Vì sao quốc dân đảng thất bại

Mục lục

Show
  • 1 Tên gọi
  • 2 Bối cảnh
  • 3 Chiến tranh Bắc phạt (1926-1928) và Quốc-Cộng phân liệt
  • 4 Diễn biến
    • 4.1 Nội chiến lần thứ nhất
      • 4.1.1 Giai đoạn 1927-1937
    • 4.2 Chiến tranh Trung Nhật (1937–1945)
    • 4.3 Nội chiến lần thứ 2
      • 4.3.1 Tương quan lực lượng sau chiến tranh Trung-Nhật
      • 4.3.2 Giai đoạn 1946-1950
      • 4.3.3 Thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quốc dân đảng rút chạy ra Đài Loan
  • 5 Nguyên nhân thắng lợi của Đảng Cộng sản
    • 5.1 Chính sách hợp lý của Đảng Cộng sản
    • 5.2 Sự yếu kém của Quốc dân đảng
  • 6 Sau nội chiến
  • 7 Tướng lĩnh
    • 7.1 Quốc dân đảng Trung Quốc
    • 7.2 Đảng Cộng sản Trung Quốc
    • 7.3 Quân phiệt
  • 8 Danh sách vũ khí
  • 9 Danh sách các trận đánh trong cuộc nội chiến
    • 9.1 Giai đoạn 1945-1949
      • 9.1.1 1945
      • 9.1.2 1946
      • 9.1.3 1947
      • 9.1.4 1948
      • 9.1.5 1949
    • 9.2 Giai đoạn sau 1949
      • 9.2.1 1950
      • 9.2.2 1951
      • 9.2.3 1952
      • 9.2.4 1953
    • 9.3 1954
      • 9.3.1 1955
      • 9.3.2 1960
      • 9.3.3 1950–1958
    • 9.4 1995-1996
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Tham khảo

Tên gọiSửa đổi

Các tài liệu chính thức và sử liệu giáo khoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi cuộc chiến là Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (tiếng Trung: 中国人民解放战争), gọi tắt là Chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến Cách mạng lần thứ 3 (tiếng Trung: 第三次国内革命战争). Còn tài liệu tương đương của Trung Hoa Quốc dân đảng và chính quyền Trung Hoa Dân quốc thì coi đây là cuộc nổi loạn của "phỉ quân" Trung Hoa Cộng sản đảng chống lại Nhà nước và chính phủ trung ương, nên gọi là Kham loạn chiến tranh (tiếng Trung: 戡乱战争) (chiến tranh bình loạn) hoặc Chiến tranh kháng Cộng. Sách báo người Hoa hải ngoại thường gọi là Nội chiến Quốc - Cộng. Cộng đồng quốc tế gọi chung là Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War). Một ít sử gia Đài Loan gom chung thời kỳ này và gọi là "Chiến tranh kháng Nhật - Cộng".

Bối cảnhSửa đổi

Các tập đoàn lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc chính (1925)- các vùng màu hồng

Nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng tại Trung Hoa, sụp đổ năm 1911.[5] Trung Quốc rơi vào vòng kiểm soát của một số lãnh chúa quân phiệt lớn nhỏ, gọi là thời kỳ quân phiệt. Để đánh bại các quân phiệt này, vốn nắm quyền kiểm soát phần lớn miền Hoa Bắc và Hoa Nam, lực lượng phản đế và lực lượng quốc gia thuộc Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến hành tìm kiếm trợ giúp từ nước ngoài. Tuy nhiên các nỗ lực tìm kiếm ủng hộ từ các quốc gia dân chủ phương Tây của Tôn Trung Sơn thất bại, và tới năm 1921 ông quay sang Liên Xô. Liên Xô vì lý do chính trị, theo đuổi chính sách hỗ trợ cả Tôn Trung Sơn lẫn đảng Cộng sản Trung Quốc mới thành lập. Như vậy cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu.

Năm 1923, Tôn Trung Sơn và đại diện Liên Xô là Adolph Joffe ra thông cáo chung tại Thượng Hải, theo đó Liên Xô hứa sẽ trợ giúp để thống nhất Trung Quốc.[6] Bản thông cáo này là lời tuyên bố hợp tác giữa Quốc tế III, Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc.[6] Thành viên Quốc tế thứ ba là Mikhail Borodin tới Trung Quốc năm 1923 để hỗ trợ cho việc tái tổ chức và củng cố Quốc dân đảng, theo mô hình Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản Trung Quốc liên kết với Quốc dân đảng và thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc lần thứ nhất.[3]

Năm 1923, Tôn Dật Tiên điều Tưởng Giới Thạch, một trong những phụ tá của mình từ thời Đồng minh hội, đến Moskva trong vài tháng để nghiên cứu quân sự và chính trị.[7] Tới năm 1924, Tưởng trở thành hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, và nổi lên với tư cách người kế nhiệm Tôn Dật Tiên lãnh đạo Quốc dân đảng.[7]

Phía Liên Xô cung cấp phần lớn tài liệu nghiên cứu, tổ chức và trang thiết bị, bao gồm đạn dược cho học viện.[7] Liên Xô cũng giúp đào tạo kỹ thuật vận động quần chúng. Với sự trợ giúp này, Tôn Dật Tiên đã có thể gây dựng nên một "đội quân của đảng" trung thành, mà ông định sử dụng để đánh bại quân đội của các lãnh chúa quân phiệt. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng có người trong học viện, nhiều người trở thành giảng viên trong trường, kể cả Chu Ân Lai, với vai trò giảng viên chính trị.[8]

Thành viên đảng Cộng sản cũng được phép gia nhập Quốc dân đảng sau khi xét duyệt.[6] Bản thân đảng Cộng sản khi ấy cũng còn nhỏ yếu, chỉ có 300 thành viên vào năm 1922 và 1.500 thành viên năm 1925,[9] trong khi Quốc dân đảng năm 1923 đã có 50.000 thành viên[9].

Chiến tranh Bắc phạt (1926-1928) và Quốc-Cộng phân liệtSửa đổi

Chỉ vài tháng sau khi Tôn Dật Tiên chết năm 1925, Tưởng Giới Thạch, với vai trò tổng chỉ huy Quân đội cách mạng quốc gia, tiến hành cuộc Bắc phạt.[9] Tuy vậy, tới năm 1926, Quốc dân đảng đã phân hóa thành phái tả và phái hữu.[9] Những người Cộng sản trong hàng ngũ Quốc dân đảng cũng phát triển mạnh. Tới tháng 3 năm 1926, biến cố tàu Trung Sơn xảy ra, Tưởng đã kịp thời phá vỡ âm mưu bắt cóc mình, và áp đặt lệnh cấm thành viên đảng Cộng sản giữ các vị trí lãnh đạo trong Quốc dân đảng.

Quân chính phủ Quốc dân đảng bắt giữ nghi phạm Cộng sản.

Đầu năm 1927, sự tranh chấp Quốc Cộng dẫn tới sự phân liệt trong hàng ngũ cách mạng. Đảng Cộng sản và nhóm cánh tả của Quốc dân đảng quyết định chuyển thủ đô chính phủ Quốc dân từ Quảng Châu về Vũ Hán, nơi đảng Cộng sản có ảnh hưởng mạnh.[9] Nhưng Tưởng Giới Thạch và viên tướng-quân phiệt Lý Tông Nhân, người đánh bại lãnh chúa quân phiệt Tôn Truyền Phương, lại muốn chuyển về Giang Tây. Phe cánh tả bác bỏ đề xuất của Tưởng Giới Thạch, còn Tưởng lên án phe cánh tả "phản bội Chủ nghĩa Tam dân" của Tôn Dật Tiên khi nhận mệnh lệnh từ Quốc tế Cộng sản. Theo Mao Trạch Đông, sự khoan dung của Tưởng Giới Thạch đối với những người cộng sản trong Quốc dân đảng giảm đi khi quyền lực của Tưởng Giới Thạch gia tăng.[10]

Ngày 7 tháng 4, Tưởng và một số lãnh đạo Quốc dân Đảng họp, và đưa ra quan điểm các hoạt động của Đảng Cộng sản làm rối loạn xã hội và kinh tế, và cần phải ngưng lại để cuộc cách mạng quốc gia có thể tiếp tục tiến triển. Kết quả của cuộc họp này là ngày 12 tháng 4, Tưởng Giới Thạch quay ra xử lý những người Cộng sản tại Thượng Hải. Quốc dân Đảng tiến hành thanh trừng khỏi hàng ngũ của mình các thành viên cánh tả, và hàng trăm đảng viên Cộng sản bị bắt giữ hay bị hành quyết.[11]

Công nhân, người lao động phản đối mạnh mẽ chủ trương của Tưởng. Nhưng Tưởng Giới Thạch không dám sử dụng binh sĩ đàn áp công nhân, sợ danh không thuận sẽ xảy ra binh biến. Bởi, binh lính luôn coi công nhân là bè bạn cùng một liên minh. Nhiều chỉ huy các đơn vị đã tỏ ra ngần ngừ, từ chối nhận lệnh đàn áp. Do đó, Tưởng Giới Thạch đã triệu tập Đỗ Nguyệt Sanh, Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm - 3 đầu lĩnh của Thanh Bang hội đến thành phố cấp huyện Cửu Giang họp kín, bàn mưu "mượn đao giết người". Tưởng nhờ ba ông trùm đưa quân bang hội đi đàn áp công nhân, người biểu tình thay cho quân đội. Lấy danh nghĩa công hội, Đỗ Nguyệt Sênh đã tuyển mộ và vũ trang cho gần 3.000 tên vô lại của Thanh Bang. Đạo quân này được Đỗ Nguyệt Sanh khoác cho những cái tên mỹ miều và ôn hòa là "Hiệp hội Công nhân Thượng Hải" và "Hiệp hội đồng tiến Trung Hoa". Đêm 11/4/1927, mượn danh nghĩa hai tổ chức này, Đỗ Nguyệt Sanh đã mời ủy viên trưởng Tổng công hội Thượng Hải Uông Thọ Hòa đến tư dinh dự tiệc bàn việc hợp tác. Giữa buổi tiệc, Đỗ viện cớ ra ngoài. Thích khách do Đỗ bố trí sẵn thừa cơ đã lẻn vào hạ sát Uông Thọ Hòa ngay tại bàn tiệc. Đúng 1 giờ sáng ngày 12/4/1927, 3.000 tên Thanh Bang, mỗi tên được Đỗ phát cho 10 đồng bạc trắng, mặc đồng phục quần short, áo xanh cộc tay, trên vai có khắc dấu hiệu chữ "công" tỏa đi các nơi đồng loạt tập kích các đội tự vệ của công nhân. Trời vừa sáng, lấy cớ "công nhân xung đột nội bộ, gây mất trị an", Tưởng Giới Thạch đã xua quân đội đi giải giới vũ khí cả hai bên. Thực tế, quân đội được lệnh lập hàng rào ngăn hai bên tấn công và chống trả nhau, tách hai phe giang hồ và công nhân, sau đó lập hành lang bảo vệ cho bọn Thanh Bang rút lui an toàn. Kết quả là 2.700 công nhân vũ trang bị tước vũ khí, 120 người chết, 180 người khác bị thương ngay sau đêm đụng độ đầu tiên. Đến khi trời tối, kịch bản cũ lại lặp lại… Hơn 3 tháng sau đó, Thượng Hải luôn náo loạn bởi hàng trăm vụ tập kích khác của Thanh Bang nhằm tiêu diệt lực lượng công nhân tự vệ. Phong trào công nhân Thượng Hải bị dìm vào bể máu và suy yếu, không còn đủ sức ngáng trở hay phản đối các chủ trương của Tưởng.[12]

Sự kiện này được gọi tên là "chính biến Thượng Hải", "biến cố ngày 12 tháng 4", hay là "cuộc thảm sát Thượng Hải".[13] Cuộc thảm sát đào sâu thêm hố chia cắt Tưởng và phe Vũ Hán của Uông Tinh Vệ. Đảng Cộng sản định tổ chức giành chính quyền tại một số thành phố lớn như Nam Dương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu. Đảng viên Cộng sản, cùng với nông dân và thợ mỏ tại Hồ Nam dưới sự lãnh đạo của Mao[14] tiến hành một cuộc nổi dậy, nhưng thất bại.[14] Tại Trung Quốc khi đó tồn tại ba thủ đô, thủ đô được quốc tế công nhận tại Bắc Kinh,[15] Phe Cộng sản và phe cánh tả thuộc Quốc dân đảng đóng thủ đô tại Vũ Hán,[16] và phe cánh hữu Quốc dân đảng đóng đô tại Nam Kinh, thành phố này sẽ tiếp tục đóng vai trò thủ đô của Quốc dân đảng trong suốt một thập kỷ kế tiếp.[15]

Đảng Cộng sản Trung Quốc nay bị trục xuất khỏi Vũ Hán bởi đồng minh của mình là phe cánh tả Quốc dân đảng, nhóm này đến lượt mình lại bị Tưởng Giới Thạch lật đổ. Quốc dân đảng tiếp đó tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh bắc phạt diệt lực lượng quân phiệt và đánh chiếm được Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1928.[17] Tiếp đó, phần lớn miền đông Trung Quốc dần rơi vào tay chính quyền Nam Kinh, và chính quyền Quốc dân đảng tại Nam Kinh nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng quốc tế như chính phủ hợp hiến duy nhất tại Trung Quốc. Quốc dân đảng tuyên bố nguyên tắc ba giai đoạn cách mạng, phù hợp với cương lĩnh của Tôn Dật Tiên: thống nhất vũ trang, bồi dưỡng chính trị, và dân chủ theo hiến pháp.[18]

Nội chiến Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch để mất ủng hộ của Mỹ

Vì sao quốc dân đảng thất bại
Vì sao quốc dân đảng thất bại

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

George Marshall gặp vợ chồng Tưởng Giới Thạch ở Nam Kinh năm 1946

Vào ngày 25/1/1949, dân biểu bang Massachusetts có tên John F. Kennedy phát biểu tại Hạ viện Mỹ: "Trách nhiệm cho thất bại của chính sách ngoại giao của chúng ta ở Viễn Đông hoàn toàn là do Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao."

Nam Kinh, thủ đô vĩ đại của Trung Quốc

Vì sao Tưởng Kinh Quốc cho phép có đảng đối lập ở Đài Loan?

Sài Gòn chỉ là một trong bốn cuộc di tản lớn

Ông Kennedy chỉ trích chính phủ Mỹ đã để Trung Quốc rơi vào tay phe cộng sản.

"Đây là câu chuyện bi kịch của Trung Quốc," ông nói.

Vị tổng thống tương lai đã quy tội cho Tổng thống Harry Truman và các nhà ngoại giao Mỹ đã để cho Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch.

Tạp chí Time, của ông Henry Luce là người ủng hộ Tưởng Giới Thạch, đặt câu hỏi "Ai để mất Trung Quốc".

Tổng thống Truman không im lặng. Tháng 8/1949, Bộ Ngoại giao công bố tài liệu biện hộ.

Trong Sách trắng Trung Hoa, bộ này nói chính Tưởng Giới Thạch đã để mất nước.

Sách này nói ông Tưởng có chế độ tham ô, độc tài, bỏ qua lời khuyên của Mỹ, đưa tướng tá bất tài nắm quân đội.

Cuộc tranh cãi ở Mỹ giữa hai phe về nguyên do nội chiến Trung Quốc năm 1949 kết thúc với thắng lợi của đảng Cộng sản, kéo dài đến ngày nay với hai quan điểm căn bản như ở trên.

Trở lại năm 1945, Nhật hoàng Hirohito loan báo Nhật đầu hàng vào ngày 15/8/1945.

Cùng thời gian, Liên Xô mở chiến dịch giải phóng Mãn Châu và miền bắc Triều Tiên.

Tại Trung Quốc, cả Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch lúc này chuẩn bị cho nội chiến tái tục.

Nhưng Liên Xô và Mỹ đều không muốn xảy ra nội chiến mà có thể kéo hai đại cường vào.

Vì sao quốc dân đảng thất bại
Vì sao quốc dân đảng thất bại

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Mao và Tưởng gặp nhau

Harry Truman và Joseph Stalin gây sức ép buộc Mao và Tưởng gặp nhau ở thủ đô thời chiến của Tưởng, Trùng Khánh. Đàm phán kéo dài từ 28/8 tới 19/10 mà không đạt kết quả.

Truman gửi danh tướng George Marshall, được ca ngợi là kiến trúc sư giúp Đồng minh chiến thắng Thế chiến 2, tới Trung Quốc ngày 20/12/1945.

Mục tiêu của Truman là dành xếp ngừng bắn giữa hai phe quốc - cộng, thành lập chính phủ liên hiệp của Tưởng và Mao.

Nhưng sứ mạng Marshall không có cơ hội thành công ngay từ đầu, do cả ba bên đều nghi ngờ nhau.

Tưởng Giới Thạch không thích gì người Mỹ. Trong nhật ký, ông Tưởng thường xem người Mỹ là ngây thơ, thiếu trưởng thành. Và dĩ nhiên, ông ghét cay đắng phe cộng sản.

Dẫu vậy, trong ba tháng đầu, trông cứ như Marshall đã đạt tiến bộ.

Tưởng Giới Thạch phải nhượng bộ Marshall để còn có ủng hộ an ninh và vũ khí của Mỹ.

Phe cộng sản lúc này cũng nhượng bộ vì đang yếu hơn về quân sự, và Joseph Stalin ép Mao Trạch Đông không được gây chiến.

Vì thế, Marshall dàn xếp được thỏa thuận ngừng bắn, có hiệu lực từ ngày 10/1/1946.

Hai phe quốc - cộng cũng đồng ý về nguyên tắc rằng quân cộng sản sẽ sáp nhập vào quân đội quốc gia do Tưởng cầm đầu.

Tướng Marshall quay về Washington ngày 13/3/1946 để báo cáo cho Truman.

Nhưng Marshall vừa đi, Tưởng ra lệnh tấn công, hy vọng hủy diệt hồng quân của danh tướng Lâm Bưu ở Trường Xuân và Cáp Nhĩ Tân.

Đến tháng 5, Lâm Bưu phải rút quân ra khỏi Trường Xuân, chạy về Cáp Nhĩ Tân.

Đúng lúc này, George Marshall, người đã trở lại Trung Quốc, lại ép Tưởng ngừng bắn từ ngày 7/6.

Dẫu vậy, Tưởng Giới Thạch và tùy tùng tin rằng việc đánh bại phe cộng sản chỉ là vấn đề sớm muộn.

Cuối tháng 6, quân Tưởng lại tấn cộng ở Hồ Bắc và An Huy.

Đến lúc này, giải pháp thượng lượng của Mỹ chẳng còn ý nghĩa trên thực tế.

Vì sao quốc dân đảng thất bại
Vì sao quốc dân đảng thất bại

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Bà Tống Mỹ Linh

Trong tháng 7 và 8 năm 1946, Marshall cùng đại sứ Mỹ John Leighton Stuart nhiều lần gặp Tưởng Giới Thạch, cố thuyết phục Tưởng cải tổ chính trị và kinh tế. Đồng thời, Mỹ muốn Tưởng xem xét thương lượng với Mao.

Thời gian này, Tưởng than trong nhật ký rằng Mỹ đối xử Trung Quốc như con bài để thương thuyết với Liên Xô.

Mỹ càng lúc càng cho rằng họ đang ủng hộ một nhà độc tài.

Tưởng Giới Thạch có vẻ đánh giá thấp sự bực bội của Mỹ.

Tháng 7/1946, Marshall tuyên bố Mỹ cấm vận về vũ khí, đạn dược với Tưởng Giới Thạch, kéo dài đến 10 tháng.

Nhưng Tưởng vẫn tiếp tục ra lệnh tấn công phe cộng sản.

Vì sao quốc dân đảng thất bại
Vì sao quốc dân đảng thất bại

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

George Marshall, ngoại trưởng, bộ trưởng quốc phòng Mỹ, nổi danh với Kế hoạch Marshall

George Marshall gặp Tưởng ngày 13/10/1946, nhắc rằng ông Tưởng từng hứa sau khi đánh cộng sản được hai, ba tháng thì sẽ có thái độ nhân nghĩa.

Nhưng quân chính phủ Quốc dân của Tưởng tiếp tục tấn công.

Tháng 2/1947, Marshall rời Trung Quốc, chấp nhận thất bại.

Vui mừng vì Marshall đã biến khỏi tầm mắt, Tưởng càng lạc quan khi tháng 3 năm đó, quân Quốc dân đảng chiếm được thủ đô Diên An của đảng Cộng sản.

Nhưng ngay sau đó, chiến sự lại rơi vào thế giằng co.

Tại Washington, hai phe - Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao -tranh cãi về có giúp Tưởng Giới Thạch không.

Lầu Năm Góc nhiệt tình ủng hộ Tưởng, nhưng Bộ Ngoại giao do George Marshall làm ngoại trưởng nghĩ khác.

George Marshall cử Tướng Albert Wedemeyer sang Trung Quốc tháng 7/1947 thu thập tin tức từ chính quyền và dân chúng.

Trong báo cáo gửi tổng thống Truman, Wedemeyer yêu cầu Tưởng phải cải tổ chính trị, nhưng cũng kêu gọi Mỹ tiếp tục ủng hộ quân sự và kinh tế.

Báo cáo tới tay Truman ngày 19/9, nhưng Truman đóng dấu tuyệt mật vào báo cáo và bỏ qua nó.

Đề nghị của Wedemeyer bị cho là thiếu thực tiễn khi muốn Mỹ ủng hộ chính quyền mà Truman xem là tham ô, bất tài, trong lúc châu Âu mới là ưu tiên của Mỹ lúc này.

Sang năm 1948, quân Quốc dân đảng ngày càng gặp nhiều thất bại.

Cũng trong năm 1948, khi Mỹ chuẩn bị có bầu cử tổng thống tháng 11, Tưởng Giới Thạch thậm chí thầm hy vọng Truman sẽ thua để có người khác lên thay thế.

Nhưng Truman tái đắc cử tổng thống.

Tưởng cử vợ, Tống Mỹ Linh, tới Washington ngày 1/12 để vận động dư luận.

Mặc dù gặp cả Truman, nhưng bà Tống quay về trắng tay.

Đến tháng 12/1948, phía Mỹ đã kết luận rằng chẳng đáng để cứu Tưởng hay Trung Quốc.

Đại sứ Mỹ John Leighton Stuart cho rằng Tưởng để mất lòng dân, và nếu cứ cố duy trì, Mỹ có thể "bị tố cáo vi phạm nguyên tắc dân chủ về quyền tự quyết khi giúp đỡ chế độ độc tài không đại diện cho ý chí dân chúng".

Ngày 23/4/1949, quân cộng sản chiếm thủ đô Nam Kinh của Tưởng Giới Thạch.

Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 1/10.

Khởi nghĩa Yên Bái thất bại nhanh chóng vì những nguyên nhân nào?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 17: Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời

- Thực dân Pháp còn mạnh, bản thân Việt Nam Quốc dân đảng còn non kém về nhiều mặt.

- Tổ chức chưa chặt chẽ, còn lỏng lẻo.

- Cuộc khởi nghĩa nổ ra chưa có sự chuẩn bị kĩ, còn bị động.

- Sự lãnh đạo của Đảng còn non kém, thiếu kinh nghiệm.

(Nguồn: trang 67 sgk Lịch Sử 9:)

Việt Nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)

Mục 1

1. Việt Nam Quốc dân đảng

- Hoàn cảnh ra đời:

+ Phong trào dân tộc dân chủ phát triển mạnh mẽ.

+ Các trào lưu tư tưởng bên ngoài, đặc biệt là ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc tác động mạnh mẽ tới sự ra đời của Việt Nam Quốc dân đảng.

- Sự ra đời:

+ Cơ sở hạt nhân đầu tiên là Nam đồng thư xã.

+ Thành lập ngày 25 - 12 - 1927, do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài và Phó Đức Chính sáng lập.

- Xu hướng chính trị: theo xu hướng cách mạng dân chủ tư sản.

- Địa bàn hoạt động: Bắc Kì

- Mục tiêu: đánh đuổi giặc Pháp, thiết lập dân quyền.

- Thành phần: sinh viên, học sinh, công chức, tư sản lớp dưới, nông dân khá giả,địa chủ ở nông thôn, binh lính, hạ sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp.

Mục 2

2. Cuộckhởi nghĩa Yên Bái

- Nguyên nhân:

+ Sau vụ ám sát trùm mộ phu Ba-danh, Pháp tổ chức nhiều cuộc vây ráp, nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng bị bắt, cơ sở ở các nơi bị phá vỡ.

+ Bị động trước tình thế, những người lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng quyết định hành động.

- Diễn biến:

+ Đêm 9 - 2 - 1930, khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái, sau đó là Phú Thọ, Hải Dương, Thái Bình, ở Hà Nội tổ chức ném bom phối hợp.

+ Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa chiếm được trại lính, giết và làm bị thương một số sĩ quan Pháp, nhưng bị quân Pháp phản công tiêu diệt.

+ Các nơi khác, nghĩa quân tạm thời làm chủ mấy huyện lị, nhưng nhanh chóng bị địch phản công chiếm lại.

- Kết quả: khởi nghĩa nhanh chóng thất bại.

- Nguyên nhân thất bại:

+ Khách quan: Thực dân Pháp còn mạnh.

+ Chủ quan: Việt Nam Quốc dân đảng còn non yếu, không vững chắc về tổ chức và lãnh đạo.

- Ý nghĩa lịch sử: cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù của nhân dân ta với bè lũ cướp nước và tay sai.

ND chính

Tóm tắt những nét cơ bản về Việt Nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930).

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Việt Nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)

Vì sao quốc dân đảng thất bại

Loigiaihay.com

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929

    Tóm tắt mục IV. Ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời trong năm 1929

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Lý thuyết Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời

    Lý thuyết Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Phong trào đấu tranh của công nhân, viên chức, học sinh học nghề trong những năm 1926-1927 đã có những điểm mới nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 65 SGK Lịch sử 9

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Tân Việt Cách mạng đảng đã phân hóa trong hoàn cảnh nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 65 SGK Lịch sử 9. Tân Việt Cách mạng đảng đã phân hóa trong hoàn cảnh nào?

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Khởi nghĩa Yên Bái thất bại nhanh chóng vì những nguyên nhân nào?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 67 SGK Lịch sử 9

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và "Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 142 SGK Lịch sử 9

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Vì sao thực dân Pháp và phát xít Nhật thỏa hiệp với nhau để cùng thống trị Đông Dương?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 82 SGK Lịch sử 9

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Tại sao Nhật phải đảo chính Pháp?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 89 SGK Lịch sử 9

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941)

    Tóm tắt mục I. Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941)

ĐÀI LOAN: VÌ SAO TƯỞNG GIỚI THẠCH CHỌN ĐẢO ĐÀI LOAN

Chia sẻ

Tweet

Vì sao quốc dân đảng thất bại

Trước khi cuộc nội chiến kéo dài gần bốn năm kết thúc với thất bại thuộc về phía Quốc dân Đảng, Tưởng Giới Thạch và thuộc hạ đã rút chạy ra đảo Đài Loan, coi đây như một căn cứ địa mới để “phản công đại lục, phục hưng quốc đảng”.

Tuy nhiên, để lựa chọn Đài Loan trở thành nơi sinh tồn cuối cùng của mình, Tưởng Giới Thạch đã có một quá trình chuẩn bị rất dài cùng với rất nhiều những tính toán…

Lần đầu tiên Tưởng Giới Thạch đặt chân tới Đài Loan chính là lúc Trung Quốc giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Nhật, thu về đất Đài Loan.

Đó là vào ngày 25/10/1946, một năm sau ngày Đài Loan được trả về cho Trung Quốc, Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng đang trong gian đoạn đàm phán cực kỳ căng thẳng sau chiến tranh. Buổi trưa ngày 21, Tưởng Giới Thạch vội vàng tiếp Chu Ân Lai, Trương Quân Mại, Hồ Chính… rồi ngay buổi chiều hôm đó đã cùng với Tống Mỹ Linh bay sang Đài Bắc.

Cho tới ngày 25/10, kỷ niệm đúng một năm ngày Đài Loan được trả về Trung Quốc, nhân sĩ Đài Loan đã tổ chức lễ kỷ niệm cùng một buổi tiệc chào đón vợ chồng Tưởng Giới Thạch vô cùng linh đình, trọng hậu. Người dân Đài Loan đổ ra đứng chật cả một đoạn đường dài hơn 10km với những tiếng hoan hô rầm trời. Sau lễ kỷ niệm, ngày 27/10, Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh bay trở về Thượng Hải.

Sau chuyến đi Đài Loan lần ấy, ngoài ấn tượng với sự chào đón nhiệt liệt của người dân nơi đây với mình, Tưởng Giới Thạch đột nhiên cảm thấy hai điều: một là phong tục Nhật Bản ở Đài Loan rất đậm, tuy nhiên, điều đó giờ đây không đáng ngại. Hai là, và điều này mới là quan trọng, rằng Đài Loan không hề có bất cứ “tế bào” nào của Trung Cộng, có thể nói là một “mảnh đất sạch sẽ” hoàn toàn, có thể đầu tư để xây dựng nơi đây thành một “tỉnh kiểu mẫu trong cả nước”.

Cuối tháng 2 năm 1947, Đài Loan xảy ra vụ bạo loạn ngày 28/2, sau khi cảnh sát của chính quyền Quốc dân Đảng trấn áp rồi đánh chết một người dân biểu tình đòi giảm thuế. Để cứu vãn tình hình, ngày 5/3, Tưởng Giới Thạch cử sư đoàn lục quân số 21 của mình đến Đài Loan với chỉ thị: “Phải lấy việc khoan dung, thu phục nhân tâm làm trọng”.

Đến ngày 6, Tưởng lại chỉ thị cho Trần Nghĩa: “Có thể nhượng bộ về mặt chính trị, tiếp nhận ý kiến của nhân dân”. Ngày 7, quyết định dùng đường lối “mềm mỏng” để giải quyết bạo loạn. Ngày 17/3, Tưởng Giới Thạch đã phái Bộ trưởng Quốc phòng là Bạch Tông Hy tới Đài Loan với tuyên bố tổ chức lại bộ máy chính quyền tại Đài Loan, cho phép những nhân sỹ địa phương có thể tham gia vào bộ máy này.

Đồng thời, Tưởng Giới Thạch cũng tuyên bố, những người tham gia bạo loạn ngày 28/2, ngoại trừ những người “Cộng sản xúi bẩy bạo động” thì đều được miễn truy cứu tội trạng. Tới tháng 5 năm đó, Tưởng Giới Thạch điều Ngụy Đạo Minh, một “quan văn”, một nhà ngoại giao tới Đài Loan làm chủ tịch, tiếp tục quán triệt chính sách “mềm mỏng” tại đây.

Bước sang năm 1948, khi phần thắng lợi của cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng bắt đầu nghiêng về phía Đảng Cộng sản, Tưởng Giới Thạch bắt đầu chú ý nhiều hơn tới Đài Loan.

Ngày 3/1, nhân ngày đầu năm mới, Tưởng Giới Thạch cho mời chủ tịch tỉnh Đài Loan Ngụy Đạo Minh đến để bàn về vấn đề tài chính và kinh tế của tỉnh này.

Tới ngày 14/6 tính toán tới thế cục của cuộc nội chiến, Tưởng Giới Thạch cho rằng, trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, thì khu vực Tây Bắc và Tây Nam Trung Quốc trở thành căn cứ địa.

Tuy nhiên, giờ đây là thời đại của “thổ phỉ” và “chiến tranh quốc tế”, do vậy thành lũy trung tâm phải là Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến và Đài Loan.

Trong nhật ký của mình, Tưởng Giới Thạch cho rằng, nên chuẩn bị một kế hoạch chu toàn tại những vùng trọng địa này để “đề phòng trường hợp khẩn cấp”. Những gì ghi chép trong nhật ký của Tưởng Giới Thạch ngày hôm đó cho thấy, sau những thất bại quân sự trên chiến trường Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Trung, đã buộc Tưởng Giới Thạch phải lên kế hoạch xây dựng những căn cứ chống lại quân đội Cộng sản tại khu vực ven biển Đông Nam.

Ngày 24/11, khi ngồi bàn chuyện với con trai của mình là Tưởng Kinh Quốc, Tưởng Giới Thạch từng nói rằng, ông ta thực sự cảm thấy những thuộc hạ của mình trong cả ba giới, đảng, chính phủ và quân đội đều là những kẻ tự mãn, vô năng, hủ bại, không có thuốc chữa.

Vì vậy, muốn “phục hưng dân tộc, xây dựng lại lực lượng” thì buộc phải bỏ những cơ sở hiện tại, thu hẹp phạm vi và chọn một nơi hoàn toàn “trong sạch” để cải tạo lại toàn bộ.

Cuộc trò chuyện giữa hai cha con họ Tưởng lần đó chứng tỏ Tưởng Giới Thạch đã hoàn toàn cảm thấy thất vọng về tổ chức đảng, chính quyền lẫn quân đội của mình. Còn cái gọi là “thu nhỏ phạm vi” hay một nơi trong sạch mà Tưởng nhắc tới chính là mảnh đất Đài Loan.

Từ thời điểm này, Tưởng Giới Thạch bắt đầu ngấm ngầm chuyển thực lực của mình tới Đài Loan. Ngày 24/11/1948, Tưởng Giới Thạch đã chuyển bộ tài chính vốn đóng tại Hàm Dương, Hồ Nam về Đài Loan. Tiếp đó, từ ngày 9/12, Tưởng ra lệnh cho xây dựng các cứ điểm quan trọng như Kim Môn, Mã Tổ. Tất cả đều nhằm tăng cường sức mạnh quân sự cho Đài Loan. Đồng thời với việc tăng cường sức mạnh quân sự, Tưởng Giới Thạch cũng có những thay đổi lớn trong đội ngũ đảng và chính quyền tại đây.

Ngày 25/12/1948, Tưởng Giới Thạch dự định điều một thuộc hạ tin cẩn là Ông Văn Hạo làm chủ tịch tỉnh Đài Loan còn con trai của Tưởng là Tưởng Kinh Quốc được ông ta cử làm bí thư đảng bộ tỉnh Đài Loan. Tuy nhiên, cả Kinh Quốc lẫn Văn Hạo đều là “quan văn” dường như không được lý tưởng lắm, vì vậy, sau vài ngày suy nghĩ, cuối cùng Tưởng Giới Thạch quyết định cử Trần Thành khi đó đang dưỡng bệnh tại Đài Loan làm chủ tịch tỉnh này. Tới ngày 29/12, Tưởng quyết định gửi thông báo này cho Ngụy Đạo Minh và Trần Thành, nói Thành phải nhanh chóng chuẩn bị việc nhậm chức.

Một việc quan trọng khác Tưởng phải làm khi biến Đài Loan thành căn cứ địa chống lại Đảng Cộng sản là chuẩn bị về mặt kinh tế. Vì vậy ngay từ tháng 11/1948, Tưởng đã ra một chỉ thị có tên là “Đại sự dự định biểu” (Những việc cần chuẩn bị cho nghiệp lớn), trong đó, điều 15 chính là xử lý vấn đề cất trữ tài vật cho “trung ương”.

Thực hiện chỉ thị này, các loại tài vật được phân chia bí mật chuyển tới Đài Loan. Có người tính toán rằng, số lượng vàng bạc và ngoại tệ mà Quốc dân đảng vận chuyển sang Đài Loan có giá trị tương đương với 8 triệu lượng vàng. Ngoài ra, Trưởng Giới Thạch cũng tìm cách đưa những người ủng hộ mình chuyển tới Đài Loan để “tính kế lâu dài”.

Ngày 10/12, Tưởng Giới Thạch viết một bức thư gửi cho Ngô Trĩ Huy, người trước nay vẫn ủng hộ nhiệt tình cho Tưởng, đề nghị ông ta tới Đài Loan nghỉ ngơi. Năm sau đó, vào 5/7/1949, trước khi cuộc nội chiến kết thúc chỉ vài tháng, Tưởng cử con trai là Tưởng Kinh Quốc tới Thượng Hải gặp Nhan Huệ Khánh, động viên ông ta di cư tới Đài Loan, nói chính phủ sẽ chuẩn bị vé máy bay và nhà ở cho ông ta. Không ngờ, vị “nguyên lão” này không những không đi, còn quay lại khuyên Tưởng Kinh Quốc rằng không nên chống lại Đảng Cộng sản, cũng không nên căm thù đảng Cộng sản. Biết chuyện, Tưởng Giới Thạch chỉ còn biết ngậm ngùi nghĩ rằng mình không còn cơ hội nào để lưu lại lục địa được nữa.

Từ ngày 12/9/1948, quân đội dã chiến Đông Bắc do Lâm Bưu chỉ huy liên tục tấn công quân của Quốc dân Đảng ở Liêu Ninh, Thẩm Dương và Trường Xuân, trong vòng 52 ngày, đã tiêu diệt 470 nghìn quân Quốc dân Đảng. Chiến dịch Liêu Ninh kết thúc vào ngày 11/2 thì ngay lập tức quân dã chiến Đông Bắc đưa quân nhập quan, bao vây quân của Phó Tác Nghi đang trấn giữ Hoa Bắc tại Trương Gia Khẩu, Tân Bảo An, Bắc Bình, Thiên Tân, Đường Cô. Tất cả đều cho thấy, cuộc chiến đã đến hồi tàn.

Ngày 24/12, tướng Bạch Tông Hy đánh điện từ Hán Khẩu cho Trương Quần và Trương Trị ở Nam Kinh, nhờ họ chuyển lời với Tưởng Giới Thạch rằng, sỹ khí, lòng người cho tới khí tài, vật lực đều không đủ để chiến đấu nữa, đề nghị Tưởng ra lệnh đình chiến giảng hòa với quân Đảng Cộng sản. Đến ngày 30, Bạch Tông Hy gửi một bức điện nữa, nói, “thời gian đã đến lúc cấp bách, nếu chậm trễ sẽ bỏ lỡ cơ hội”, yêu cầu Tưởng phải “nhanh chóng đưa ra quyết định”. Thậm chí, chủ tịch tỉnh Hà Nam khi đó là Trương Chẩn đã gọi điện cho Tưởng, khẩn cầu ông ta “về hưu”.

Do sự bức ép cả bên trong lẫn bên ngoài, ngày 21/1/1949, Tưởng Giới Thạch ra tuyên bố từ chức, nhường “quyền tổng thống” lại cho Lý Tông Nhân. Vào thời điểm này, Tưởng Giới Thạch càng không thể không nghĩ tới việc xây dựng và di chuyển tới Đài Loan. Đầu năm 1949, trong kế hoạch “đại sự” của mình, Tưởng đã dự định đến tháng 7 sẽ hoàn tất hệ thống phòng thủ cũng như công việc chuẩn bị cho Đài Loan trở thành căn cứ địa mới cho Quốc dân Đảng. Kế hoạch này cho thấy, từ đầu năm 1949, “trọng tâm” công việc của Tưởng Giới Thạch đã là Đài Loan chứ không còn là chiến trường đại lục nữa.

Trong kế hoạch của Tưởng Giới Thạch thì không chỉ có đảng bộ trung ương của Quốc dân Đảng sẽ chạy ra Đài Loan mà toàn bộ cơ cấu chính phủ cũng sẽ di cư đến hòn đảo này. Ngày 18/3, Tưởng bắt đầu nghiên cứu cách để chuyển toàn bộ cơ cấu chính phủ Quốc dân Đảng tới Đài Loan.

Ngày 8/4, trong các đầu mục công việc chuẩn bị cho tuần đó của mình, việc số 9 là chuẩn bị cho sự thay đổi tiền ở Quảng Đông và Đài Loan. Việc số 10 là phương thức thiết lập chính phủ Đài Loan.

Ngày 5/7, những điều ghi trong nhật ký của Tưởng Giới Thạch chứng tỏ, Tưởng muốn xây dựng một tỉnh “kiểu mẫu về thực hành chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn” ở Đài Loan. Tuy nhiên nhiên, chỉ 6 ngày sau đó, Tưởng bắt đầu mở rộng phạm vi, quyết định lấy Đài Loan và khu vực Định Hải của Chiết Giang (đảo Châu Sơn) làm điểm bắt đầu. Tới ngày 18/4/1949, Tưởng Giới Thạch bắt đầu tính toán chi phí quân đội và chính phủ tương lai ở Đài Loan với hy vọng soạn thảo một phương án 3 năm đầu thật cụ thể cho cuộc rút chạy của mình.

Vào ngày 25/5, Tưởng Giới Thạch từ Mã Công bay tới Cao Hùng, Đài Loan. Lúc bấy giờ, Lý Tông Nhân đang giữ chức tổng thống, về mặt hành chính, Tưởng Giới Thạch không có chức vụ gì. Tuy nhiên, Tưởng vẫn lấy danh nghĩa là tổng tài Quốc dân đảng để khống chế và chỉ huy tất cả. Ngày 4/6 Tưởng ra lệnh thành lập Ủy ban chỉ huy quân chính Đông nam do mình làm chủ tịch, đồng thời gọi điện cho Hồ Thích, khuyên Hồ nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao.

Tổng tư lệnh Không quân khi đó là Châu Chí Nhu đã gửi công hàm cho Tưởng Kinh Quốc, bày tỏ sự bất mãn đối với việc “tổng tài” vượt quyền của chỉ huy không quân. Tưởng Giới Thạch xem bức công hàm xong, nói rằng bản thân mình là “lãnh tụ cách mạng”, địa vị chẳng liên quan gì tới chức tổng thống, thậm chí không có danh nghĩa tổng thống thì có thể thoát khỏi những hạn chế về mặt pháp luật.

Đến ngày 12/6, Tưởng một lần nữa khẳng định rằng, mình sẽ không bao giờ rời bỏ quyền lực và trách nhiệm của một vị “lãnh tụ cách mạng”. Bất kể là với quân đội hay chính phủ tất cả do trách nhiệm của ông ta chỉ đạo và giám sát, bất cứ người nào cũng không được phép chống đối.

Trong “Tuyên bố Cairo” mà Tưởng Giới Thạch ký với Mỹ và Anh, sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Nhật thì Đài Loan sẽ được trả về cho Trung Quốc. Tuy nhiên, do lực lượng Đảng Cộng sản liên tiếp giành được thắng lợi tại đại lục đã khiến cho một bộ phận chính khách Mỹ lo lắng rằng Đài Loan khó có thể được giữ vững. Và nếu như nó bị rơi vào tầm ảnh hưởng của người Nga thì phòng tuyến hải đảo ở Thái Bình Dương sẽ bị hổng một lỗ lớn. Vì vậy, Mỹ dự định sẽ trực tiếp lộ diện để tiếp quản Đài Loan.

Trong khi đó, người Anh cũng muốn chiếm lấy Đài Loan để tăng cường cho sự thống trị của mình ở Hồng Kông. Tới ngày 15/6, Tưởng Giới Thạch nhận được hai bức thư của Tống Mỹ Linh từ Mỹ gửi về. Trong thư, Tống Mỹ Linh lo lắng rằng, người Mỹ sẽ dùng vũ lực để chiếm Đài Loan và thừa nhận sự tồn tại của đảng Cộng sản.

Thông tin này khiến Tưởng Giới Thạch cảm thấy cực kỳ lo lắng. Ngày 18, Tưởng Giới Thạch tuyên bố sẽ tử thủ Đài Loan chứ nhất định không trả về cho Đồng minh. Đến ngày 20, nhận được điện của Châu Thế Minh trưởng đoàn Quốc dân Đảng đang tham gia đàm phán ở Nhật Bản nói rằng, quân Đồng minh hoặc Liên Hợp Quốc sẽ tạm thời tiếp quản Đài Loan. Ngay lập tức, Tưởng gọi điện lại cho Châu lệnh cho ông ta lập tức bàn với tướng Macarthur, khẳng định rằng, nó không phù hợp với những điều đã được ký trong “Tuyên bố Cairo” và rằng, Quốc dân Đảng không thể chấp nhận điều này.

Biết rằng những tuyên bố đó chắc chắn sẽ không đạt được bao nhiêu hiệu quả, Tưởng quyết định gấp rút hoàn thành việc biến Đài Loan thành căn cứ địa mới, trước khi tình hình có thể xấu hơn. Ngày 1/7, Tưởng lập văn phòng Tổng tài tại Đài Bắc, tiếp đó thành lập Ủy ban kế hoạch do Tưởng làm chu tịch, các ủy viên bao gồm Vương Thế Kiệt, Du Đại Duy, Trương Đạo Phan,…

Dưới ủy ban này, Tưởng cho thành lập 6 cơ quan gọi là các tổ, gồm: Đảng vụ, Chính trị, Kinh tế tài chính, Quân sự, Ngoại giao, Tuyên truyền văn hóa. Con trai của Tưởng là Tưởng Kinh Quốc làm phó tổ trưởng tổ Đảng vụ đồng thời tham gia công việc của hai tổ chính trị và quân sự. Tưởng Giới Thạch rất coi trọng việc thành lập văn phòng tổng tài này. Sau này, Tưởng đánh giá đây là một trong ba việc cực kỳ quan trọng giúp Quốc dân Đảng xây dựng lại lực lượng.

Mặc dù ra sức chuẩn bị cho Đài Loan, tuy nhiên, Tưởng Giới Thạch vẫn muốn dốc sức để bảo vệ khu vực Tây Nam trên đại lục. Và Tưởng chỉ rút chạy ra Đài Loan cho tới khi “Kế hoạch Tây Nam” của mình bị thất bại.

Ngày 14/5, Tưởng xác định căn cứ của Quốc dân Đảng trên đại lục sẽ lấy Trùng Khánh làm trung tâm. Ngày 11/6, Ủy ban thường vụ trung ương Quốc dân đảng tiến cử 12 người thành lập ra cái gọi là “Ủy ban đặc biệt” do Tưởng Giới Thạch và Lý Tông Nhân làm chủ tịch và phó chủ tịch. Tưởng quyết định vào đầu tháng 7 sẽ đến Quảng Châu thành lập Ủy ban đặc biệt đồng thời thị sát Trùng Khánh.

Tới ngày 12/10, chính phủ của Lý Tông Nhân tuyên bố sẽ di chuyển tới Trùng Khánh. Ngày 26/10, Lý Tông Nhân nói với Bí thư của Ủy ban thường vụ đặc biệt trung ương là Hồng Lan Hữu rằng, những vấn đề phải giải quyết trước mắt rất nhiều, hy vọng Tưởng Giới Thạch có thể sớm đến Trùng Khánh để cùng bàn cách giải quyết. Tới ngày 27, Lý Tông Nhân khi nói chuyện với Hồng cũng nhắc lại rằng thế cục giờ đã vô cùng nguy hiểm, khó có thể phục hồi, chỉ mong Tưởng Giới Thạch có thể đến sớm.

Ngày 29/10, Bạch Tông Hy từ Trùng Khánh cũng gọi điện cho Tưởng, nói Tưởng nhanh chóng đến để “chủ trì đại sự”. Mãi tới ngày 2/11, Tưởng Giới Thạch mới gọi điện lại cho Bạch nói rằng hiện tại mình đang bận chuẩn bị cho việc bảo vệ Đài Loan, tuy nhiên, giữa tháng (tháng 11) sẽ tới Trùng Khánh. Tuy nhiên, các tướng tá của Tưởng ở Trùng Khánh thì như ngồi trên lửa đốt.

Vì vậy, tới ngày 4/11, Bạch Tông Hy hẹn một thân tín của Tưởng là Ngô Trung Tín, nói rằng tình hình đã bước vào giai đoạn nghiêm trọng, phải có sự có mặt của Tưởng để chỉ đạo mọi việc. Trước khi Ngô trở về, Bạch Tông Hy còn tự mình viết một bức thư nhờ Ngô chuyển tận tay cho Tưởng. Bạch Tông Hy thậm chí còn nói với Ngô rằng, với ông ta, Lý Tông Nhân chỉ là “quyền tổng thống” còn thì vẫn muốn mời Tưởng trở lại ghế Tổng thống.

Lý Tông Nhân cũng cảm thấy rõ cái không khí muốn Tưởng quay trở lại ghế Tổng thống. Không muốn ngồi yên chờ trói, Lý Tông Nhân lấy cớ thị sát, bay tới Côn Minh gặp Lư Hán, người cầm đầu lực lượng đang đóng tại Vân Nam. Lư Hán đề nghị, lấy danh nghĩa tất cả mọi người đánh điện cho Tưởng, đề nghị Tưởng chuyển chính phủ tới Côn Minh. Đợi sau khi Tưởng tới thì bắt ông ta lại rồi “xẻo từng miếng một cho bõ cơn tức”. Lý Tông Nhân phát hiện Lư Hán không ổn, sợ ông ta cũng bắt luôn cả mình làm “quà” cho quân Cộng sản nên vội vàng rời khỏi Côn Minh.

Tới ngày 11/11, Tưởng Giới Thạch gặp Ngô Trĩ Huy hỏi ý kiến về việc có nên đi Trùng Khánh hay không. Ngô nói rằng, nên đi, tuy nhiên đề nghị tuyệt đối không cho phép Lý Tông Nhân thoái thác trách nhiệm trong chính phủ. Tưởng cho rằng, ý kiến của Ngô Trĩ Huy rất hợp với ý mình. Ngày 14, Tưởng đáp máy bay tới Trùng Khánh. Ngày 18, Tưởng triệu tập thành viên cốt cán của đảng và chính phủ ở Trùng Khánh.

Thực tế, lúc này, trong lòng Tưởng đã biết chắc rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa, tuy nhiên, ông ta vẫn gọi điện cho Bạch Tông Hy nói Bạch đưa Lý Tông Nhân quay trở về Trùng Khánh.

Tuy nhiên, trước đó một ngày, Lý gọi điện cho Diêm Tích Sơn nói rằng bệnh dạ dày của mình lại tái phát, cần phải ở Nam Ninh tĩnh dưỡng vài ngày không thể trở về Trùng Khánh được. Tới ngày 20, Lý Tông Nhân ủy thác cho Bạch Tông Hy tới Trùng Khánh thay mình báo cáo với Tưởng rằng, trưa ngày hôm đó, Lý đã lên máy báy tới Hồng Kông, đồng thời, giao cho Lý Phẩm Tiên mang bức công hàm tới cho Tưởng, nói rằng, dạ dày mình có hiện tượng chảy máu, buộc phải sang Mỹ kiểm tra và làm phẫu thuật.

Nhận được công hàm, Tưởng cho rằng, Lý Tông Nhân thấy nguy nên từ chức, và việc bay sang Hồng Kông, một khu vực thuộc về Anh là sỉ nhục “quốc thể”. Tới ngày 21, Tưởng hẹn gặp Bạch Tông Hy nói rằng, giờ đây không thể “quay trở lại để trông coi mọi việc”. Vì vậy, Tưởng sai Cư Chính, Chu Gia Mã thay mặt trung ương Quốc dân Đảng mang công hàm do chính tay Tưởng viết tới Hồng Kông thăm Lý Tông Nhân đang “dưỡng bệnh” tại đây và khuyên Lý trở về Trùng Khánh.

Ban đầu, Tưởng Giới Thạch cho rằng, quân Cộng sản sẽ từ Thiểm Nam tấn công Xuyên Bắc, vì vậy dồn hết lực lượng về đây. Tuy nhiên, khi thấy quân Tưởng bố trí phòng thủ Xuyên Bắc, quân Cộng sản Trung Quốc đã thực hiện chiến lược đánh đường vòng. Đầu tiên tấn công Quý Châu và đông nam Tứ Xuyên. Ngày 11/5, quân Cộng sản chiếm Quý Dương. Ngày sau đó, chiếm luôn Bành Thủy, cửa ngõ phía đông của Tứ Xuyên. Quân Cộng sản từ các mặt phía nam và phía đông tấn công thẳng về phía Trùng Khánh.

Tưởng Giới Thạch vội vã điều binh đoàn số 15 của La Quảng Văn tới bờ phía nam của Trường Giang để phòng thủ ở Kỳ Giang, đồng thời lệnh cho quân của Hồ Nam Tông rút khỏi Xuyên Bắc chuyển đến tập kết ở khu vực Thành Đô, đồng thời lệnh cho sư đoàn 1 và 2 trong quân của Hồ nhanh chóng về Trùng Khánh. Dự định của Tưởng là sẽ tổ chức cuộc chiến chống lại quân Cộng sản ngay tại Trùng Khánh. Tuy nhiên, đến ngày 27, quân Cộng sản chiếm được Kỳ Giang, quân của La Quảng Văn bỏ chạy khiến Trùng Khánh ở vào thế nguy cấp.

Trong thời gian này, Tưởng đã rất nhiều lần có ý định tự sát. Tuy nhiên, Tưởng cho rằng, dù cho khu vực Tây Nam đại lục có bị phá thì vẫn còn Đài Loan. Chỉ cần duy trì được mạng sống thì Quốc dân đảng có thể xây dựng lại. Chính vì vẫn còn điểm níu giữ là Đài Loan nên Tưởng đã từ bỏ ý định tự sát. Ngày 29/11, Tưởng cùng thủ hạ rút chạy về Thành Đô, nơi quân của Hồ Tông Nam đang tập kết. Tại đây, Hồ Tông Nam đã tìm gặp Tưởng và nói rằng, việc di chuyển quân rất khó khăn. Tưởng Giới Thạch đã khích lệ Hồ, nói rằng Hồ nên cố gắng chuyển quân phòng thủ Nội Giang. Theo tính toán của Tưởng, quân của Hồ phải rút về tới Tây Xương.

Tuy nhiên, biết rằng Tây Xương khó có thể giữ được lâu, Tưởng ra lệnh cho Diêm Tích Sơn chuẩn bị việc rút chạy ra Đài Loan. Nhiều người lo sợ Đài Loan sẽ bị Anh và Mỹ dùng vũ lực chiếm. Tuy nhiên, Tưởng khẳng định Anh Mỹ không dám. Hai ngày sau, Tưởng và con trai lên máy bay trở về Đài Loan để lại bọn Hồ Tông Nam một mình đối mặt với quân Cộng sản Trung Quốc.

Ngày 22/12, do quá lo sợ, Hồ Tông Nam đã lên máy bay trốn ra đảo Hải Nam. Tới ngày 28, Hồ Tông Nam bị Tưởng bức ép đã phải quay trở lại Tây Xương tiếp tục điều hành công cuộc “chống Cộng”. Tuy nhiên, tới ngày 27/3, khi quân Cộng sản chiếm được Tây Xương, Hồ Tông Nam một lần nữa lại lên máy bay trốn ra Hải nam. Ngày 13/4, toàn bộ tàn quân Quốc dân Đảng ở khu vực Tây Nam bị tiêu diệt. Giấc mộng căn cứ địa khu vực Tây Nam của Tưởng Giới Thạch hoàn toàn tan vỡ. Tưởng chỉ còn một mảnh đất duy nhất có thể cố thủ, đó là Đài Loan.

Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2016/03/20/tai-sao-tuong-gioi-thach-chon-dai-loan/

Author: NGUYỄN HẢI LUÂN

Vì sao quốc dân đảng thất bại

Bản thân là một người đam mê du lịch, cộng thêm niềm mong muốn kết nối các mối quan hệ: giữa Hướng Dẫn Viên Du Lịch với nhau, giữa Hướng Dẫn Viên với các đơn vị lữ hành, giữa các đơn vị lữ hành trong… Xem Thêm >>

Tin tức liên quan

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    AUSTRALIA: HOA VÀ BIỂU TƯỢNG

    Chuyện kể về các loài hoa biểu tượng của nước Úc Nước Úc nổi tiếng với khí hậu ôn hòa, thiên nhiên ưu đãi với hệ sinh vật đa dạng, phong phú. Mỗi Tiểu bang và Vùng lãnh thổ ở Úc đều có quyền tự trị riêng và chọn một thứ hoa riêng làm biểu…

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    INDONESIA: ĐẢO BATAM

    Batam là một đảo và thành phố ở tỉnh Riau của Indonesia, được biết đến với khu tự do thương mại thuộc một phần của tam giác tăng trưởng Sijori, cự ly 20km ngoài khơi bờ nam của Singapore. Đảo có diện tích 715km² (276dặm²) và dân số 949.775 người (thời điểm tháng 6 năm…

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    MALAYSIA: MELACCA

    ĐIỂM THAM QUAN TẠI MELACCA Thành phố Malacca có lịch sử trên 600 năm với kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây; Bảo tàng lịch sử và dân tộc học Stadthuys được xây dựng năm 1360; pháo đài Famosa được người Bồ Đào Nha xây dựng năm 1511; đền Cheng Hoon Teng…

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    FRANCE: MỘTSỐ TÁC PHẨM TRONG BẢO TÀNG LOUVRE

    MỘTSỐ TÁC PHẨM TRONG BẢO TÀNG LOUVRE Mona Lisa Mona Lisa(cũng được gọi là La Giocondahay La Joconde) là một bức chân dungthế kỷ 16 được vẽ bằng sơn dầutrên một tấmgỗ dươngtại Florencebởi Leonardo da Vincitrong Thời phục hưng Italia. Tác phẩm thuộc sở hữu của Chính phủ Phápvà hiện được trưng bày tại…

  • Vì sao quốc dân đảng thất bại

    NZL: ĐOM ĐÓM (NEWZEALAND)

    ĐOMĐÓM Đom đómhaybọ phát sánglà những loài côn trùngcánh cứngnhỏ được gọi chung làhọ Đom đóm(Lampyridae) có khả năng phát quang. Đom đóm là động vật tiêu biểu cho vùngôn đớimặc dù phần lớn các loài sống ở vùngnhiệtvà cận nhiệt đới (khoảng 2000 loài). Chúng là những sinh vật có tập tính hoạt động…

Tên gọi

Các tài liệu chính thức và sử liệu giáo khoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi cuộc chiến là Chiến tranh Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (tiếng Trung: 中国人民解放战争), gọi tắt là Chiến tranh Giải phóng, hoặc Nội chiến Cách mạng lần thứ 3 (tiếng Trung: 第三次国内革命战争). Còn tài liệu tương đương của Trung Hoa Quốc dân đảng và chính quyền Trung Hoa Dân quốc thì coi đây là cuộc nổi loạn của "phỉ quân" Trung Hoa Cộng sản đảng chống lại Nhà nước và chính phủ trung ương, nên gọi là Kham loạn chiến tranh (tiếng Trung: 戡乱战争) (chiến tranh bình loạn) hoặc Chiến tranh kháng Cộng. Sách báo người Hoa hải ngoại thường gọi là Nội chiến Quốc - Cộng. Cộng đồng quốc tế gọi chung là Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War). Một ít sử gia Đài Loan gom chung thời kỳ này và gọi là "Chiến tranh kháng Nhật - Cộng".

Bối cảnh

Các tập đoàn lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc chính (1925)- các vùng màu hồng

Nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng tại Trung Hoa, sụp đổ năm 1911.[5] Trung Quốc rơi vào vòng kiểm soát của một số lãnh chúa quân phiệt lớn nhỏ, gọi là thời kỳ quân phiệt. Để đánh bại các quân phiệt này, vốn nắm quyền kiểm soát phần lớn miền Hoa Bắc và Hoa Nam, lực lượng phản đế và lực lượng quốc gia thuộc Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến hành tìm kiếm trợ giúp từ nước ngoài. Tuy nhiên các nỗ lực tìm kiếm ủng hộ từ các quốc gia dân chủ phương Tây của Tôn Trung Sơn thất bại, và tới năm 1921 ông quay sang Liên Xô. Liên Xô vì lý do chính trị, theo đuổi chính sách hỗ trợ cả Tôn Trung Sơn lẫn đảng Cộng sản Trung Quốc mới thành lập. Như vậy cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu.

Năm 1923, Tôn Trung Sơn và đại diện Liên Xô là Adolph Joffe ra thông cáo chung tại Thượng Hải, theo đó Liên Xô hứa sẽ trợ giúp để thống nhất Trung Quốc.[6] Bản thông cáo này là lời tuyên bố hợp tác giữa Quốc tế III, Trung Quốc Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc.[6] Thành viên Quốc tế thứ ba là Mikhail Borodin tới Trung Quốc năm 1923 để hỗ trợ cho việc tái tổ chức và củng cố Quốc dân đảng, theo mô hình Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản Trung Quốc liên kết với Quốc dân đảng và thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc lần thứ nhất.[3]

Năm 1923, Tôn Dật Tiên điều Tưởng Giới Thạch, một trong những phụ tá của mình từ thời Đồng minh hội, đến Moskva trong vài tháng để nghiên cứu quân sự và chính trị.[7] Tới năm 1924, Tưởng trở thành hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, và nổi lên với tư cách người kế nhiệm Tôn Dật Tiên lãnh đạo Quốc dân đảng.[7]

Phía Liên Xô cung cấp phần lớn tài liệu nghiên cứu, tổ chức và trang thiết bị, bao gồm đạn dược cho học viện.[7] Liên Xô cũng giúp đào tạo kỹ thuật vận động quần chúng. Với sự trợ giúp này, Tôn Dật Tiên đã có thể gây dựng nên một "đội quân của đảng" trung thành, mà ông định sử dụng để đánh bại quân đội của các lãnh chúa quân phiệt. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng có người trong học viện, nhiều người trở thành giảng viên trong trường, kể cả Chu Ân Lai, với vai trò giảng viên chính trị.[8]

Thành viên đảng Cộng sản cũng được phép gia nhập Quốc dân đảng sau khi xét duyệt.[6] Bản thân đảng Cộng sản khi ấy cũng còn nhỏ yếu, chỉ có 300 thành viên vào năm 1922 và 1.500 thành viên năm 1925,[9] trong khi Quốc dân đảng năm 1923 đã có 50.000 thành viên[9].

Chiến tranh Bắc phạt (1926-1928) và Quốc-Cộng phân liệt

Chỉ vài tháng sau khi Tôn Dật Tiên chết năm 1925, Tưởng Giới Thạch, với vai trò tổng chỉ huy Quân đội cách mạng quốc gia, tiến hành cuộc Bắc phạt.[9] Tuy vậy, tới năm 1926, Quốc dân đảng đã phân hóa thành phái tả và phái hữu.[9] Những người Cộng sản trong hàng ngũ Quốc dân đảng cũng phát triển mạnh. Tới tháng 3 năm 1926, biến cố tàu Trung Sơn xảy ra, Tưởng đã kịp thời phá vỡ âm mưu bắt cóc mình, và áp đặt lệnh cấm thành viên đảng Cộng sản giữ các vị trí lãnh đạo trong Quốc dân đảng.

Quân chính phủ Quốc dân đảng bắt giữ nghi phạm Cộng sản.

Đầu năm 1927, sự tranh chấp Quốc Cộng dẫn tới sự phân liệt trong hàng ngũ cách mạng. Đảng Cộng sản và nhóm cánh tả của Quốc dân đảng quyết định chuyển thủ đô chính phủ Quốc dân từ Quảng Châu về Vũ Hán, nơi đảng Cộng sản có ảnh hưởng mạnh.[9] Nhưng Tưởng Giới Thạch và viên tướng-quân phiệt Lý Tông Nhân, người đánh bại lãnh chúa quân phiệt Tôn Truyền Phương, lại muốn chuyển về Giang Tây. Phe cánh tả bác bỏ đề xuất của Tưởng Giới Thạch, còn Tưởng lên án phe cánh tả "phản bội Chủ nghĩa Tam dân" của Tôn Dật Tiên khi nhận mệnh lệnh từ Quốc tế Cộng sản. Theo Mao Trạch Đông, sự khoan dung của Tưởng Giới Thạch đối với những người cộng sản trong Quốc dân đảng giảm đi khi quyền lực của Tưởng Giới Thạch gia tăng.[10]

Ngày 7 tháng 4, Tưởng và một số lãnh đạo Quốc dân Đảng họp, và đưa ra quan điểm các hoạt động của Đảng Cộng sản làm rối loạn xã hội và kinh tế, và cần phải ngưng lại để cuộc cách mạng quốc gia có thể tiếp tục tiến triển. Kết quả của cuộc họp này là ngày 12 tháng 4, Tưởng Giới Thạch quay ra xử lý những người Cộng sản tại Thượng Hải. Quốc dân Đảng tiến hành thanh trừng khỏi hàng ngũ của mình các thành viên cánh tả, và hàng trăm đảng viên Cộng sản bị bắt giữ hay bị hành quyết.[11]

Công nhân, người lao động phản đối mạnh mẽ chủ trương của Tưởng. Nhưng Tưởng Giới Thạch không dám sử dụng binh sĩ đàn áp công nhân, sợ danh không thuận sẽ xảy ra binh biến. Bởi, binh lính luôn coi công nhân là bè bạn cùng một liên minh. Nhiều chỉ huy các đơn vị đã tỏ ra ngần ngừ, từ chối nhận lệnh đàn áp. Do đó, Tưởng Giới Thạch đã triệu tập Đỗ Nguyệt Sanh, Hoàng Kim Vinh, Trương Tiêu Lâm - 3 đầu lĩnh của Thanh Bang hội đến thành phố cấp huyện Cửu Giang họp kín, bàn mưu "mượn đao giết người". Tưởng nhờ ba ông trùm đưa quân bang hội đi đàn áp công nhân, người biểu tình thay cho quân đội. Lấy danh nghĩa công hội, Đỗ Nguyệt Sênh đã tuyển mộ và vũ trang cho gần 3.000 tên vô lại của Thanh Bang. Đạo quân này được Đỗ Nguyệt Sanh khoác cho những cái tên mỹ miều và ôn hòa là "Hiệp hội Công nhân Thượng Hải" và "Hiệp hội đồng tiến Trung Hoa". Đêm 11/4/1927, mượn danh nghĩa hai tổ chức này, Đỗ Nguyệt Sanh đã mời ủy viên trưởng Tổng công hội Thượng Hải Uông Thọ Hòa đến tư dinh dự tiệc bàn việc hợp tác. Giữa buổi tiệc, Đỗ viện cớ ra ngoài. Thích khách do Đỗ bố trí sẵn thừa cơ đã lẻn vào hạ sát Uông Thọ Hòa ngay tại bàn tiệc. Đúng 1 giờ sáng ngày 12/4/1927, 3.000 tên Thanh Bang, mỗi tên được Đỗ phát cho 10 đồng bạc trắng, mặc đồng phục quần short, áo xanh cộc tay, trên vai có khắc dấu hiệu chữ "công" tỏa đi các nơi đồng loạt tập kích các đội tự vệ của công nhân. Trời vừa sáng, lấy cớ "công nhân xung đột nội bộ, gây mất trị an", Tưởng Giới Thạch đã xua quân đội đi giải giới vũ khí cả hai bên. Thực tế, quân đội được lệnh lập hàng rào ngăn hai bên tấn công và chống trả nhau, tách hai phe giang hồ và công nhân, sau đó lập hành lang bảo vệ cho bọn Thanh Bang rút lui an toàn. Kết quả là 2.700 công nhân vũ trang bị tước vũ khí, 120 người chết, 180 người khác bị thương ngay sau đêm đụng độ đầu tiên. Đến khi trời tối, kịch bản cũ lại lặp lại… Hơn 3 tháng sau đó, Thượng Hải luôn náo loạn bởi hàng trăm vụ tập kích khác của Thanh Bang nhằm tiêu diệt lực lượng công nhân tự vệ. Phong trào công nhân Thượng Hải bị dìm vào bể máu và suy yếu, không còn đủ sức ngáng trở hay phản đối các chủ trương của Tưởng.[12]

Sự kiện này được gọi tên là "chính biến Thượng Hải", "biến cố ngày 12 tháng 4", hay là "cuộc thảm sát Thượng Hải".[13] Cuộc thảm sát đào sâu thêm hố chia cắt Tưởng và phe Vũ Hán của Uông Tinh Vệ. Đảng Cộng sản định tổ chức giành chính quyền tại một số thành phố lớn như Nam Dương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu. Đảng viên Cộng sản, cùng với nông dân và thợ mỏ tại Hồ Nam dưới sự lãnh đạo của Mao[14] tiến hành một cuộc nổi dậy, nhưng thất bại.[14] Tại Trung Quốc khi đó tồn tại ba thủ đô, thủ đô được quốc tế công nhận tại Bắc Kinh,[15] Phe Cộng sản và phe cánh tả thuộc Quốc dân đảng đóng thủ đô tại Vũ Hán,[16] và phe cánh hữu Quốc dân đảng đóng đô tại Nam Kinh, thành phố này sẽ tiếp tục đóng vai trò thủ đô của Quốc dân đảng trong suốt một thập kỷ kế tiếp.[15]

Đảng Cộng sản Trung Quốc nay bị trục xuất khỏi Vũ Hán bởi đồng minh của mình là phe cánh tả Quốc dân đảng, nhóm này đến lượt mình lại bị Tưởng Giới Thạch lật đổ. Quốc dân đảng tiếp đó tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh bắc phạt diệt lực lượng quân phiệt và đánh chiếm được Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1928.[17] Tiếp đó, phần lớn miền đông Trung Quốc dần rơi vào tay chính quyền Nam Kinh, và chính quyền Quốc dân đảng tại Nam Kinh nhận được sự thừa nhận từ cộng đồng quốc tế như chính phủ hợp hiến duy nhất tại Trung Quốc. Quốc dân đảng tuyên bố nguyên tắc ba giai đoạn cách mạng, phù hợp với cương lĩnh của Tôn Dật Tiên: thống nhất vũ trang, bồi dưỡng chính trị, và dân chủ theo hiến pháp.[18]

Diễn biến

Nội chiến lần thứ nhất

Giai đoạn 1927-1937

Lực lượng Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh phá vây về phía bắc

Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đứng đầu phái hữu trong Quốc dân đảng Trung Quốc đã tiến hành chính biến Thượng Hải, tàn sát và thanh trừng những người cộng sản và thân cộng, mở đầu cho các hoạt động chống Cộng công khai tại nhiều địa phương khác. Ngày 19 tháng 4 năm 1927, chính phủ do Tưởng đứng đầu được thành lập tại Nam Kinh. Đến tháng 7 năm 1927, Tưởng đã nắm được toàn bộ chính quyền, chiến tranh Bắc phạt chấm dứt.

Trước tình hình đó, những người Cộng sản Trung Quốc rút lui về vùng nông thôn hoạt động bí mật, chuẩn bị cho nổi dậy, bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa Nam Xương ngày 1 tháng 8 năm 1927 và một số thành phố khác tại Hoa nam.[19] Họ hợp sức với dư đảng của các lực lượng khởi nghĩa nông dân, thiết lập quyền kiểm soát tại nhiều nơi ở miền nam Trung Quốc.[19] Tại Quảng Châu, họ giành được chính quyền trong vòng 3 ngày, và thiết lập Xô-viết Quảng Châu.[19]

Lực lượng Quốc dân đảng tiến hành đàn áp cuộc nổi dậy,[19] bắt đầu cuộc nội chiến kéo dài 10 năm tại Trung Quốc, cho tới khi Tưởng bị ép trong cuộc binh biến Tây An phải thành lập mặt trận thống nhất Trung Quốc chống lại lực lượng xâm lược Nhật Bản. Sau khi các cuộc khởi nghĩa này thất bại, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương lấy nông thôn làm căn cứ hoạt động, phát động nông dân nổi dậy, thành lập chính quyền Xô viết, Hồng quân công nông, tiến hành cải cách ruộng đất

Năm 1930, trong nội bộ Quốc dân đảng nổ ra cuộc Chiến tranh Trung Nguyên, do Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, và Uông Tinh Vệ tiến hành vì bất mãn với Tưởng. Cuộc xung đột này sau này đã hướng Tưởng tới mục tiêu nhổ tận gốc các căn cứ của Đảng Cộng sản bằng các cuộc vây hãm truy quét. Tổng cộng Quốc dân đảng tiến hành 5 chiến dịch[20], trong đó chiến dịch thứ nhất và thứ hai thất bại, chiến dịch thứ ba phải bãi bỏ do biến cố Lư Câu Kiều. Chiến dịch thứ tư (1932–1933) thu được một số kết quả ban đầu, nhưng lực lượng của Tưởng cũng bị tổn thất nặng khi họ định đánh thọc sâu vào trung tâm căn cứ của Mao gọi là Trung Hoa Xô-viết Cộng hòa quốc. Trong các chiến dịch này, quân Quốc dân đảng thường nhanh chóng đánh thọc sâu vào các khu vực do Đảng Cộng sản Trung Hoa kiểm soát, nhưng cũng dễ dàng bị lọt thỏm trong miền thôn quê rộng lớn, và không đủ lực để củng cố các vùng mà họ chiếm được.

Cuối năm 1933, Tưởng tiến hành chiến dịch vây quét lần thứ năm, lần này bao vây một cách có hệ thống khu xô-viết Giang Tây với hệ thống đồn bốt và lô cốt.[21] Không như những chiến dịch trước, trong đó họ chỉ sử dụng một mũi thọc sâu duy nhất, lần này quân Quốc dân đảng nhẫn nại xây dựng hệ thống đồn bốt bao vây khu vực căn cứ của Đảng Cộng sản, cắt đứt đường tiếp tế và lương thực tới các căn cứ này.[21]

Một lãnh tụ Đảng Cộng sản diễn thuyết trước những người còn sống sót của cuộc Trường chinh

Tháng 10 năm 1934, Hồng quân công nông do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo phải tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh, phá vòng vây của quân đội Quốc dân đảng, rút khỏi căn cứ địa, tiến lên phía bắc. Hồng quân Trung Hoa chọn hướng rút lui xuyên qua các đồn bốt được canh giữ bởi lực lượng lãnh chúa quân phiệt liên minh với Tưởng, chứ không qua hướng được bảo vệ bởi quân chính phủ Quốc dân để rút khỏi Giang Tây. Lực lượng quân phiệt không hào hứng chặn đánh Hồng quân vì sợ hao mòn lực lượng của họ, và không nhiệt tình truy kích. Thêm vào đó, quân Quốc dân đảng còn đang vướng bao vây và tiêu diệt Hồng quân do Trương Quốc Đào chỉ huy, là cánh quân lớn hơn nhiều lực lượng của Mao. Cuộc Trường chinh vĩ đại của Hồng quân kéo dài suốt một năm, theo Mao ước tính, vượt qua chừng 12.500km (25.000 dặm Trung Quốc), và nổi danh với tên gọi cuộc Vạn lý trường chinh.[22] Cuộc Trường chinh chấm dứt khi lực lượng chính của Mao đến được Thiểm Tây.

Cánh quân của Trương Quốc Đào đi theo một hướng khác về phía tây bắc, và bị lực lượng của Tưởng cũng như của các lãnh chúa quân phiệt người Hồi giáo, là đảng họ Mã, tiêu diệt gần như hoàn toàn. Dọc đường, Hồng quân Trung Quốc tịch thu tài sản và vũ khí của các lãnh chúa và địa chủ địa phương, đồng thời tuyển mộ nông dân và bần nông vào hàng ngũ của mình, củng cố mối liên hệ với quần chúng nhân dân. Trong tổng số khoảng 90.000-100.000 người tham gia cuộc Trường chinh bắt đầu từ vùng căn cứ Cộng hòa Xô-viết Trung Hoa, chỉ có chừng 7.000-8.000 đến được Thiểm Tây.[23] Lực lượng tàn quân của Trương Quốc Đào cuối cùng cũng tới được Thiểm Tây nhập vào với lực lượng của Mao; nhưng với lực lượng gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, Trương Quốc Đào dù là một trong các lãnh tụ sáng lập ra đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng không thể tranh chấp được quyền lãnh đạo với Mao. Về cơ bản, cuộc rút lui này khiến Mao trở thành lãnh tụ duy nhất của đảng Cộng sản Trung Quốc, được chính thức xác nhận tại Hội nghị Tuân Nghĩa (Quý Châu) tháng 1 năm 1935.

Tháng 7 năm 1937, giới quân phiệt Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh quy mô nhằm thôn tính toàn bộ Trung Quốc. Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng đình chỉ nội chiến, hợp tác thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật. Giai đoạn 1 của cuộc nội chiến chấm dứt.

Chiến tranh Trung Nhật (1937–1945)

Lực lượng Tưởng Giới Thạch bị cuộc chiến tranh Trung-Nhật làm suy yếu nặng nề

Trong khi Đế quốc Nhật tiến hành xâm chiếm và biến Mãn Châu quốc làm thuộc địa, thì Tưởng Giới Thạch vẫn không chịu liên kết với Đảng Cộng sản để chống Nhật, vì coi Cộng sản là mối nguy còn lớn hơn. Ngày 12 tháng 12 năm 1936, một số sĩ quan Quốc dân đảng, đứng đầu là Trương Học Lương tiến hành binh biến, bắt giữ Tưởng và buộc ông phải cam kết hòa hoãn với Đảng Cộng sản. Sự kiện này được biết đến với tên gọi Sự biến Tây An.[24] Cả hai phía Quốc Cộng sau đó ngưng các hoạt động quân sự để thành lập Mặt trận thống nhất Trung Quốc đệ Nhị, tập trung vào chống kẻ thù chung là đế quốc Nhật.[24] Năm 1937, Nhật Bản cho máy bay ném bom các thành phố tại Trung Quốc, đồng thời tung các đạo quân tinh nhuệ đánh chiếm miền bắc và miền duyên hải Trung Hoa.

Việc Quốc dân-Cộng sản liên minh chỉ tồn tại trên danh nghĩa.[25] Đảng Cộng sản tiến hành chiến tranh du kích chống Nhật, nhưng tránh giao chiến lớn do lực lượng của họ quá ít ỏi, đồng thời họ cũng đánh lui các cuộc tấn công mình của Quốc dân đảng. Sự hợp tác Quốc-Cộng trong thời gian này chỉ ở mức tối thiểu.[25] Ngay trong Mặt trận thống nhất Trung Quốc, cả Quốc dân đảng lẫn đảng Cộng sản đều tìm cách chiếm ưu thế những lãnh thổ không nằm trong tay quân Nhật.[25] Tình hình trở nên xấu đi vào cuối năm 1940, đầu năm 1941 khi Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng có xung đột lớn. Tháng 12 năm 1940, Tưởng Giới Thạch ra yêu sách Tân Tứ quân của Đảng Cộng sản phải rời các tỉnh An Huy và Giang Tô. Do phải chịu sức ép nặng nề, các lãnh đạo Tân Tứ quân phải chấp thuận. Năm 1941 lại xảy ra "sự kiện Tân Tứ quân", hai phía Quốc Cộng xung đột khiến cho vài ngàn quân thuộc Đảng Cộng sản bỏ mạng.[26] Sự kiện này đánh dấu sự chấm dứt mặt trận thống nhất chống Nhật.[26] Nhìn chung, sự thành lập mặt trận có lợi cho phía đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhờ chiến lược quân sự hợp lý, lực lượng của đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng được mở rộng và uy tín trong nhân dân được nâng cao, trong khi phía Quốc dân đảng thì ngược lại. Năm 1944, quân Nhật mở chiến dịch tấn công lớn cuối cùng, chiến dịch Ichi-Go, đánh thiệt hại nặng nề quân Quốc dân đảng.[27]

Nội chiến lần thứ 2

Tương quan lực lượng sau chiến tranh Trung-Nhật

Các khu vực Nhật chiếm đóng trong đệ Nhị thế chiến

Sau chiến tranh Trung-Nhật, tương quan lực lượng vẫn nghiêng nhiều về phía Quốc dân đảng. Quân đội của Quốc dân đảng đông tới 5,7 triệu người, gấp 6 lần quân số của Đảng Cộng sản. Quốc dân đảng kiểm soát hầu hết các thành phố lớn và trung tâm công nghiệp của đất nước, họ cũng được trang bị một lượng lớn vũ khí hiện đại cho Anh, Mỹ cung cấp trong thời kỳ chống Nhật.

Tuy vậy, so với giai đoạn 1931-1937, tình thế đã trở nên thuận lợi hơn cho phía Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lực lượng chủ lực của họ tăng lên 900.000 quân, còn lực lượng dân quân tăng lên 2 triệu người. Vùng kiểm soát của họ nay gồm 19 khu, chiếm tới 1/4 lãnh thổ Trung Quốc và 1/3 dân số - gồm nhiều thành phố và thị trấn quan trọng. Hơn thế nữa, Liên Xô trao lại toàn bố số vũ khí thu được từ quân Nhật cho Đảng Cộng sản. Khi Liên Xô rút đi, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng biết tận dụng thời cơ, tiếp quản vùng Đông Bắc Trung Quốc trước khi quân Quốc dân đảng kéo tới.[28] Tháng 3 năm 1946, dù Tưởng Giới Thạch đã nhiều lần kiến nghị, Hồng quân Liên Xô dưới sự chỉ huy của tướng Malinovsky trì hoãn rút quân khỏi Mãn Châu và ngầm thông báo với Hồng quân Trung Quốc tiến vào tiếp quản vùng này vì Stalin muốn Mao kiểm soát được ít nhất là vùng phía Bắc của Mãn Châu trước khi quân Liên Xô triệt thoái hoàn toàn khỏi đây,[29] dẫn đến cuộc chiến tranh toàn diện nhằm kiểm soát vùng Đông Bắc. Điều kiện này hết sức thuận lợi cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn đến những thay đổi trong nội bộ ban lãnh đạo đảng Cộng sản: phe cứng rắn và chủ trương sử dụng vũ lực dần chiếm ưu thế, áp đảo phe chủ trương hoà hoãn.[28]

Mặc dù tướng Marshall tuyên bố ông không có bằng chứng cho thấy Hồng quân Trung Quốc được Liên Xô hỗ trợ,[30] Hồng quân Trung Quốc vẫn nắm được một lượng lớn vũ khí do quân Nhật bỏ lại, gồm cả vũ khí hạng nặng như xe tăng. Tuy nhiên chỉ đến khi một số lớn binh lính Quốc dân đảng đầu hàng và chạy sang hàng ngũ Cộng sản thì Hồng quân Trung Quốc mới có thể vận hành được số vũ khí này.[31]

Dù yếu thế hơn về mặt vũ khí trang bị, con bài chủ chốt của đảng Cộng sản là chính sách cải cách ruộng đất. Đảng Cộng sản tiếp tục thực hiện chính sách này ở vùng nông thôn, những nông dân cùng khổ và không có ruộng đất thấy rằng nếu họ chiến đấu cho Đảng Cộng sản, họ sẽ giành được ruộng đất từ tay giới địa chủ.[32] Chính sách này khiến cho Đảng Cộng sản Trung Quốc có được sự ủng hộ của giới nông dân và nguồn nhân lực hùng hậu để sử dụng trong chiến đấu cũng như vận tải tiếp tế, dù trước đó có bị tổn thất nặng nề trong các chiến dịch quân sự chống Nhật. Ví dụ, trong chiến dịch Hoài Hải họ đã có thể huy động tới 5.430.000 nông dân phục vụ vận tải, giúp họ chiến đấu chống lại quân chính quy Quốc dân đảng.[33]

Về phía Quốc dân đảng, sau khi chiến tranh kháng Nhật kết thúc, quân đội Tưởng Giới Thạch có trong tay hơn 5,7 triệu quân, đông gấp 6 lần đối phương, thêm vào đó là có nhiều trang bị hiện đại do người Mỹ viện trợ trong Thế chiến. Tưởng Giới Thạch nhanh chóng chuyển quân đến các khu vực mới giải phóng khỏi tay quân Nhật để ngăn chặn Đảng Cộng sản tiếp nhận đầu hàng từ tay quân Nhật.[28] Hoa Kỳ tiến hành không vận, chuyển nhiều đơn vị quân Quốc dân đảng từ miền Trung Nguyên đến miền Đông Bắc (Mãn Châu). Hoa Kỳ cũng hỗ trợ đáng kể cho Quốc dân đảng, với hơn 5 vạn Thủy quân lục chiến được gửi tới để canh giữ các vị trí chiến lược, 10 vạn binh lính Hoa Kỳ được đưa tới Sơn Đông. Hoa Kỳ giúp huấn luyện và trang bị cho hơn nửa triệu quân Quốc dân đảng, và vận chuyển quân Quốc dân đảng tới các vùng giải phóng và bao vây các khu căn cứ của Hồng quân.[28] Hoa Kỳ viện trợ cho Quốc dân đảng số lượng vũ khí thặng dư, trị giá hàng tỷ USD, và cho vay hàng tỷ USD khác để Quốc dân đảng sử dụng mua vũ khí trang thiết bị quân sự.[34] Chỉ trong vòng chưa đầy hai năm sau khi chiến tranh Trung Nhật chấm dứt, Quốc dân đảng đã nhận 4.43 tỷ USD từ Hoa Kỳ, phần lớn trong số đó là viện trợ quân sự.[28]

Với danh nghĩa "tiếp nhận quân Nhật đầu hàng", các nhóm tư bản trong chính quyền Quốc dân đảng chiếm hầu hết các nhà băng, nhà máy, cơ sở thương mại trước kia bị Nhật chiếm.[28] Họ cũng tăng cường binh lực, tích trữ vật liệu chiến tranh, chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới với Đảng Cộng sản. Những hành động chuẩn bị vội vã và khắc nghiệt đó khiến cho đời sống dân chúng trở nên khó khăn, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, tới 37,5% tại Thượng Hải.[28] Nạn lạm phát và giá lương thực thực phẩm tăng vọt. Các cải cách của Quốc dân đảng cũng thất bại bởi nạn tham nhũng, các quan chức Quốc dân đảng thường không quan tâm đến đời sống nhân dân địa phương, và thường ủng hộ giới địa chủ trong việc đánh thuế. Sự khó khăn và bất bình đẳng về kinh tế khiến Quốc dân đảng đánh mất sự ủng hộ của dân chúng. Phần lớn người dân, nhất là ở nông thôn, sẵn sàng ủng hộ Mao Trạch Đông, không ít người đã hỗ trợ lương thực hoặc gia nhập quân đội của Mao Trạch Đông để chống lại Quốc dân đảng.

Năm 1947, Quốc dân đảng ban hành một đạo luật buộc tất cả đàn ông có khả năng chiến đấu trong vùng họ kiểm soát đều cũng phải phục vụ trong quân đội. Các viên sĩ quan tham nhũng thường bán cho lái buôn phần gạo được cung cấp cho đơn vị của mình, gần 1/5 số lính mới đã chết vì đói ngay trong thời gian huấn luyện. Do bị đối xử tồi tệ, gần một nửa số lính mới đã trốn ra khỏi các trại huấn luyện, tinh thần chiến đấu của binh sĩ cũng xuống thấp.

Những yếu tố này khiến Quốc dân đảng dần đần đi đến chỗ thất bại, dù ban đầu họ có ưu thế áp đảo cả về quân số lẫn trang bị.

Giai đoạn 1946-1950

Đàm phán đổ vỡ, hai bên quay lại với chiến tranh tổng lực. Giai đoạn này trong tài liệu Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi là "Chiến tranh giải phóng", còn theo tài liệu của Quốc dân Đảng lại gọi là "chiến tranh chống Cộng". Ngày 20 tháng 7 năm 1946, Tưởng Giới Thạch đứng đầu chính phủ Trung Hoa Dân quốc lại phát động chiến tranh, huy động 113 lữ đoàn với khoảng 1,6 triệu quân đánh vào các căn cứ của Đảng Cộng sản.

Từ tháng 7 năm 1946 đến tháng 6 năm 1947, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện chiến lược dùng nông dân chiêu dụ được nhờ cải cách ruộng đất để phòng ngự thụ động, thu góp vũ trang để lại từ quân Nhật Bản, dựa vào những thành viên đầu hàng được huấn luyện tốt của Quốc dân Đảng để điều khiển, sau đó chuyển sang phản công, đánh chiếm các vùng do Quốc dân đảng kiểm soát. Do biết điểm yếu về số lượng cũng như trang bị của mình, họ tránh mũi nhọn quân Quốc dân đảng, tiến hành tiêu thổ để bảo toàn lực lượng, đồng thời tích cực đánh tiêu hao quân Quốc dân đảng. Chiến thuật này tỏ ra hữu hiệu: sau một năm, cán cân lực lượng trở nên thuận lợi hơn cho Hồng quân Trung Quốc. Tổng cộng họ tiêu diệt 1,12 triệu quân Quốc dân đảng, và phát triển lực lượng của mình lên đến 2 triệu người.[28]

Hồng quân Trung Quốc tiến vào Thanh Hải

Tháng 3 năm 1947, quân Quốc dân đảng giành được một chiến thắng có ý nghĩa tượng trưng khi họ đánh chiếm được thủ đô Diên An của đảng Cộng sản.[35] Nhưng chẳng bao lâu sau đó, Hồng quân Trung Quốc phản công. Ngày 30 tháng 6 năm 1947, Hồng quân vượt sông Hoàng Hà và tiến đánh khu vực Đại Biệt Sơn, tái lập vùng giải phóng Trung Nguyên. Tiếp đó, Hồng quân ở khu vực Đông Bắc, Bắc và Đông Trung Quốc cũng bắt đầu phản công.[28] Sự bạc nhược của quân đội Tưởng Giới Thạch đã lộ ra nhanh chóng, lực lượng của ông ta phải liên tục rút lui, nhiều người lính Quốc dân đảng lợi dụng sự hỗn loạn đã đào ngũ, vứt lại vũ khí cho đối phương.

Tới cuối năm 1948, Hồng quân Trung Quốc đã chiếm được các thành phố lớn ở miền bắc là Thẩm Dương và Trường Xuân cũng như kiểm soát được vùng đông bắc, sau nhiều nỗ lực và thất bại nhằm giành lấy các đô thị, với chiến dịch Liêu-Thẩm (gọi tắt Liêu Ninh-Thẩm Dương).[36] Đạo quân Tân nhất quân, được coi là đạo quân tinh nhuệ nhất của Quốc dân đảng, phải đầu hàng sau khi Hồng quân Trung Hoa tiến hành cuộc bao vây Trường Xuân kéo dài 6 tháng. Trước đó, quân Quốc dân đảng bị bao vây đã tận thu lương thực khiến cho 15 vạn thường dân tại đây chết vì nạn đói.[37] Việc các đơn vị lớn quân Quốc dân đảng bị bắt khiến Hồng quân chiếm được xe tăng, pháo hạng nặng và các khí tài khác cần thiết cho các chiến dịch tấn công phía nam Vạn lý trường thành.

Tới tháng 4 năm 1948, thành phố Lạc Dương thất thủ, khiến quân Quốc dân đảng bị cắt rời khỏi Tây An.[38] Sau một trận kịch chiến, Hồng quân chiếm được Tế Nam và tỉnh Sơn Đông ngày 24 tháng 10 năm 1948. Với chiến dịch Hoài Hải cuối năm 1948, đầu năm 1949, quân Cộng sản chiếm được vùng trung-đông Trung Hoa.[36] Kết quả các chiến dịch này quyết định cục diện cuộc nội chiến.[36] Tiếp đó, Hồng quân Trung Quốc tiến hành chiến dịch Bình Tân, chiếm được miền bắc Trung Quốc sau 64 ngày, kể từ ngày 21 tháng 11 năm 1948, cho tới ngày 31 tháng 1 năm 1949.[39] Trong chiến dịch này, Hồng quân bị tổn thất nặng khi đánh chiếm Trương Gia Khẩu, Thiên Tân cùng với các cảng và đồn quân tại Dagu và Bắc Kinh.[39] Hồng quân Trung Hoa đưa 89 vạn quân từ vùng đông bắc để đánh lại khoảng 60 vạn quân Quốc dân đảng.[38] Chỉ riêng trong trận Trương Gia Khẩu, Hồng quân đã phải chịu tới 4 vạn thương vong, nhưng họ cũng tiêu diệt, làm bị thương và bắt làm tù binh khoảng 52 vạn quân Quốc dân đảng.[39]

Tháng 1 năm 1949, Hồng quân Trung Quốc chiếm được Bắc Kinh, kinh đô biểu tượng của Đế chế Trung Hoa và tổ chức duyệt binh. Một nhà quan sát người Mỹ tại đó nhận ra phần lớn các thiết bị quân sự hạng nặng trong cuộc duyệt binh như xe tăng, xe jeep... là sản phẩm của Mỹ. Đây là những vũ khí mà trước đó Mỹ viện trợ cho quân đội Tưởng Giới Thạch, nhưng khi rút chạy họ đã vứt bỏ lại và Hồng quân Trung Quốc đã tịch thu được.

Sau ba chiến dịch Liêu-Thẩm, Hoài-Hải và Bình-Tân, Hồng quân đã tiêu diệt 144 sư đoàn quân chính quy và 29 sư đoàn không chính quy của Quốc dân đảng, gồm cả 1,54 triệu quân thiện chiến. Đòn đánh này trên thực tế đã bẻ gãy xương sống của quân đội Quốc dân đảng, khiến họ không vực dậy được.[28]

Ngày 21 tháng 4, lực lượng Hồng quân Trung Quốc vượt sông Trường Giang. Ngày 23 tháng 4, họ chiếm Nam Kinh, thủ đô của Quốc dân đảng.[22] Lá cờ đỏ được cắm trên Phủ Tổng thống, tuyên cáo sự thống trị của Quốc dân đảng trong suốt 22 năm đã cáo chung.

Trong phần lớn các trường hợp, vùng nông thôn xung quanh thành thị đã nằm dưới tầm ảnh hưởng của Hồng quân Trung Quốc từ rất lâu trước đó, tạo điều kiện cho họ tiến công một cách dễ dàng. Ngày 14 tháng 5, Dã chiến quân thứ 4 từ một nơi cách Vũ Hán hơn 100km về phía đông cũng đã vượt Trường Giang tiến về chiếm Vũ Hán vào ngày 17. Ngày 12 tháng 5 Quân giải phóng bắt đầu tiến công Thượng Hải. Đến ngày 27, Thượng Hải hoàn toàn giải phóng. Tướng Quốc dân đảng Thương Ân Bá cùng 5 vạn tàn quân tháo chạy, hơn 15 vạn quân Quốc dân đảng bị tiêu diệt, đầu hàng hoặc bị bắt.

Sau ngày 1 tháng 7, Ban chấp hành đảng cộng sản Trung Quốc do Chu Ân Lai đứng đầu, Bành Chân, Nhiếp Vinh Trăn, Lâm Bá Cứ, Lý Duy Hán… làm Phó chủ nhiệm đã đề ra 3 nội dung trong lễ thành lập nước: một là Lễ thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và chính phủ nhân dân Trung ương; hai là, lễ duyệt binh của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc; và ba là, hoạt động diễu hành của quần chúng nhân dân. Ngày 1 tháng 10 năm 1949 là ngày lễ tuyên bố mở ra thời đại mới ở Trung Quốc. 30 vạn người dân đã tập hợp tại Quảng trường Thiên An Môn, mang cờ hoa, đèn rực rỡ đủ màu sắc. 3 giờ chiều, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các lãnh đạo chủ yếu bước lên lễ đài trên lầu thành Thiên An Môn. Mao Trạch Đông nghiêm trang tuyên bố: "Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, chính phủ nhân dân Trung ương thành lập! Từ nay, nhân dân Trung Quốc đã vùng lên!". Trong âm thanh của bài Quốc ca "Nghĩa dũng quân tiến hành khúc", lá cờ đỏ năm sao từ từ kéo lên đỉnh cột cờ, 54 khẩu pháo nhất tề bắn 28 loạt, tuyên cáo sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Quân Giải phóng phát huy thắng lợi, tiếp tục truy quét tàn quân Quốc dân đảng còn tản mác, thống nhất tất cả những vùng lãnh thổ còn lại, đồng thời truy quét các lực lượng thổ phỉ và phản cách mạng khác. Tới cuối năm 1949, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã truy quét gần hết tàn quân Quốc dân đảng ở miền Nam Trung Hoa, chỉ còn Tây Tạng là chưa bị động đến. Chính quyền Quốc dân đảng dần rút khỏi Nam Kinh ngày 23 tháng 4 đến Quảng Châu cho tới 15 tháng 10, rồi Trùng Khánh cho tới 25 tháng 11, và Thành Đô trước khi rút về Đài Loan ngày 10 tháng 12.

Thêm vào đó, Liên Xô cũng hỗ trợ cho cuộc nổi dậy Tân Cương thành lập Cộng hòa Đông Turkestan đệ Nhị, nhằm chống lại Quốc dân đảng, từ 1944-1949, vì Mông Cổ có tranh chấp biên giới với Cộng hòa Trung Hoa. Chính phủ Trung Quốc (của Quốc dân đảng) điều một trung đoàn kỵ binh Hồi giáo Trung Quốc, trung đoàn 14 Tungan, tấn công các vị trí của Mông Cổ và Liên Xô dọc trên biên giới trong biến cố Pei-ta-shan.[40][41]

Thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Quốc dân đảng rút chạy ra Đài Loan

Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, 1949.

Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sung đoo thủ đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Tưởng và khoảng 2 triệu người thuộc phe Quốc dân đảng chạy khỏi Đại lục tới đảo Đài Loan.[42] Tại Đại lục chỉ còn vài ổ kháng cự rời rạc, đáng kể nhất là tại Tứ Xuyên, (cuộc kháng cự này cũng nhanh chóng chấm dứt sau khi Thành Đô thất thủ tháng 12 năm 1949) và ở vùng cực nam Trung Quốc.

Đảng Cộng sản Trung Quốc định đánh chiếm đảo Kim Môn từ tay Quốc dân đảng, nhưng trận Kim Môn diễn ra với thắng lợi thuộc về Quốc dân đảng, chặn đứng đà tiến công của Hồng quân về Đài Loan.[43] Tới tháng 12 năm 1949, Tưởng tuyên bố Đài Bắc, là thủ đô tạm thời, và tiếp tục coi chính quyền của mình là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc.

Dù thất bại trong cuộc đổ bộ lên Kim Môn, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng thành công trong chiến dịch đổ bộ lên chiếm đảo Hải Nam tháng 4 năm 1950, quần đảo Vạn Sơn ngoài khơi Quảng Đông (tháng 5-tháng 8 năm 1950) và đảo Chu San ngoài khơi Chiết Giang (tháng 5 năm 1950),[44] nội chiến Quốc-Cộng coi như chấm dứt.