

Tính  bền  vững,  phân  tán và  dao  động của  chú ý:

Tính bền vững của chú ý là khả năng chú ý lâu  dài  vào  một  số  đối  tượng  nhất định mà không chuyển sang đối tượng khác.  Tính  bền vững  cần cho  nhiều  dạng hoạt động khác nhau: tốc kí, điện báo, các công việc quan sát...

Ngược với tính bền vững là tính phân tán: chú ý không bền.

Xen kẽ giữa tính bền vững với  phân  tán là tính dao  động của chú ý: sự phân tán diễn ra theo chu kì. Ví dụ: trong đêm yên tĩnh,  chúng  ta nghe  thấy tiếng chạy  của đồng hồ lúc to, lúc nhỏ, lúc nhanh, lúc lại chậm.

Sự di chuyển của chú ý: là khả năng di  chuyển của chú ý từ đối  tượng này  sang đối tượng khác, từ hoạt động này sang hoạt động khác.

Sự di chuyển chú ý có thể nhanh hoặc chậm, dễ dàng hoặc khó khăn.

Di chuyển chú ý nhanh và dễ dàng là một phẩm chất quý đối với con người.

Video liên quan

Chủ Đề