Tại sao nói cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để nhất

Xem thêmSửa đổi

  • Cách mạng cộng sản
  • Hiệp hội sản xuất tự do, mục tiêu cuối cùng của các cuộc cách mạng cộng sản và vô chính phủ
  • Cuộc nổi dậy của lao động
  • Cách mạng Tháng Mười
  • Cuộc đình công của thợ mỏ Asturian năm 1934
  • Cách mạng năm 1934
  • Tổ chức cách mạng vô sản, Nepal
  • Cách mạng xã hội
  • Cách mạng thế giới

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Vladimir Lenin [1918]. The Proletarian Revolution and the Renegade Kautsky.
  2. ^ Alexander Berkman [1929]. Now and After: The ABC of Communist Anarchism. Chapter 25.

Một số hình ảnh

Kiên định con đường đã chọn!

[ĐCSVN] - Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên một sản phẩm vĩ đại của lịch sử, đó là mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là con đường lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ để đưa đến Cách mạng Việt Nam sau này.
Lênin và người dân Nga. [Ảnh tư liệu]

Nhân kỷ niệm 104 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, Giáo sư Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương đã có những chia sẻ và khẳng định, làm sâu sắc hơn những ảnh hưởng, sự kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi của cuộc cách mạng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta và Bác Hồ đã chọn, xây dựng, phát triển…

Phóng viên [PV]: Thưa Giáo sư, xin Giáo sư chia sẻ cho bạn đọc biết là về ý nghĩa của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Vì sao lại nói đây là cuộc cách mạng vĩ đại và có tầm vóc lịch sử trong thế kỷ XX?

GS Hoàng Chí Bảo: Năm nay, chúng ta kỷ niệm 104 năm Ngày Cách mạng tháng Mười Nga [ngày 7/11/1917], lịch cũ của Nga là ngày 25/10. Hằng năm, cứ đến sự kiện này, không chỉ những người Cộng sản, Đảng Cộng sản mà nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới đều tưởng nhớ lại sự kiện Cách mạng tháng Mười Nga để củng cố niềm tin của mình với lý tưởng cộng sản, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước Nga là sự khai mở ban đầu.

Nói Cách mạng Tháng Mười Nga là ta gắn liền với công lao, sự nghiệp vĩ đại của Lê-nin, người đã cùng với đảng Bolshevik [Bôn-sê-vích] kiểu mới lúc bấy giờ lãnh đạo thành công cuộc cách mạng này. Tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga có thể khẳng định trên phương diện như sau:

Thứ nhất, đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX. Cuộc cách mạng này nổ ra sau Công xã Pari 46 năm. Ta nhớ lại thời kỳ Mác-Ăngghen còn sống thì giai cấp vô sản thế giới chỉ chứng kiến một sự kiện duy nhất là Công xã Pari, tức là giai cấp công nhân Pari nổi dậy chống lại chính quyền tư sản, lập nên chính quyền công xã kiểu mới. Đấy là hình thái đầu tiên của Nhà nước vô sản mà Cách mạng Tháng Mười Nga là người kế tục.

Nhưng tiếc một điều là Công xã Pari tuy rất vĩ đại, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn [72 ngày], rồi sau đó bị thất bại. Vì giai cấp tư sản tấn công trở lại, dìm phong trào cách mạng trong biển máu. Lúc bấy giờ, Mác và Ăngghen đã tổng kết về Công xã Pari, vạch ra nguyên nhân dẫn đến sự thất bại, trong đó có nguyên nhân là không liên minh được với nông dân. Giai cấp công nhân Pháp rất vĩ đại và oanh liệt, nhưng chỉ một mình công nhân thôi mà để cả một biển nông dân, tiểu nông ở bên ngoài không ủng hộ cách mạng thì giai cấp tư sản đã lợi dụng tình thế đó để lật ngược lại ván cờ cách mạng này và thất bại.

Thế cho nên sau này chính Mác và Ăngghen đã nói, nếu cuộc cách mạng vô sản mà không phải là “bài đồng ca”, tức là cả liên minh công nông mà nó chỉ còn là một “bài đơn ca” ai điếu thôi, tức là chỉ riêng một tiếng nói đơn độc của vô sản thôi thì sớm muộn cũng thất bại.

Lê-nin sau này cũng nhắc lại tư tưởng đó của Mác-Ăngghen, ông nói là, giai cấp vô sản dù có dũng mãnh đến đâu đi nữa nhưng chỉ một mình công nhân thôi thì cũng giống như “tiếng hót cô độc của bầy thiên nga trên biển cả” và cuối cùng thì thất bại. Và ông dự báo một điều rất quan trọng: Cách mạng ở Pháp Công xã Pari thất bại, nhưng nó để lại những bài học vô cùng quý giá và cuộc cách mạng có thể thất bại vì chưa chín muồi hoặc là vấp phải sai lầm. Trong đó như tôi đã nói là liên minh công nông không có, nhưng cách mạng sẽ không bao giờ bị tiêu diệt. Chính quyền có thể đổ vỡ, cách mạng có thể thất bại. Nhưng sự nghiệp cách mạng vẫn tiến về phía trước vì nó là một quy luật của lịch sử. Dự báo này hoàn toàn chính xác và nó được chứng thực bởi sự kiện cách mạng tháng Mười Nga 46 năm sau Công xã Pari. Tầm vóc vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga là như thế.

Thứ hai, Cách mạng tháng Mười Nga đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chỉ có một mình nước Nga Xô Viết là lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong khi đó cả thế giới tư bản 14 nước đế quốc bao vây xung quanh, định bóp chết nước Nga non trẻ trong bạo lực của nó. Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực, nước Nga Xô Viết cũng được ra đời. Đấy là nhà nước kiểu mới đầu tiên của nhân dân lao động toàn thế giới, đánh đổ tư bản đế quốc, chế độ Nga Hoàng chuyên chế hàng thế kỷ để đưa nhân dân lao động, tức là quần chúng công, nông, binh lên địa vị làm chủ và nắm được chính quyền.

Thứ ba, với thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga, với sự ra đời của nước Nga Xô Viết và chủ nghĩa xã hội hiện thực thì từ đây Đảng Cộng sản chính thức trở thành đảng cầm quyền. Đấy là điều rất mới mẻ trong lịch sử.

Từ khi có Cách mạng tháng Mười Nga thì nhân loại sẽ lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, chứ không lựa chọn con đường tư bản chủ nghĩa nữa. Từ đây trở đi thì chủ nghĩa xã hội trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của lịch sử.

Vì thế, Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo nên một sản phẩm vĩ đại của lịch sử, đó là mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là con đường lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ để đưa đến Cách mạng Việt Nam sau này.

Cũng từ đó, thì Cách mạng tháng Mười Nga được Lênin nói trong những năm tháng cuối đời đã dự báo, sớm muộn, trước sau thì tất cả các dân tộc trên thế giới đều lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, nó chỉ khác nhau về đặc điểm, hoàn cảnh lịch sử, mô hình, chứ còn đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu.

Đấy là những đánh giá rất quan trọng của các nhà sáng lập ra cuộc cách mạng vĩ đại này. Chúng ta kỷ niệm 104 năm để thống nhất nhận thức về tầm vóc vĩ đại, ý nghĩa lịch sử thế giới của cuộc cách mạng đã mở đường đi cho nhân loại như thế trong đầu thế kỷ XX.

Tác phẩm "Đường Kách mệnh" của Bác Hồ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của Lênin và cuộc Cách mạng tháng Mười Nga.

PV: Thưa Giáo sư, Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các nước XHCN sau này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi tìm đường cứu nước và tìm ra được chân lý của mình cũng như cách mạng Việt Nam sau này, Người đã vận dụng tư tưởng Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam. Giáo sư có thể phân tích rõ thêm về vấn đề này?

GS Hoàng Chí Bảo: Khi Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra năm 1917 thì Bác đang ở châu Âu, Bác đang ở nước Pháp. Lúc bấy giờ Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra là một sự kiện đặc biệt trên thế giới, tư bản rất hoảng sợ và bưng bít thông tin. Bác biết được thông tin về cuộc cách mạng này là nhờ Bác đọc báo Nhân đạo của Đảng Cộng sản Pháp. Từ đó trở đi thì Bác hết lòng cổ vũ cho Cách mạng Tháng Mười Nga. 10 năm sau, tức là năm 1927, lúc đó Bác mới có 37 tuổi, đã là một người cộng sản, Bác đã là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Bác viết một tác phẩm nổi tiếng cho Việt Nam là “Đường kách mệnh” từ năm 1927, lúc mà Đảng ta chưa ra đời.

Tác phẩm “Đường kách mệnh” của Bác lúc ấy chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng của Lênin và cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Tại sao ta nói như vậy? Vì trong tác phẩm này, Bác khẳng định mấy điều này: Một là, người cách mạng, Đảng Cách mạng phải giữ chủ nghĩa cho vững, tức là hệ tư tưởng, là nền tảng tư tưởng mà ngày nay Đảng ta đang ra sức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là như vậy. Thì đây là giữ chủ nghĩa cho vững.

Bác đã nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chân chính nhất, cách mạng triệt để nhất chỉ có Chủ nghĩa Lênin” và Bác nói là ta phải đi theo gương sáng của cách mạng tháng Mười Nga, tức là làm một cuộc cách mạng triệt để, Bác gọi là cách mạng đến nơi. Còn cách mạng Pháp, Mỹ tuy rất vĩ đại như cách mạng tư sản không đến nơi, không triệt để. Cách mạng tháng Mười Nga là một hình mẫu của cách mạng triệt để, đến nơi thì Bác nói phải đi theo cách mạng đó. Hai nữa, là cùng với sự giác ngộ Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Lênin thì Bác chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Lênin về quyền tự quyết các dân tộc. Lênin viết cả một Luận cương là “Quyền tự quyết các dân tộc” thì Bác đã đọc Luận cương đó của Lênin và Bác nói Luận cương này đã cung cấp câu trả lời bao lâu nay Người tìm kiếm, nó trở thành “kim chỉ nam”, trở thành “cẩm nang” cho cách mạng Việt Nam. Bác còn nói, sau này ngồi trong phòng kín, đọc tư tưởng của Lênin về quyền tự quyết dân tộc mà tôi cảm động đến giàn giụa nước mắt. Tôi muốn hét to lên: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ, đây là con đường cứu sống chúng ta, đây là con đường đưa chúng ta đến giải phóng độc lập dân tộc. [sau này là chủ nghĩa xã hội].

Có thể nói tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Lênin và chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung ảnh hưởng rất sâu sắc, là nhân tố trực tiếp đến sự hình thành quyết định lịch sử của Nguyễn Ái Quốc. Cho nên, tác phẩm “Đường kách mệnh” có thể được coi là tác phẩm đặt nền móng tư tưởng và tổ chức chính trị cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. Chưa kể là Bác Hồ của chúng ta còn dịch “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Mác-Ăngghen ra tiếng Việt để làm tài liệu huấn luyện cán bộ và tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Mác-Ăngghen có thể coi là cương lĩnh đầu tiên của phong trào cách mạng vô sản thế giới. Mác-Ăngghen khi viết tuyên ngôn này các ông mới có 30 tuổi, năm 1848, các ông đưa ra khẩu hiệu là: “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại, liên hiệp lại”. Đến Lênin, ông bổ sung thêm một tưởng rất quan trọng là “các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Bác Hồ chịu ảnh hưởng này, không chỉ giai cấp vô sản mà là phải có dân tộc bị áp bức nữa. Sau này, Bác khái quát lại là chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, tinh thần dân tộc. Và khi dịch “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, Bác là người mở rộng rãi nhất lực lượng đoàn kết để làm cách mạng. Mác-Ăngghen thì nói: “Giai cấp vô sản đoàn kết lại”; Lênin thì cho rằng “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”; còn đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thì người mở rộng hết biên độ của đoàn kết, Bác nói là “tất cả mọi người lao động đoàn kết lại”. Và tư tưởng đại đoàn kết ấy chính là ánh sáng soi đường cho Cách mạng tháng Tám của Việt Nam sau này, sau Cách mạng tháng Mười Nga. Đấy là những ảnh hưởng rất lớn và sự vận dụng sáng tạo của Bác Hồ vào cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. [ảnh tư liệu]

Con đường Cách mạng tháng Tám chính là sự tiếp nối con đường Cách mạng tháng Mười ở Việt Nam và nó trở thành nguyên lý là “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột để làm chủ và đưa cả dân tộc tới chủ nghĩa xã hội theo di huấn của các nhà kinh điển. Đó là công lao rất lớn của Nguyễn Ái Quốc khi truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, trực tiếp sáng lập ra Đảng và trực tiếp lãnh đạo thành công cuộc cách mạng chúng ta.

Nếu Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử của thế kỷ XX vì mở ra một thời đại mới thì Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam thời hiện đại. Một cuộc cách mạng của công - nông, một cuộc cách mạng để thiết lập chính quyền dân chủ, một cuộc cách mạng sáng lập ra Nhà nước kiểu mới, một cuộc cách mạng cũng đưa Đảng ta lên vị trí Đảng cầm quyền, thay đổi cả số phận dân tộc. Đấy là công lao của Nguyễn Ái Quốc.

Ở Việt Nam ta có khái niệm là thời đại Hồ Chí Minh. Đảng ta chính thức nói là thời đại Hồ Chí Minh là để nói về di sản vĩ đại của Bác. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là thời đại mở ra một kỷ nguyên mới của Việt Nam là đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Thời đại ấy là hòa cùng chung vào thời đại lớn của thế giới là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Cho nên Bác Hồ và Đảng ta trước sau như một đều kiên trì một con đường là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đấy chính là sự trung thành và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta, của Bác Hồ về cách mạng tháng Mười Nga, về tư tưởng của Mác- Lênin vào Việt Nam.

Một điểm nữa, Cách mạng tháng Tám là một bài học mẫu mực về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về tình thế và thời cơ cách mạng. Tình thế và thời cơ cách mạng đã chín muồi thì phải chớp lấy. Thời cơ mà bị bỏ lỡ thì mất đi không bao giờ trở lại. Điều đó trả lời cho câu hỏi tại sao cùng hoàn cảnh như Việt Nam mà nhiều nước, nhiều Đảng không làm cách mạng được như Việt Nam. Bác Hồ đã tạo ra một thời cơ rất là thuận lợi cho cách mạng bằng cách giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa thiên thời, địa lợi, nhân hòa mà nhân hòa là gốc, tức là lòng dân. Cho nên ngay từ khi mà Bác biết tin là phát xít Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đầu hàng, Bác nói đây là dấu hiệu mở đầu của thời cơ. Bác chỉ đạo là phải về nước ngay lúc này, chậm trễ là có tội với lịch sử. Bác quyết định hoãn đi học chính trị ở trường Hoàng Phố, đưa về nước lập căn cứ cách mạng và để chuẩn bị khởi sự, lập chính quyền. Bác rất chú trọng công tác dân vận, bởi vì có dân giúp sức thì cách mạng sẽ thắng lợi mà không có dân giúp sức thì dù có thuận lợi mấy cũng không thành công.

Tại sao Bác chỉ thị cho Võ Nguyên Giáp lập ngay đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944? Lúc bấy giờ Cách mạng đến nơi rồi, lúc bấy giờ chúng ta chúng ta băn khoăn là không có súng thì làm sao mà làm cách mạng được? Bác nói là: “người trước, súng sau; chính trị trọng hơn quân sự; có dân thì sẽ có tất” và trực tiếp chỉ đạo mở các lớp bồi dưỡng cách mạng, lý luận cách mạng cho cán bộ. Và nét độc đáo là ở vùng biên giới Việt Nam và Trung Quốc, bác chọn chỗ mở lớp. Bác khai giảng lớp xong thì không có giảng bài gì cả, cả thầy và trò đi lên rừng lấy củi, làm dân vận cho dân. Bác tổng kết là: chùm nước của dân phải đầy, đống củi của dân phải cao thì dân mới tin tưởng, dân mới giúp đỡ Cách mạng. Cho nên phải làm tất cả vì dân. Tuyên ngôn của chúng ta cũng nêu rõ: cách mạng là vì dân. Bây giờ cũng vậy, đổi mới, phát triển cũng vì dân, vì hạnh phúc của nhân dân.

Những sự sáng tạo đó cho thấy rất rõ Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng cả về mặt chính trị, vận dụng cả về mặt quân sự và vận dụng cả về mặt đạo đức. Một cuộc cách mạng vĩ đại có thắng lợi hay không là nhờ sức mạnh đạo đức. Mà ở Bác, cả đời cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; từ đầu đến cuối đến tận phút cuối cùng cũng vậy thôi. Ngay trong “Đường kách mệnh”, Bác không chỉ nói là giữ chủ nghĩa cho vững, Bác còn căn dặn là phải ít lòng tham muốn về vật chất. Bác dặn cán bộ ít lòng tham muốn vật chất để rồi sau này khi có quyền, có chức thì phải biết đứng ngoài vòng danh lợi, không màng danh lợi chỉ vì dân, vì nước thôi và chỉ như vậy cách mạng thành công. Qua đó để ta hiểu vì sao bây giờ, Đảng ta phải hết sức nỗ lực để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đánh bại chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm, để bảo vệ đất nước, bảo vệ quyền của dân, lợi ích của dân được dân ủng hộ thì cách mạng sẽ thắng lợi.

Bài học đó rất thấm thía vào lúc này khi ta nhắc đến 104 năm Cách mạng tháng Mười, cũng là 76 năm cuộc Cách mạng tháng Tám và 3/4 thế kỷ Đảng ta ở vị trí Đảng cầm quyền cầm quyền liên tục. Đấy là một bản lĩnh chính trị của Đảng ta, từ sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân với Đảng, sức mạnh dân tộc với thời đại, sức mạnh yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Sáng tạo này có thể khái quát là không chỉ sáng tạo học thuyết lý luận về tư tưởng, sáng tạo về phương pháp cách mạng, sáng tạo cả về sách lược cách mạng, sáng tạo cả về chủ trương, đường lối mà nổi bật nhất là đoàn kết. Để ta hiểu vì sao mà sau này Bác nói là “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Một Đảng 15 tuổi mà đã làm Cách mạng thành công. Lúc Cách mạng tháng Tám khởi sự, toàn Đảng có 5.000 đảng viên và thù trong, giặc ngoài như thế mà vẫn giành được thắng lợi thì có thể nói là Bác tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh Nhân dân, truyền thống dân tộc, lại có đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản và ánh sáng tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại là Mác-Lênin soi đường thì cách mạng sẽ thành công.

GS Hoàng Chí Bảo trao đổi với phóng viên nhân dịp kỷ niệm 104 năm Cách mạng tháng Mười Nga. [ảnh: HH]

PV: Thưa Giáo sư, rõ ràng là qua nghiên cứu một số cuộc cách mạng nổi tiếng trên thế giới và ở Việt Nam thì cho thấy rằng, việc xác định con đường, định hướng tư tưởng có thể nói là tiên quyết trong mọi cuộc cách mạng. Xin Giáo sư phân tích sâu hơn về xác định nền tảng tư tưởng trong mỗi cuộc cách mạng để nó mang tính triệt để và dẫn tới thành công? Và để bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện nay, chúng ta cần phải làm gì?

GS Hoàng Chí Bảo: Nền tảng tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga cũng như Cách mạng tháng Tám sau này của Việt Nam làm đều dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin hay ta gọi là chủ nghĩa xã hội khoa học mà cái then chốt nhất được thể hiện ở mấy điểm sau:

Một là phải đảm bảo giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo đội tiên phong của giai cấp công nhân chính là Đảng Cộng sản và cuộc cách mạng ấy chính là thực hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Đó là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội loài người và những giải phóng từng con người.

Nền tảng tư tưởng ấy được Đảng ta rất chú trọng phát triển. Bác nói: Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, tức là vận dụng tinh thần và phương. Tinh thần, tức là thế giới quan, là nội dung tư tưởng; phương pháp, tức là vấn đề nghệ thuật cách mạng. Cách mạng vừa là nghệ thuật, vừa là khoa học, trong đó có vấn đề nghệ thuật chớp thời cơ; nghệ thuật vận dụng lực lượng; nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù; nghệ thuật phân hóa kẻ thù…Bác và Đảng ta đã thực hiện đúng cái nền tảng tư tưởng đó.

Tất nhiên, trong suốt quá trình cách mạng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng là không đơn giản, vì kẻ thù luôn luôn xuyên tạc và phá hoại niềm tin ấy của chúng ta. Cho nên bây giờ, trọng trách của Đảng ta là trước hết phải bảo vệ cho được nền tảng tư tưởng. Đảng ta dùng khái niệm là “kiên quyết và kiên trì, kiên định”. Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII có một câu rất quan trọng: coi nguyên tắc về nền tảng tư tưởng là một nguyên tắc không thay đổi. Và không cho phép ai được ngã nghiêng, dao động. Khẳng định này mạnh liệt lắm và rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay để thống nhất nhận thức tư tưởng trong Đảng, trong dân. Vì con đường phát triển của Việt Nam là chủ nghĩa xã hội.

Cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng này trong điều kiện kinh tế thị trường, trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là trong điều kiện bùng nổ cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, bùng nổ thông tin, mạng xã hội đầy rẫy các thông tin giả dối, xuyên tạc thì giữ vững niềm tin, bảo vệ nền tảng tư tưởng không có gì quan trọng hơn là bảo vệ con đường phát triển chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa thôi. Ngay cả việc Liên Xô đổ vỡ, Đông Âu, đổ vỡ chủ nghĩa xã hội lâm vào tổn thất nặng nề và thoái trào cũng không hề làm mất đi niềm tin của chúng ta với chủ nghĩa xã hội. Khẳng định đó là phải hết sức chú trọng trong giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là lớp trẻ để vững tin.

Điểm thứ hai nữa là phải bảo vệ địa vị lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng. Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo cầm quyền đã được ghi vào Hiến pháp năm 2013. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc lãnh đạo cầm quyền của Đảng. Dĩ nhiên, Đảng không chỉ chính đáng về mặt pháp lý mà Đảng còn xứng đáng về mặt đạo đức. Không có Đảng nào hy sinh vì dân, vì nước như Đảng ta, mà kết tinh là Bác Hồ. Đảng là đạo đức, là văn minh. Nhân dân tin Đảng đến mức coi Đảng là chính mình. Không có Đảng nào có uy tín, ảnh hưởng rộng lớn như vậy trong dân. Cho nên Đảng phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện.

Tại kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta lần này chính thức ghi vào văn kiện từ “chỉnh đốn Đảng”. Và điều đáng chú ý, 3 nhiệm kỳ liên tiếp, 3 hội nghị Trung ương 4 liên tiếp từ khóa XI, XII, XIII đều lấy Xây dựng Đảng làm trọng tâm, làm chủ đề lớn để nói về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tóm lại, muốn cách mạng thành công, triệt để, phải có con đường phát triển, khẳng định mục tiêu, khẳng định vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng, khẳng định sức mạnh sáng tạo vô tận của nhân dân. Cách mạng thắng lợi là do có Nhân dân. Ngoài Đảng sáng suốt ra thì phải có Nhân dân. Dân là lực lượng của Đảng. Bác nói không có Đảng lãnh đạo thì dân không có người dẫn đường mà không có dân giúp sức thì Đảng không có lực lượng. “Đảng với dân là máu thịt”. Trước khi mất, Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân một câu nói cảm động: Nhân dân giúp đỡ nhiều, ủng hộ nhiều thì thành công nhiều; nhân dân giúp đỡ ít thì thành công ít; nhân dân giúp đỡ hoàn toàn thì thành công hoàn toàn, thắng lợi hoàn toàn. Đấy là chân lý của muôn đời: “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Có cái khó nào bằng cái khó xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì có dân sẽ có tất cả.

Đấy là điểm rất cần thiết để nhắc lại hiện nay khi chúng ta nói về kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga để dẫn đến sự nghiệp của chúng ta hiện nay. Và thái độ của Đảng ta là rất rõ ràng, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị [phải có đường lối đúng đắn]; hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Xây dựng Đảng về đạo đức rất quan trọng. Bài học đau đớn của Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ chỉ vì suy thoái đạo đức, mất dân, dân không tín nhiệm nữa. Bây giờ, Đảng tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Đạo đức này không có gì khác là cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư theo gương sáng Hồ Chí Minh. Đây là việc rất quan trọng mà chúng ta cần phải nhấn mạnh để xây dựng Đảng làm sao cho xứng đáng là “con nòi của giai cấp công nhân”, để xứng đáng là “Đảng là đạo đức, là văn minh” như Bác Hồ kỳ vọng.

Mong muốn nhất của chúng ta bây giờ là làm sao Đảng thành công trong chống tham nhũng, Đảng giữ mãi được niềm tin của nhân dân. Đảng ta khẳng định, niềm tin của nhân dân là tài sản vô giá, không được mất, phải phát huy, phát triển lên và phải lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo về năng lực, phẩm chất cán bộ và là thước đo về hiệu quả lãnh đạo, quản lý. Tư tưởng này có thể nói là sẽ soi đường, chỉ lối cho chúng ta đi tới thắng lợi dù phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư đã trả lời phỏng vấn!

Hiền Hòa [thực hiện]

Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của cách mạng Việt Nam

Chuyên đề 1
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
LÀ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
------------
I- CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN LÀ HỌC THUYẾT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG NHẤT TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ vĩ đại của loài người
a] Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là quy luật phát triển khách quan của xã hội
- Trong quá trình phát triển xã hội loài người, nhất là từ khi xuất hiện các giai cấp và đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động luôn luôn mơ ước được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng tiến bộ, nhân đạo đã hình thành và phát triển trong lịch sử nhân loại đều mong muốn giải phóng các giai cấp cần lao khỏi ách áp bức, bất công.
- Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều nước Tây Âu, nhất là nước Anh, đã phát triển mạnh mẽ. Bước lên vũ đài chính trị, giai cấp vô sản cần có lý luận khoa học để hướng dẫn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình khỏi áp bức, bất công xã hội. Trên thế giới lúc đó cũng đã xuất hiện những tiền đề về kinh tế - xã hội khoa học và lý luận, v.v… dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác.
Về điều kiện kinh tế - xã hội: Với sự ra đời của nền sản xuất đại công nghiệp dựa trên kỹ thuật cơ khí trước hết là ở nước Anh, lực lượng sản xuất xã hội đạt tới trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản ngày càng phát triển, trở thành mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản.
Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó là giai cấp công nhân. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học và cách mạng dẫn dắt, soi đường. Chủ nghĩa xã hội khoa học do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó.
Về tiền đề khoa học và lý luận: Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó có ba phát minh quan trọng: Thuyết tiến hóa của Đácuyn; Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lômônôxốp; Thuyết tế bào. Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp… đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát triển.
Về lý luận, có những thành tựu phát triển của triết học cổ điển Đức [tiêu biểu là Cantơ, Phoiơbắc], kinh tế chính trị cổ điển Anh [tiêu biểu là Ađam Xmít và Đavít Ricácđô], chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp thế kỷ XIX [tiêu biểu là Xanh - Ximông, Rôbớc Ôoen, Sáclơ Phuriê]…
- Dựa trên những tiền đề khoa học và lý luận, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, C. Mác [1818 - 1883] và Ph. Ăngghen [1820 - 1895] đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, phát triển, sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa xã hội khoa học. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ rõ sự hình thành, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Chủ nghĩa Mác ra đời là thành tựu trí tuệ của loài người, phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng thế giới, là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển lịch sử của tư tưởng nhân loại.
b] Sự vận dụng và phát triển không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các giai đoạn lịch sử
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn của chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hòa được, dẫn tới chiến tranh đế quốc. Đồng thời, với sự xâm chiếm và bóc lột thuộc địa tàn khốc của các nước đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc đại và phụ thuộc chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Yêu cầu của thực tiễn cách mạng lúc đó là phải vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới.
V.I. Lênin [1870 - 1924] đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong điều kiện đó. Người đã phân tích sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục được để khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản và mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. V.I. Lênin đã phát triển một loạt vấn đề lý luận về xây dựng Chính quyền xôviết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật; tiến hành công nghiệp hóa, điện khí hóa toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa…
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm tư sản, kịch liệt phê phán chủ nghĩa xét lại, cơ hội, “tả” khuynh, “hữu” khuynh, giáo điều,… trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác.
Sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác của V.I. Lênin đã làm cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trở thành hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi của V.I. Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã, đang tiếp tục được vận dụng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất gồm ba bộ phận: triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học
- Triết học Mác - Lênin [bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử], là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác - Lênin chỉ rõ bản chất những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Với phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã chứng minh rằng, việc xã hội hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở lý luận của sự chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
3. Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
a] Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ của nhân loại
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời trên cơ sở những tri thức tiên tiến nhất của thời đại về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và những thành tựu về lý luận trong triết học, kinh tế chính trị và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa, tiếp lthu và phát triển những thành tựu trí tuệ của nhân loại, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ chung của nhân loại.
b] Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu chung là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu đó
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Điều đó đã chỉ ra cho xã hội, đặc biệt là giai cấp công nhân, nhân dân lao động, phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công và tình trạng người bóc lột người. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là vũ hí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, qua đó giải phóng xã hội và giải phóng con người.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới. Đó là mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. C. Mác viết: “… lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào chúng” .
c] Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận toàn diện, học thuyết khoa học, cách mạng hoàn chỉnh
- Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học mácxít làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sáng một hình thái kinh tế - xã hội khác như một quá trình lịch sử tự nhiên.
- Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện sự vận động, thay thế các phương thức sản xuất trong xã hội. Đó là cơ sở khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
- Học thuyết giá trị thặng dư đã chỉ rõ mục đích và quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó vạch ra bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình, đồng thời giải phóng xã hội.
d] Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận mácxít
- Thế giới quan duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin giúp con người hiểu rõ bản chất của thế giới là vật chất. Thế giới [tự nhiên, xã hội] và tư duy của con người vận động, biến đổi theo những quy luật khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới.
- Phương pháp luận mácxít giúp xem xét sự vật hiện tượng một cách khách quan, toàn diện, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng.
Sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa Mác -Lênin trở thành một hệ thống lý luận mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc.
đ] Chủ nghĩa Mác - Lênin và học thuyết mở, không ngừng đổi mới, phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Theo các ông, phát triển lý luận Mác - Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người mácxít chân chính, nếu họ không muốn trở nên lạc hậu với thời đại của họ. Trên thực tế, ngay trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã điều chỉnh một số luận điểm đã trở nên lạc hậu, phát triển, bổ sung những quan điểm lý luận mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, không cứng nhắc và giáo đều: đồng thời, có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện chứng, nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó. Kiên định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của nó để không ngừng phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng hoàn thiện và gắn liền với thực tiễn.
II- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
1. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh”
- Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong quá trình lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI [tháng 6-1991], trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, lẫn đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh” . Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX [2001], khái niệm và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định rõ hơn.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Kết quả vận dụng sáng tạo và phát triển đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, sự bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống, ý chí độc lập, tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo… của dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển. Tư tưởng của Người là sự kết tinh những tinh hoa văn hóa, tinh thần, trí tuệ, đạo đức của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chí Minh, người anh hùng dân tộc vĩ đại. Vậy chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các quan điểm của các trường phái triết học, các trào lưu tư tưởng trên thế giới, cả phương Đông và phương Tây, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, phát triển lên, trở thành tư tưởng của mình.
Trong ba nguồn gốc trên, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu, là động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của các nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất của cá nhân Người.
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí Minh, nhưng chỉ với Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới được kết hợp lại, phát triển lên, trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của Người.
Thứ nhất, đó là khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với sự nhận xét, phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu.
Thứ hai, là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân thế giới trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, trong quá trình đi đến chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trải qua cuộc sống của người công nhân lao động thực sự, luôn hòa mình với đời sống của giai cấp cần lao. Chính đó là yếu tố chủ quan then chốt, quyết định bước chuyển từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, để Người trở thành một chiến sĩ cách mạng nhiệt thành; thương yêu những người cùng khổ; sẵn sàng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên đã giúp Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình - tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh là:
- Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
- Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
- Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân…
III- ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ LỰA CHỌN LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC TA
1. Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a] Sự lựa chọn khách quan của lịch sử dân tộc [điều kiện lịch sử của Việt Nam]
- Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, đã có hành trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân sĩ, trí thức, người yêu nước… theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do chưa có đường lối cứu nước đúng đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Đầu thế kỷ XX, toàn bộ trí lực của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Tháng 6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành [Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh] ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba qua nhiều nước trên thế giới, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình, như Cách mạng tư sản Pháp, Chiến tranh giành độc lập ở Mỹ; tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Người đã rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người đã tìm thấy con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là tiến hành vô sản: độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới… Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” . Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
b] Sự lựa chọn khách quan của thời đại [điều kiện lịch sử thế giới]
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm, cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc.
- Về lý luận và thực tiễn, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
- Trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển; xóa bỏ tình trạng dân tộc này áp bức, bóc lột, nô dịch dân tộc khác trên thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, bạo lực, bất công; bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi thành lập Đảng
Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chình vì vậy, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa [nay là Cộng hòa xã hội chỉ nghĩa Việt Nam]. Đây là kết quả tổng hợp của các cao trào cách mạng diễn ra liên tục từ ngày thành lập Đảng, từ Cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh 1930 - 1931, Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đến Cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, giành lại nền độc lập cho dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi đó đã tạo điều kiện đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đã củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bài học lớn luôn luôn được đặt ở vị trí hành đầu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, là phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” .
3. Những nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Với điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội rất thấp, quá trình đó tất yếu đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường. Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã cụ thể hóa những phương hướng trong Cương lĩnh 1991, chỉ ra 8 quá trình sau:
Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản là:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng…
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dước sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa. Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hóa phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hóa hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần. Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” .
Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ nhân dân là bản chất của chế độ xã hội ở nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các hình thức thực hành dân chủ: dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Năm là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp quyền ở nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Sáu là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “nhiệm vụ then chốt”, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới…
Tám là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phải chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động về đường lối, chính sách, bước đi hội nhập. Tích cực chuẩn bị vươn lên tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc./.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề