Tại sao ghe lại có mắt

Hình minh họa: Tại sao ghe thuyền lại nổi trên mặt nước. Bách Khoa Tri Thức

[Nguồn ảnh: Internet]


Ghe, thuyền đã vậy, mà ngày nay cả những chiếc tàu chiến, hàng không mẫu hạm cũng nổi lềnh bềnh trên mặt nước là tại sao? Nói chung, về nguyên tắc thì thế này: thả vật gì vào chất lỏng mà nó nổi lên ấy là vì nó bị chất lỏng ấy đẩy lên, nâng lên. Và sức đẩy của chất lỏng thì ngược chiều với trọng lực [trọng lực là sức hút, sức kéo xuống của trái đất].

Cái khiến cho ghe, tàu nổi trên mặt nước là do sức đẩy [lên] của nước. Lực này tác động vào bất cứ vật nào được thả vào chất lỏng. Muốn thử xem sức đẩy của nước có mạnh hay không, bạn cứ lấy một trái banh nhấn vào trong nước là biết liền.

Không phải chỉ những vật nổi trên mặt nước mà ngay cả những vật chìm trong nước cũng bị tác động bởi sức đẩy lên của mặt nước. Một tảng đá, ở trên bờ bạn vác không nổi nhưng thả xuống nước thì bạn lại vác nổi, ấy là nhờ sức đẩy của chất lỏng.

Sức đẩy của chất lỏng không đủ để làm cho một vật có thể tích nhỏ nhưng trọng lượng lớn nổi lên được. Trọng lượng của một vật không phải là yếu tố quyết định để vật đó “chìm” hay “nổi” trong chất lỏng. Chẳng hạn, một thỏi sắt nặng 50kg thả vào trong nước thì chìm nhưng một thanh gỗ thông nặng 50kg thì lại nổi. Một vật “nổi” hay “chìm” trong chất lỏng là do tỷ trọng của vật đó. Nếu lấy hai vật có cùng kích cỡ, một làm bằng thép, một làm bằng nút bần thì vật bằng thép nặng hơn mặc dù thể tích của hai vật đó bằng nhau [nghĩa là nó chiếm khoảng không gian bằng nhau]. Sắt chìm vì tỷ trọng sắt lớn hơn tỷ trọng nút bần.

Nhưng, đến lượt tỷ trọng thì ta lại phải lưu ý. Tỷ trọng vừa tùy thuộc vào trọng lượng vừa tùy thuộc vào kích cỡ [thể tích]. Hai vật có cùng trọng lượng, vật có tỷ trọng lớn hơn chính là vật có kích cỡ nhỏ hơn. Và ngay chất lỏng cũng có tỷ trọng khác nhau. Nếu vật có tỷ trọng lớn hơn tỷ trọng nước, trọng lượng của vật lớn hơn trọng lượng nước mà vật ấy chiếm thì vật ấy sẽ bị chìm, và ngược lại... thì nổi.

Một con tàu có vỏ thép và chiếm một khoảng không gian lớn, nhưng trọng lượng toàn thể con tàu ấy vẫn nhỏ hơn trọng lượng của khối nước do tàu ấy chiếm, do đó, con tàu nổi trên mặt nước.

Từ Khóa:

Tại sao ghe thuyền lại nổi trên mặt nước || Bách Khoa Tri Thức || Khám phá thế giới

I.TỤC VẼ MẮT THUYỀN TRÊN THẾ GIỚI 

Vào năm 2700 trước Công nguyên, trên những chiếc thuyền lớn của Ai Cập đã có vẽ một con mắt lớn của thần Osiris. Đây là một vị thần Ai Cập, ban đầu là thần ruộng đất, tượng trưng cho sức mạnh vô tận của cỏ cây, sau đó được đồng nhất hoá với mặt trời buổi đêm, tượng trưng cho tính liên tục của các chu kỳ sinh nở và tái sinh.

Tại Lào, người ta cho các tàu thuyền những cặp mắt bằng cách giả vờ hiến sinh một thiếu nữ và lấy mắt cô ta gắn lên mũi thuyền. Mũi thuyền độc mộc ở Bali [Indonesia] thì vẽ đầu Makara, một con quái vật biển trong các tranh tượng Hindu giáo, phát sinh từ con cá heo, con vật huyền thoại nửa voi nửa cá, biểu tượng của các vùng sông nước.

Các thuyền rồng Bắc Âu lại trang trí bằng một chiếc đầu rồng, còn thuyền Hy Lạp và La Mã thì cúi nhìn sóng nước bằng những đôi mắt lợn rừng hoặc cá heo.

Trong các quần đảo Mélanésie [Australia], Trobriand [Papua New Guinea], thuyền độc mộc tham dự lễ trao đổi tặng phẩm [kula] được trang trí nhiều hình chạm khắc ở mũi thuyền, thể hiện vị anh huyền huyền thoại Manikiniri dưới hình dạng một con rắn đem lại sự sống. Vị anh hùng – rắn và chiếc thuyền trở thành một sinh vật duy nhất và đồng nhất. Để thể hiện tác phẩm đó, nhà điêu khắc có khi phải trải qua thời gian học nghề kéo dài hơn 20 năm.

Thuyền ở đảo Hải Nam và Pakhoi [Quảng Đông, Trung Quốc] có mắt to, tròn hay oval, màu trắng, tròng đen, chạm nổi.

Tục đua thuyền trong các dịp hội nước cũng dựa trên quan niệm lưỡng hợp : thuyền chim đua với thuyền rồng [thuyền chim thấy trên trống đồng ở miền Bắc Việt Nam và Lào, thuyền chim và thuyền rồng ở Hoa Nam, xứ sở của những tộc người Bách Việt, thuyền đầu chim đuôi chim và thuyền đầu cá đuôi cá ở Campuchia.

Thân thuyền ở Thái Lan đa số được trang trí với các hình ảnh cá sấu, vỏ sò và cá.

II.TỤC VẼ MẮT THUYỀN TẠI VIỆT NAM 

Có mặt từ ít nhất trên 500 năm trước công nguyên, con mắt thuyền đã từng ngự trên trống đồng Đông Sơn hay thạp đồng Đào Thịnh, đến nay, mắt thuyền vẫn bền bỉ song hành cùng ngư dân và đời sống văn hóa sông nước Việt Nam.

Có rất nhiều truyền thuyết và truyện kể về hình ảnh con mắt trên thuyền, cũng có thể trong số ấy có những chi tiết hư cấu, tạo dệt của người đời sau nhằm giải thích những ẩn ý của người xưa xung quanh đôi mắt của ghe thuyền được vẽ nên từ quá khứ, thế nhưng, những hình ảnh còn tồn tại kèm theo các nghi thức văn hóa đã đọng lại trong niềm tin bất di bất dịch của cộng đồng về một nét văn hóa sông nước độc đáo trải dài hơn 3.000 cây số biển Việt Nam. 

Trong đó, mỗi con thuyền chở theo bao hoài bão của con người về việc chinh phục, làm chủ biển khơi như ước vọng ngàn đời của ngư dân mà con mắt chính là niềm tin soi sáng dẫn đường cho ước vọng ấy.

Cái ước vọng đầu tiên của ngư dân là ước vọng yên bình. Trong những chuyến đi chinh phục sông nước biển khơi, đã có những người phải bỏ thân nằm lại. Người dân hiền hòa với lòng biết ơn sông biển, luôn quan niệm rằng đó chính là do lực lượng thủy quái gây nên chứ lòng sông lòng biển thì luôn bao dung và chở nặng cá tôm cho con người. Bởi vậy nên, có chuyện kể rằng, có một vị vua, sau khi biết tin các hạ thần của mình bị kình ngư làm hại, đã ra lệnh cho họ xăm mình và trang trí lên vỏ thuyền các hình thù kỳ quái, dữ tợn. 

Sau đấy, lệnh truyền cho tất cả thần dân phải xăm mình, vẽ những hình thù kỳ quái nhằm khoác một lớp áo hung dữ cho chiếc thuyền, khiến cho thủy quái phải kinh hồn bạt vía mỗi khi thuyền thuyền di chuyển trên nước. Một trong những cách bù chú đó là vẽ mắt lên thuyền.

Mắt thuyền, có thể là đôi mắt chim ó – loài đại bàng chuyên săn cá trên biển, thường xuất hiện khi sóng to gió dữ; cũng có thể là mắt chim cú nhìn xuyên đêm, hay mắt rồng, mắt thuồng luồng, giao long, mắt trén – một con mắt dài, sắc sảo như lưỡi đao… Phải chăng, người xưa đã vẽ những con mắt thuyền theo hình dáng của những sinh vật to lớn, nhanh nhẹn và dữ tợn để trấn áp, làm khiếp đảm loài thủy quái.

Nhưng đôi khi, con mắt thuyền lại mang đường nét đôi mắt của con người, hay phổ biến nhất là mắt cá Ông – một loài linh vật to lớn, hiền lành, thường che chở giúp đỡ ngư dân khi họ bị nạn, hay mang đến những điềm ứng báo tốt lành. Cá Ông, còn có tên khác là cá voi, được các thư tịch cổ kim ghi chép khá nhiều, phần lớn có đề cập đến sự linh ứng. 

Sách “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức có ghi: Loài cá đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước, mũi miệng giống như voi, mình trơn láng không có vảy, đuôi có hai nhánh rẽ như đuôi tôm, tánh hiền lành biết cứu giúp người. Người đánh cá thường kêu réo nhờ nó đuổi các loài cá vào lưới. Gặp thuyền đi biển bị chìm, cá nầy thường đưa người vào bờ, dân miền biển đều tôn kính, nếu thấy thây cá này trôi dạt, dân chài lưới góp tiền mua vải, sắm hòm tẩm liệm, chôn cất, cử người trùm trưởng trong làng chài đứng làm tang chủ, cất đền thờ phụng.

Cũng theo ghi chép của các thư tịch đời Nguyễn, cá Ông là loài cá hiền lành và linh thiêng, được tôn kính từ triều đình cho đến thứ dân. Cá này không chỉ phù hộ, độ trì người đi xuôi ngược, buôn bán trên biển, mà còn giúp cho người chài lưới đánh bắt thuận lợi, mỡ cá còn được dùng chữa bệnh, cứu người. Phải chăng, đó là lý do mà cá Ông được cư dân miền biển coi trọng, đem hình ảnh đôi mắt trang trí cho con thuyền của mình với ý niệm tốt lành.

Có nhiều điều thú vị trong văn hóa ứng xử của ngư dân gắn liền với tục vẽ mắt thuyền. Khi đóng một chiếc thuyền, các trại thuyền sẽ thực hiện nhiều nghi lễ trang nghiêm như lễ phạt mộc, đưa dăm, lễ cúng ghim lô, lễ khai nhãn, lễ hạ thuỷ. Cúng khai nhãn hay còn gọi là khai quang, điểm nhãn là lễ “mở mắt” cho thuyền. Sau khi đóng xong phần vỏ thuyền, chủ thuyền sẽ làm lễ cúng thuyền để thực hiện vẽ mắt thuyền. Sau khi vẽ xong, người ta tiến hành đặt “phong nhãn” [che kín mắt thuyền] bằng dải lụa điều. Việc này được thực hiện bởi chủ thuyền hay lão ngư giàu kinh nghiệm. 

Trước khi thực sự sống một cuộc đời gắn chặt với mặt biển bao la, con thuyền phải được khai quang, khai nhãn, điểm nhãn, mở mắt như bao sinh vật tri giác khác trên cõi sống này với thái độ trân trọng, linh thiêng của con người nhằm gửi gắm ước mơ con thuyền luôn đi về an toàn trên sông nước và công việc làm ăn của chủ thuyền sẽ hanh thông.

Bởi vậy, lễ khai quang, khai nhãn, điểm nhãn được xem là một nghi thức khai tâm. Cư dân vùng sông nước xem con thuyền của mình là một sinh vật có hồn, một “vật linh” trong đời sống của họ. Đích đến của những nghi lễ này là cầu nguyện bình an, bội thu và đó cũng là cách giúp họ tìm đến sự bình an trong tâm, thể hiện lòng biết ơn đối với các lực lượng siêu nhiên đã che chở họ trong suốt quá trình làm nghề. Với họ, thuyền không chỉ là một phương tiện mà còn là một ân nhân, một người bạn đồng hành, một ngôi nhà của ngư dân.

Lễ khai quang điểm nhãn [lễ mở mắt] còn thấy trong các nghi thức xá mã [đốt hình ngựa], xá hạc [đốt hình hạc] trong các khoa nghi của Phật giáo như trai đàn chẩn tế; trong múa hẩu [có ý nghĩa xuất quân đi trấn áp tà ma, quỉ mị], trong lễ vía Huyền Thiên Thượng Đế Chơn Võ và lễ hội chùa Bà Thiên Hậu ở thị xã Thủ Dầu Một [Bình Dương] của cộng đồng người Hoa Phước Kiến; trong múa lân; trong tập tục thờ ông Địa, thần TàI.

Và như vậy, mắt thuyền đã trở thành một biểu tượng văn hóa, trước tiên thể hiện yếu tố của văn hóa thị giác, thẩm mỹ; đồng thời, qua hình tượng “mắt” thuyền  dưới góc độ nào đó, chính là sự giao tiếp tâm linh tín ngưỡng. Nó ẩn dụ một thế lực siêu nhiên mà theo ngư dân đó chính là thần linh che chở, bảo vệ cuộc sống của họ. Đó là những đôi mắt thần linh luôn dõi theo các hoạt động của ngư dân. Cũng vì thế mà trước mũi thuyền thường có một góc để ngư dân thờ cúng thần linh.

Ở nước ta, mắt thuyền được vẽ hai bên mũi thuyền, rất đa dạng, đủ kiểu loại nhưng có chung đặc điểm là trông rất hiền lành. Căn cứ vào hình dáng, màu sắc của mắt thuyền ta có thể biết được xuất xứ cũng như phạm vi hoạt động của thuyền bè ở từng vùng.

Ta thấy sự phân bố của mắt thuyền ở các vùng như sau:

Mắt ghe [thuyền] từ Bà Rịa-Vũng Tàu trở ra phía Bắc có đặc điểm chung là mắt nhỏ, đuôi mắt dài, tròng sơn đen trên nhãn cầu màu trắng, mang ghe dài.

Ghe lưới rùng Phước Hải [Bà Rịa-Vũng Tàu] mắt tròn, hơi dẹt, có vẽ hình âm dương giữa thân ghe. Mắt ghe ở Phước Hải, Phước Tỉnh cũng giống như vậy. Ghe bầu Mũi Né [Bình Thuận] mắt dẹt, dài, đuôi tròng nhọn về phía sau. Ghe câu Bình Thuận mắt rất dẹt, bầu, hơi cong và nổi bật. Mắt ghe đua vùng Phan Thiết giống hình mắt phượng đuôi dài, tròng tròn, viền vàng, tao cho ghe cái vẻ sắc sảo, tự tin, chiến thắng.

Ghe câu Phan Rang [Ninh Thuận] mắt dẹt, dài và lớn hơn mắt ghe ở Bình Thuận.

Ghe giã Bình Định có mắt dẹt, dài; tròng hình thoi dẹt và chiếm đều ở giữa mắt; đuôi mắt nhọn. Ghe song vành của ngư dân đánh cá mập có mắt ghe cũng gần giống ghe giã Bình Định.

Ghe bầu Quảng Ngãi có mang ghe lớn, mắt thon dài, tròng nhô sát về phía trước.

Ghe câu Hội An [Quảng Nam] mắt dẹt, dài, tròng thoi sát về phía trước. Trong khi đó ghe trương cũng ở vùng này lại có mắt bầu tròn, hơi dẹt, gần giống mắt ghe ở Nam Bộ.

Ghe nang ở Đà Nẳng và ghe giã Quảng Trị giống mắt ghe ở Bà Rịa-Vũng Tàu.

Ghe câu ở Quảng Khê [Quảng Bình] đuôi mắt dài, thon.

Ghe mành Nghệ An đầu mắt nhọn, đuôi mắt thon bầu; tròng dẹt, dài, nhọn về phía trước. Hai con mắt chạm gỗ, nhãn mắt màu vàng với đường viền đỏ. Riêng ghe mành ở Cửa Lò lại có mắt tròn, tròng tròn đồng tâm với mắt hoặc có hình elip.

Ghe mành vùng hạ lưu sông Hồng có mắt to, chạm gỗ, sơn đỏ hoặc đen. Ghe mành Hạ Long không có mắt ở mũi thuyền.

Mắt ghe từ TP.Hồ Chí Minh đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là mắt tròn, tròng đen, nhãn trắng, mang ghe được trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng chạy xung quanh.

Nổi tiếng nhất ở miền Tây Nam Bộ là trường phái đóng ghe Cần Đước [Long An], hoạt động từ cuối thế kỷ XIX đến nay. Nơi đây chuyên đóng các loại ghe lớn, chạy nhanh, chở khoẻ và có dáng đẹp, đi sông đi biển đều tốt. Ghe có mũi nhọn dựng cao, sơn màu đỏ tươi, lườn sơn màu xanh, mắt vẽ tròn xoe, tròng đen to choán gần hết con mắt. Nó đã từng “khoe sắc” trong dân ca vùng sông nước:

Ghe ai đỏ mũi, trảng lườn

Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em?

Mắt ghe ở Cần Thơ cũng thuộc loại này. Ghe ở Cà Mau nhãn và tròng hình thoi dẹp, đầu mắt nhọn, thường được vẽ hơn là chạm gỗ, một số mắt có tròng gần như hình tam giác đều có góc tròn, nhất là ở những chiếc vỏ lãi bằng nhựa composit.

Ghe của vùng Trà Vinh mắt có độ lớn vừa phải, tròng đen với hình ôval nằm ngay tâm mắt. Mắt ghe vùng An Giang có hình elip, tròng rất nhỏ, nằm gần về đầu mắt, mang ghe sơn màu xanh dương.

Ghe vùng Rạch Giá, Phú Quốc [Kiên Giang], vịnh Thái Lan thường có mắt tròn, sơn đen và đỏ trên nền xanh, nhưng lại nhìn cúi xuống như ghe câu Phú Quốc chẳng hạn. Các loại ghe hàng, thường gọi là “ghe Kiên Giang” gốc Rạch Giá, hoạt động từ Rạch Giá đến Vũng Tàu, mắt tròn lớn và gần nhau, nằm sát lô mũi [stem]. Ghe cửa miền Tây có mũi nhọn, mắt tròn to, có ghe vẽ hình âm dương nơi vị trí mắt thuyền. Ghe vùng Mỹ Tho [Tiền Giang] hai con mắt chạy sát về trước mũi thuyền.

Nhìn chung, sự khác biệt về hình dáng, màu sắc, đường nét của các con mắt thuyền ở từng vùng miền là do thị hiếu thẩm mỹ, trình độ tay nghề của những người thợ đóng ghe thuyền và phong cách này cũng thường mang tính ổn định. Mắt ghe thuyền được trang trí lại sau một thời gian sử dụng.

Khi đóng một chiếc thuyền, các trại thuyền phải làm các lễ cúng sau: cúng ghim lô, cúng khai nhãn và cúng hạ thuỷ. Cúng khai nhãn được thực hiện sau khi đóng xong phần vỏ thuyền, chủ thuyền làm lễ cúng thuyền để vẽ mắt thuyền với mong muốn chiếc thuyền được an toàn trên sông nước, công việc làm ăn của chủ thuyền sẽ hanh thông. Lễ vật là hoa và bộ tam sên gồm tôm, thịt heo, trứng vịt.

Cúng khai nhãn nhằm làm cho nhãn sáng sủa, lanh lợi, ghe thuyền đi đúng hướng và tránh được rủi ro, tai nạn dọc đường.Ngư dân ở Vũng Tàu còn có lệ nhờ thầy pháp xem ngày lành để vẽ mắt thuyền, nếu không thì chọn ngày chẳn.Các chủ thuyền không bao giờ cho người lạ sờ vào hai con mắt thuyền vì sợ bị yếm đối.

Những con mắt thuyền vẫn ngày ngày đời đời lênh đênh sông biển, những con mắt khi giận giữ trước bão táp phong ba, lúc vui sướng trước mẻ cá nặng lưới đầy của ngư dân, khi buồn rầu vì bất lực… và bao giờ cũng tin cậy hiền hòa êm đềm trong mắt của ngư dân. Những con mắt chưa bao giờ ngủ. Phải chăng, kể từ khi mang thêm đôi mắt, thuyền cũng thêm một thân phận…

Theo: Maybe You Missed This F***king News

Video liên quan

Chủ Đề