Theo chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945), mục tiêu của cách mạng đông dương lúc đó là gì?


Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra trong lịch sử dân tộc bước ngoặt lớn, đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Song không lâu sau đó, cách mạng nước ta đứng trước những thử thách hết sức nghiêm trọng, phải đối đầu với nguy cơ đe dọa sự tồn tại của mình.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

Trước tình hình khẩn cấp, ngay ngày 23 tháng 9 năm 1945, Xứ ủy Nam Bộ họp Hội nghị mở rộng tại Cây Mai (Chợ Lớn). Hội nghị phân tích âm mưu của thực dân Pháp và chủ trương phát động nhân dân Nam Bộ kiên quyết kháng chiến chống xâm lược. Cũng trong ngày hôm đó, qua làn sóng điện, Trung ương Đảng chỉ thị cho Xứ ủy Nam Bộ về chủ trương kháng chiến chống Pháp. Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi và cổ vũ cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam. Ngày 26 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư biểu dương tinh thần chiến đấu và thể hiện lòng tin của mình đối với đồng bào Nam Bộ: "Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ".

Với "lòng kiên quyết ái quốc", ngay chiều cùng ngày, đồng bào Nam Bộ đã vùng lên tiến hành nhiều hoạt động đấu tranh với thực dân Pháp, tiêu biểu là cuộc đấu tranh không hợp tác với địch của nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn. Chợ ngừng họp, xe cộ ngừng chạy, các hiệu buôn, nhà máy đóng cửa, điện, nước bị cắt, các kho tàng của địch bị đánh phá, tàu Pháp vừa cập bến cảng Sài Gòn bị đốt cháy. Quân giặc nhiều lần tiến ra phía cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Thị Nghè đều bị chặn lại. Không những thế, lực lượng vũ trang và bán vũ trang cùng toàn thể đồng bào đã dũng cảm chiến đấu đánh trả bọn xâm lược với tất cả vũ khí có trong tay làm cho địch lâm vào tình trạng khốn đốn, sống thiếu điện nước, không được tiếp tế, luôn bị tập kích tiêu hao, tiêu diệt và bị vây hãm. Tình trạng khốn cùng này của thực dân Pháp chỉ chấm dứt vào cuối năm 1945, khi chúng được tăng thêm viện binh và sự giúp đỡ nhiều hơn của quân Anh, quân Nhật nên đã phá vỡ vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn để đánh chiếm rộng ra các vùng khác.

Để tổng kết hơn một tháng lãnh đạo cuộc kháng chiến và đề ra những phương hướng nhiệm vụ tiếp theo, Đảng bộ Nam Bộ đã tổ chức Hội nghị cán bộ (25/10/1945) tại Thiên Hộ (Cái Bè, Mỹ Tho). Dự Hội nghị có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban Thường vụ Trung ương Đảng và các đồng chí Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh. Hội nghị đã kiểm điểm và rút kinh nghiệm trong hơn 1 tháng lãnh đạo cuộc kháng chiến, biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân Nam Bộ và tỏ rõ quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Hội nghị quán triệt quan điểm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang, quyết định những biện pháp cấp bách nhằm xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật trong thành phố cũng như các vùng bị tạm chiếm. Hội nghị cử đồng chí Tôn Đức Thắng phụ trách Ủy ban kháng chiến và chỉ đạo các lực lượng vũ trang.

Ngày 21 tháng 11 năm 1945, Hội nghị quân sự họp tại xã An Phú (Gia Định) quyết định việc phân chia chiến trường, xây dựng căn cứ địa, rút kinh nghiệm trong chiến đấu và bàn cách đánh địch trong tình hình mới.

Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc". Chỉ thị nhận định những thay đổi căn bản của tình hình thế giới và trong nước sau chiến tranh thế giới thứ hai, nêu rõ những thuận lợi căn bản và những thử thách lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà nhân dân ta đang tiến hành. Từ đó, Chỉ thị nêu lên các vấn đề cơ bản của cuộc kháng chiến như sau:

- Tính chất: Chỉ thị khẳng định cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Xác định đất nước chưa hoàn toàn độc lập, kẻ thù chính, đối tượng đấu tranh chính của nhân dân ta vẫn là thực dân Pháp xâm lược.

- Nhiệm vụ: Nhiệm vụ chiến lược: Kết hợp tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ là kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc và ra sức xây dựng chế độ xã hội mới. Nhiệm vụ trước mắt: củng cố chính quyền, chống ngoại xâm, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.

- Khẩu hiệu đấu tranh của nhân dân ta lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".

Chỉ thị đề ra các biện pháp trên những mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, xây dựng Đảng, mở rộng Mặt trận Việt Minh và Mặt trận thống nhất Việt Nam - Lào - Campuchia để hoàn thành các nhiệm vụ của cuộc kháng chiến.

Đảng đã dành hẳn một phần quan trọng trong Chỉ thị để nêu lên những chủ trương, đường lối tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp ở phía nam vĩ tuyến 16. Chỉ thị đánh giá những thuận lợi và khó khăn của cả ta và địch, nêu lên "nhiệm vụ chiến thuật là phải cắt đứt dây liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong tỏa những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự… Phải phát động chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính sách bất hợp tác" 2  với giặc. "Điều cốt tử là phải giữ vững liên lạc giữa các chiến khu để thống nhất chỉ huy… Các vùng chiến tranh chưa lan đến cũng phải chuẩn bị đối phó… kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui cũng phải hết sức chu đáo". 

Như vậy, Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25/11/1945) đã giải quyết được các vấn đề cơ bản trước mắt cũng như lâu dài mà cuộc cách mạng đang đặt ra. Tư duy linh hoạt, sáng tạo, đúng đắn của Trung ương Đảng trong lãnh chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng thể hiện rất rõ qua việc nêu cao cùng lúc hai ngọn cờ: kháng chiến và kiến quốc. Kháng chiến là chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập của dân tộc và kiến quốc là xây dựng đất nước hưng thịnh, xây dựng chế độ xã hội mới nhằm bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân. Bản Chỉ thị góp phần quan trọng trong việc hình thành đường lối kháng chiến toàn quốc sau này.

Cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ được sự quan tâm và giúp đỡ rất lớn của Trung ương Đảng và nhân dân cả nước. Đảng đặc biệt chăm lo việc động viên cả nước hướng về miền Nam ruột thịt đang chiến đấu anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Phong trào cả nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ trở thành một cuộc vận động chính trị rộng lớn và hết sức sôi nổi. Các Ủy ban ủng hộ kháng chiến được thành lập khắp nơi. Trong một thời gian ngắn, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đã có những chi đội (tương đương trung đoàn) Nam tiến rầm tập lên đường vào Nam giết giặc.

Tháng 12 năm 1945, Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam được thành lập tiếp tục lãnh đạo nhân dân toàn miền kháng chiến theo phương châm toàn dân kháng chiến và kháng chiến lâu dài. Sau đó, Ủy ban kháng chiến các cấp cũng được thành lập trên khắp miền Nam. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban kháng chiến, sự ủng hộ giúp đỡ của Trung ương Đảng và nhân dân miền Bắc, đồng bào miền Nam đã anh dũng chiến đấu đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp, buộc chúng phải đàm phán với chính phủ cách mạng.

Gần 75 năm trôi qua, tinh thần ngày 23/9 vẫn âm vang mãi. Đó là âm vang của Nam Bộ thành đồng giàu lòng vì nước thề quyết chống quân ngoại xâm. Đó là tiếng chân của những đoàn quân Nam tiến nghe theo tiếng kêu sơn hà nguy biến sẵn sàng xả thân vì nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước đồng sức đồng lòng "xây giang san hạnh phúc muôn đời. Nền độc lập khắp nước Nam" như lời bài hát Nam Bộ kháng chiến của cố nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn./.

QUỐC AN

Skip to content

– Sau thắng lợi vĩ đại của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao. – Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền, nhân dân ta được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước. Cách mạng nước ta thời kỳ này đứng trước những khó khăn, thử thách nghiêm trọng: + Nước ta còn nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các chính quyền phản động trong khu vực. Nước ta còn chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới. + Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết, tiếp đó là nạn lũ lụt, hạn hán kéo dài làm 50% ruộng đất bị bỏ hoang. Sản xuất nông nghiệp đình đốn. Tài chính khô kiệt, kho bạc trống rống, ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp.

Trình độ văn hoá của nhân dân ta thấp kém, 90% số dân mù chữ. + Ở miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, theo gót chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách, chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi, cướp của giết người và chống phá chính quyền cách mạng. Ở miền Nam: quân Anh với danh nghĩa Đồng Minh kéo vào nước ta tiếp tay cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. “Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc!”.

2. Nội dung cơ bản của Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”

Ngày 25-11-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” vạch rõ nhiệm vụ chiến lược và nhiệm vụ cần kíp của cách mạng nước ta. Chỉ thị xác định: – “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. – Kẻ thù chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp xâm lược. – Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của toàn dân tộc ta là: củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng. – Chỉ thị vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên. + Về nội chính: xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, lập hiến pháp, xử lý bọn phản động đối lập, củng cố chính quyền nhân dân. + Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến. + Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù. Đối với quân đội Tưởng, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện”.

Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban thường vụ Trung ương Đảng đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền, đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.