Yếu tố lãng mạn là gì

Yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn trong sáng tác của khái hưng và nhất linh thuộc nhóm tự lực văn đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [1.23 MB, 126 trang ]

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Hồi Vũ

YẾU TỐ HIỆN THỰC VÀ YẾU TỐ LÃNG MẠN
TRONG SÁNG TÁC CỦA KHÁI HƯNG VÀ NHẤT LINH
THUỘC NHĨM TỰ LỤC VĂN ĐỒN

Chun ngành: Lý luận văn học
Mã số
: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÂM VINH

Thành phố Hồ Chí Minh 2010


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, tập thể thầy cô khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, Phịng Khoa học Cơng nghệ - Sau Đại học đã tận tình giúp đỡ tơi
trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Lâm Vinh, người thầy đã tận tâm, nhiệt
tình, chu đáo trong việc hướng dẫn tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường THPT Chuyên Hoàng Lê Kha
Tây Ninh đã tạo điều kiện, đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ, khích lệ, động viên tơi trong suốt quá
trình học tập.


Xin trân trọng cảm ơn!
Tây Ninh, ngày 30 tháng 10 năm 2010
Người thực hiện luận văn
Trần Hoài Vũ


DẪN NHẬP
I. Lý do chọn đề tài
Trong các cơng trình nghiên cứu về lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 trước
đây, một số nhà nghiên cứu dựa trên sự khác biệt về khuynh hướng nghệ thuật đã phân chia văn học
Việt Nam giai đoạn này với ba xu hướng, tồn tại với ba dòng văn học phát triển song song và xen kẻ
nhau, trong đó, xu hướng lãng mạn chủ nghĩa tiêu biểu với dòng văn học lãng mạn. Trong bản thân
văn học lãng mạn bao gồm thơ Mới lãng mạn và văn xuôi lãng mạn.
Ở đây, từ góc độ lý luận văn học, người viết đề tài này muốn tìm hiểu thêm và nhìn nhận lại:
trong dịng văn xi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 cịn có những yếu tố hiện thực. Bởi vì:
Các cơng trình nghiên cứu trước đây đã gần như xác định văn học lãng mạn 1930-1945 chỉ
đơn thuần là xu hướng lãng mạn.
Theo quan niệm thông thường trước đây, một số nhà nghiên cứu đã quan niệm lãng mạn là
phi hiện thực, xa rời hiện thực xã hội.
Theo tinh thần đổi mới, cách nhìn nhận về xu hướng lãng mạn cũng như dòng văn học lãng
mạn trước đây nên điều chỉnh lại để thấy được sự đóng góp của văn học lãng mạn, cụ thể là văn
xuôi lãng mạn mà tiêu biểu là nhóm Tự lực văn đồn trong việc phản ánh hiện thực xã hội thời kỳ
đó, cần thấy được sự đan xen yếu tố lãng mạn và yếu tố hiện thực trong những sáng tác của Tự lực
văn đoàn.
Với những lí do trên mà người làm đề tài mong muốn khi nghiên cứu, khi đọc hay học văn
xuôi lãng mạn 1930 -1945 sẽ hiểu được một mặt tâm trạng của những người tiểu tư sản, trí thức ở
một nước thuộc địa, mặt khác hiểu thêm được một mảng đời sống hiện thực của các tầng lớp tiểu tư
sản và trung lưu của xã hội đương thời. Tác giả và tác phẩm của Tự lực văn đoàn khá phong phú, đề
tài chỉ chọn khảo sát một số tác phẩm của hai tác giả Khái Hưng và Nhất Linh với tiêu đề: Yếu tố
hiện thực và yếu tố lãng mạn trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh thuộc nhóm Tự lực

văn đồn.
II. Mục đích của đề tài
Đề tài hướng đến đối tượng là những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học,
sinh viên và học sinh có nhu cầu tìm hiểu, tiếp cận văn xi lãng mạn 1930-1945 với những cái nhìn
mới hơn, nhận thức và đánh giá đúng hơn về một số tác giả, tác phẩm thuộc nhóm Tự lực văn đồn.
Đề tài sẽ tổng kết, hệ thống hóa những ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình hơn
nửa thế kỷ qua, trên cơ sở đó giúp tìm hiểu các tác giả, tác phẩm trong văn xuôi lãng mạn, tiếp cận
được nhiều giá trị về xã hội, nhân sinh và văn chương nghệ thuật, qua đó, sẽ hiểu được văn xi
lãng mạn đã đấu tranh địi giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do yêu đương, cho hạnh phúc lứa


đơi, phê phán lễ giáo và đại gia đình phong kiến, đề cao vẻ đẹp của cái tôi cá nhân. Qua đề tài,
chúng ta cũng sẽ tiếp cận những thể loại văn xuôi hiện đại Việt Nam và thứ ngôn ngữ văn chương
bình dị, trong sáng, giàu có và hấp dẫn.
Đồng thời qua một số sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng, có thể gợi lên được đơi điều về
những vấn đề của hiện thực đời sống xã hội, con người và đời sống văn học giai đoạn 1930 1945,
một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng: Đối tượng chính là những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng.
1.1. Xét sáng tác của Nhất Linh có: Nho phong [Viết 1924 1925. Xuất bản 1926], Nắng
thu [Viết 1934, xuất bản 1942], Đoạn tuyệt [đăng báo 1934, xuất bản 1935], Lạnh lùng [đăng báo
1936, xuất bản 1937], Đôi bạn [đăng báo 1938, xuấtbản 1939], Bướm trắng [đăng báo 1939, xuất
bản 1940 -1941] và tham khảo hai cuốn viết chung với Khái Hưng: Gánh hàng hoa [đăng báo
1934, xuất bản 1935] và Đời mưa gió [đăng báo 1934, xuất bản 1935]. Đặc biệt là Dịng sơng
Thanh Thủy [1960, 1961 3 tập] và Xóm cầu mới [1961].
1.2. Xét sáng tác của Khái Hưng có: Hồn bướm mơ tiên [1933], Nửa chừng xuân [1934],
Tiêu Sơn Tráng sĩ [1934], Trống mái [1935], Gia đình [1935], Dọc đường gió bụi [1936], Thoát
ly [1937], Thừa tự [1938], Hạnh [1938], Đẹp [1939], Những ngày vui [1941], Băn khoăn
Thanh Đức [1943], Khúc tiêu ai oán [1946].
1.3. Để hiểu rõ những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng, tơi cịn đọc một số truyện ngắn

và tiểu thuyết khác của hai tác giả này trước và sau 1945, đặc biệt là những sáng tác của Nhất Linh
sau 1945, đồng thời cả những gì người ta viết về cuộc đời của các nhà văn.
Ngoài việc nghiên cứu các sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh, đề tài cịn đối chiếu với
những cơng trình nghiên cứu văn học trước đây bàn về các tác giả, tác phẩm thuộc nhóm Tự lực văn
đồn của dịng văn xi lãng mạn này để làm cơ sở so sánh.
Đặc biệt ở tác giả Nhất Linh có một số sáng tác trước năm 1932 như Nho phong [1926],
Người quay tơ [1927] và một số sáng tác sau năm 1943 như Dịng sơng Thanh Thủy [1960, 1961
3 tập] và Xóm cầu mới [1961], khơng nằm trong giai đoạn Văn học Tự lực văn đồn, nên tơi cũng
khơng xem xét kỹ mà chỉ dùng để so sánh với những sáng tác trong thời gian hoạt động của Tự lực
văn đoàn.
2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài hướng đến là: thông qua việc khảo sát, nghiên cứu một số vấn
đề trong các tác phẩm của Khái Hưng và Nhất Linh, bản thân tơi đi tìm hiểu yếu tố hiện thực và
yếu tố lãng mạn trong các tác phẩm đó.


Trong phạm vi một luận văn, sở dĩ tôi chỉ đi vào một số truyện ngắn cũng như tiểu thuyết và
cũng chỉ giới hạn đối tượng khảo sát ở các tác giả chủ sối: Nhất Linh Khái Hưng vì những lý do
sau đây:
- Trong khuôn khổ một luận văn, khơng có điều kiện khảo sát tồn bộ các tác giả của Tự lực
văn đoàn.
- Hai tác giả này là người đề xướng và là người thực hiện trực tiếp cho tinh thần, tơn chỉ của
Tự lực văn đồn.
- Hai tác giả này có một khuynh hướng thẩm mỹ khá thống nhất với nhau có nhiều nét gần
gũi nhau về tư tưởng và phong cách [Khái Hưng Nhất Linh có nhiều cuốn viết chung như Đời
mưa gió, Gánh hàng hoa].
Đồng thời, trong sự sáng tạo nghệ thuật khơng có một sự phân tách tuyệt đối giữa xu hướng
lãng mạn tiến bộ và xu hướng hiện thực. Trong tiểu thuyết lãng mạn tiến bộ của Khái Hưng và Nhất
Linh có những bức tranh xã hội, những chân dung được miêu tả không thua kém một nhà văn hiện
thực nào. Cho nên đề tài cịn hướng đến tìm hiểu việc đánh dấu sự giao thoa giữa văn học lãng mạn

và văn học hiện thực.
IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài cung cấp một cái nhìn tổng quát về văn xuôi lãng mạn những năm
1932-1945. Nội dung chủ yếu của đề tài là hướng sự quan tâm thiết thực vào việc nghiên cứu và học
một số sáng tác có xu hướng lãng mạn đan xen yếu tố hiện thực của hai tác giả Khái Hưng và Nhất
Linh. Đồng thời thấy được đây là những tác phẩm thể hiện trực tiếp và sâu sắc cái tôi đầy cảm xúc;
đề cập đến những số phận cá nhân và thái độ bất hòa, bất lực trước xã hội; diễn tả những khát vọng,
ước mơ của một bộ phận trí thức có điều kiện tiếp cận tư tưởng và văn hóa phương Tây và chịu ảnh
hưởng ít nhiều của phong trào đấu tranh cách mạng chống thực dân của nhân dân.
Đề tài cịn góp phần cung cấp một số nhận thức, một số cách hiểu mới hơn, đầy đủ hơn về
văn xi lãng mạn trong tình hình xã hội hiện nay, làm tiền đề cho một số bài giảng về tác phẩm
được học trong nhà trường phổ thông. Đồng thời đề tài còn cung cấp một số tài liệu tham khảo mở
rộng về văn xi lãng mạn thời kì 1932-1945, đặc biệt là về hai tác giả Khái Hưng và Nhất Linh
thuộc phái Tự lực văn đoàn.
Qua đề tài, một số sáng tác của nhất Linh và Khái Hưng viết trước 1945 được nghiên cứu
một cách có hệ thống, kết hợp các góc độ: văn học sử, xã hội học, thi pháp học
Ngồi việc tìm hiểu yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn trong các tác phẩm, thì trong quá
trình thực hiện đề tài, tác giả luận văn cố gắng phát hiện thêm:
1. Những tìm tịi sáng tạo của Nhất Linh và Khái Hưng trong quá trình hiện đại hóa thể loại
tiểu thuyết và đặc biệt quan tâm tới tiểu thuyết luận đề [trước chưa được chú ý].


2. Những đóng góp về một số vấn đề trong quan niệm về con người, tình yêu, nghệ thuật tả
cảnh thiên nhiên...
3. Chú ý phân tích thêm các tác phẩm trước đây thường chỉ được nhắc tên hoặc nói lướt qua
[Nho Phong, Nắng thu, trước 1932 và Dịng sơng Thanh Thủy [1960, 1961 3 tập] và Xóm cầu
mới [1961] sau 1945].
Qua đó tơi muốn làm rõ hơn những cống hiến, cả những hạn chế của của nhất Linh và Khái
Hưng cũng như nhìn nhận lại việc phản ánh hiện thực xã hội trong các sáng tác và xác định vị trí
của nhà văn cũng như nhóm Tự lực văn đoàn trong lịch sử văn học Việt Nam.

Trong việc nghiên cứu một số sáng tác của nhất Linh và Khái Hưng trước 1945 cũng giúp ta
thấy được từng bước chuyển biến của quan điểm tư tưởng cùng với nghệ thuật của các nhà văn này.
V. Lịch sử vấn đề
Khi nghiên cứu về các tác phẩm văn xuôi lãng mạn cũng như các tác phẩm, tác giả trong
nhóm Tự lực văn đồn, đã có rất nhiều ý kiến trước đây nhìn nhận, phân tích, phê bình, đánh giá.
Khen có, chê có, đồng ý, tán thành có, phản bác có. Cho nên khi đánh giá hiện tượng văn học
này, chúng ta có những quan điểm lịch sử rõ ràng, đồng thời đặt trào lưu văn học lãng mạn này nói
chung và nhóm Tự lực văn đồn nói riêng vào trong một giai đoạn lịch sử nhất định, có cơ sở lịch
sử xã hội, văn hóa riêng. Đồng thời tìm hiểu những đặc điểm chung của chủ nghĩa lãng mạn qua
thái độ của nhà văn đối với thực tại, qua việc xây dựng nhân vật, qua những phương thức biểu hiện.
Từ năm 1945 đến nay, việc đánh giá Tự lực văn đoàn cũng như phê bình những sáng tác của
Nhất Linh cũng như của Khái Hưng có nhiều diễn biến phức tạp. Trong từng thời kỳ có những ý
kiến khác nhau. Ở phạm vi luận văn này, tôi chỉ điểm lại diễn biến đánh giá trong hơn nửa thế kỷ
qua về những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng viết trước 1945.
Tôi tạm thời chia q trình đánh giá đó như sau: Những ý kiến trước năm 1945; Từ sau năm
1945 đến 1986; Từ năm 1986 đến nay.
1. Trước năm 1945
Nhất Linh và Khái Hưng là một trong những tác giả được nhiều người nói tới, chủ yếu ở thể
loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Đó là các bài phê bình của Trương Tửu, Đức Phiên, Trần Thanh
Mại, Hà Văn Tiếp, Nguyễn Lương Ngọc, Mộng Sơn, Quan Sơn, Vũ Ngọc Phan, đã đăng trên các
báo: Loa, Sông Hương, Tinh hoa, Ngày nay, Thời thế, Hà Nội tân văn, Phụ nữ thời đàm. Ngồi ra
có các cơng trình nghiên cứu của Trương Chính: Dưới mắt tôi [1939], Vũ Ngọc Phan: Nhà văn hiện
đại, tập II [1942], Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu [1942] đều có đánh giá các sáng
tác của Nhất Linh và Khái Hưng.
Thời kỳ này, các nhà phê bình đề cao sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng. Những sáng tác
của các ông được coi là sự tiến bộ của tư tưởng mới, có ý nghĩa cách mạng. Trương Tửu viết trên


báo Loa [1935]: Đoạn tuyệt là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu của chủ nghĩa cá nhân. Tác giả
đàng hồng cơng nhận sự tiến bộ, và hăng hái tin tưởng ở tương lai.

Nhiều ý kiến ca ngợi nội dung tư tưởng chống lễ giáo phong kiến, chống chế độ đại gia đình,
địi giải phóng cá nhân của hai cuốn Đoạn tuyệt và Lạnh lùng. Nguyễn Lương Ngọc viết trên báo
Tinh hoa [1937] về cuốn Lạnh Lùng: Đặt nhân đạo lên trên luân thường đạo lý. Hà Văn Tiếp
khẳng định giá trị phản ánh hiện thực của Đoạn tuyệt là làm sống lại bức tranh về cuộc sống vô
nhân đạo, mẹ chồng áp chế nàng dâu: Những lời lẽ gay gắt của bà Phán làm ta liên tưởng Nhất
Linh đã đi làm dâu một lần rồi. Nhà phê bình Trương Chính đi sâu phân tích, lý giải các cuốn
Đoạn tuyệt, Lạnh lùng và một số tác phẩm của Nhất Linh viết chung với Khái Hưng, Ông cho
rằng: Đoạn tuyệt đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi tiến hóa của xã hội Việt Nam. Nó
cơng bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết bao nhiêu hy vọng
[6.11].
Tuy nhiên, có một số ý kiến phê phán cuốn Lạnh lùng, cho đó là cuốn sách phụ nữ khơng
nên đọc. Trương Tửu viết ở báo Thời Thế [1937]: Tơi có thể kết án cuốn Lạnh lùng của Nhất Linh
phá hoại sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Nhiều ý kiến không tán thành cách dùng yếu tố ngẫu
nhiên để giải quyết mâu thuẫn trong Đoạn tuyệt. Riêng về bút pháp nghệ thuật ngày càng tiến bộ
của Nhất Linh đã được đa số công nhận. Về cách mô tả tâm lý nhân vật, Trương Chính nhận xét:
Ơng Nhất Linh đã dùng cách quan sát tinh vi để tả những phiền phức riêng trong tâm hồn nhân
vật [5.12].
Lời văn, cách viết của Nhất Linh được Trần Thanh Mại khen ngợi trên báo Sơng Hương
[1937]: Văn tài uyển chuyển mạnh mẽ, khơng có chỗ nào đáng bỏ, khơng có mục nào phải thêm.
Vũ Ngọc Phan nhìn nhận: Nhất Linh là tiểu thuyết gia có khuynh hướng về cải cách: Tiểu thuyết
của ơng biến hóa mau lẹ từ tiểu thuyết cổ lỗ đến tiểu thuyết tình cảm, rồi đi thẳng vào tiểu thuyết
luận đề. Trong loại tiểu thuyết luận đề tiểu thuyết của Nhất Linh chiếm địa vị cao hơn cả
[144.801].
Theo Dương Quảng Hàm [trong Việt Nam văn học sử yếu], tác phẩm của hai nhà văn chủ
chốt Nhất Linh và Khái Hưng được xếp vào khuynh hướng xã hội và được đánh giá là có nhiều
đóng góp về đường xã hội và văn chương. Về đường xã hội, hai nhà văn này muốn xóa bỏ hủ tục để
cải cách xã hội theo các quan niệm mới, chỉ trích các phong tục, tập tục cũ và giãi bày những lý
tưởng mới về sinh hoạt trong gia đình hoặc xã hội. Về đường văn chương, hai nhà văn này muốn trừ
khử lối văn chịu ảnh hưởng của Hán văn mà viết lối văn bình thường, giản dị, ít dùng chữ Nho, theo
cú pháp mới, để được phổ cập trong dân chúng [56.445].

Xét ở phương diện yếu tố hiện thực trong tiểu thuyết của Tự lực văn đồn, Thạch Lam, một
trong những người của nhóm đã viết: Một quyển truyện, một tờ báo muốn cho người ta ham đọc


phải làm cho người ta vui hoặc người ta cảm động, mà muốn cho người ta cảm động thì cần phải
giống sự thật. Cịn Thế Lữ thì nói: Chỉ có những cảm giác của cuộc đời thật là còn lại và in sâu
trong trí nhớ của người đọc, cịn một cốt truyện kể ra và kết cấu một cách khéo léo cho vừa ý độc
giả sẽ bị quên ngay, không ai bàn đến nữa. Như vậy, rõ ràng cả hai cây bút chủ chốt của Tự lực
văn đoàn đều phản đối thứ văn chương tuyên truyền đạo lý một cách lộ liễu [3.90-91].
Tóm lại, các nhà phê bình trước 1945 đánh giá cao truyện ngắn, tiểu thuyết của Nhất Linh và
Khái Hưng. Về nội dung tư tưởng có ý nghĩa cải cách xã hội, làm cho người đọc ghét cũ, yêu mới,
coi trọng quyền tự do cá nhân, góp phần đem luồng khơng khí mới phấn khởi, tiến bộ vào xã hội.
Về nghệ thuật có sự đổi mới, thành cơng trong cách mô tả tâm lý nhân vật, tả cảnh, kể chuyện, cách
sử dụng ngơn ngữ tài tình Ở thời điểm lúc đó, tơi thấy cách đánh giá như vậy cũng không phải là
đề cao thái quá.
2. Từ năm 1945 đến trước 1986
Khoảng thời gian 1945 1954 do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, việc đánh giá một số
hiện tượng văn học tạm thời lắng xuống. Từ 1954 đến 1986 có thời gian khu vực miền Nam, miền
Bắc có những ý kiến khác nhau.
2.1. Ở miền Nam trước năm 1975 nhiều tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng được in lại.
Các cơng trình khảo cứu, nghiên cứu ra đời như Phê bình văn học thế hệ 32, tập III [1972] của
Thanh Lãng, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III [1960] của Phạm Thế Ngũ, Tự lực văn
đồn [1960] của Dỗn Quốc Sỹ, Lược sử văn nghệ Việt Nam [1974] của Thế Phong, Bình giảng về
Tự lực văn đoàn [1958] của Nguyễn Văn Xung, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại [1972] của Bùi Xuân
Bào, có đề cập đến những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng. Ngồi ra cịn nhiều bài báo nói
tới Nhất Linh với Khái Hưng và các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn của các ông. Đặc biệt, trong
tuần lễ tưởng niệm Nhất Linh có các bài của Đặng Tiến, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Xung,
Doãn Quốc Sỹ, Vũ Hạnh, Tường Hùng, Dương Nghiệm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Trương Bảo Sơn,
Thế Un. Ngồi ra cịn có hồi ký của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Thị Thế kể về Nhất Linh. Bản thân
Nhất Linh cũng nêu quan niệm sáng tác và tự đánh giá tác phẩm của mình ở cuốn Viết và đọc tiểu

thuyết.
Dẫu có những quan niệm khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu phê bình miền Nam hầu hết
có xu hướng đề cao những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng. Thanh Lãng trong cơng trình Phê
bình văn học thế hệ 32, mục viết về Nhất Linh, đã chỉ ra những cái mới bước đầu của tác giả này:
Đoạn tuyệt và Lạnh lùng là những bản cáo trạng dữ dội, đánh vào gia đình cũ Việt Nam. Loan và
Nhung biểu hiện cho cái tâm lý hay đúng hơn là cái ý hướng khao khát cái mới, địi hỏi giải phóng
[98.320].


Bùi Xuân Bào trong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại [viết bằng tiếng Pháp] đã dành
nhiều trang phân tích tác phẩm của Nhất Linh. Ông viết: Từ Đoạn tuyệt nhân cách văn học của
Nhất Linh được khẳng định, ông đứng ra bảo vệ cá nhân chống lại gia đình và Bướm trắng là
bước phát triển mới của Nhất Linh. Tiểu thuyết này rất độc đáo chưa bao giờ những người đi trước,
hoặc đồng thời với Nhất Linh, lại đi xa đến thế trong việc phát triển một tấn kịch lương tâm. Thế
Phong khen tác phẩm Đôi bạn: Nhất Linh tạo cho đời một cuốn tiểu thuyết mà chủ đề thật sự là
hành động cách mạng bí mật hay: Đơi bạn rất tiêu biểu cho bước chuyển tiếp diễn ra ở thanh
niên, từ giấc mơ hạnh phúc cá nhân, đến giấc mơ ưa thích hành động anh hùng [147.82].
Thế Phong khen những đoạn mơ tả tình u của Đơi bạn, cách tỏ tình bằng mắt của nhân vật
Loan Dũng. Đặng Tiến viết: Nhân vật Nhất Linh sống trong không gian không phải là ngoại giới
mà trong không gian nội tâm; Dũng sống không phải trong mùa thu trước mắt, mà là mùa thu của
lòng chàng [164.16]. Nhất Linh được coi là đã thành công trong việc mô tả chiều sâu nội tâm nhân
vật và tiểu thuyết của ơng có tính hiện đại. Bùi Xuân Bào nhận định: Đến Bướm trắng, kỹ thuật
viết tiểu thuyết của Nhất Linh đạt đến hoàn hảo [4.371].
Các nhà nghiên cứu cũng phê phán những hạn chế của tiểu thuyết Nhất Linh. Phạm Thế Ngũ
nói về việc xây dựng nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt có nhiều chỗ vơ lý như việc Loan chủ trương
thờ cúng; hay Dỗn Quốc Sỹ cũng chỉ ra cái khơng hợp lý trong tâm lý Loan nhất là ở chương hai.
Bùi Xuân Bào lý giải: Do quá say sưa với luận đề nên nhân vật Loan thiếu sức sống, tác giả chiếu
vào nhân vật của mình một luồng ánh sáng quá mạnh khiến Loan trở thành trừu tượng [4.372]. Lê
Hữu Mục cho rằng, nhân vật Loan có hành vi trái với đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Nhất Linh trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết cũng nhận thấy Ý định chứng minh cho luận đề là

Đoạn tuyệt, Hai vẻ đẹp kể cả Lạnh lùng kém hay.
Còn đối với văn chương Khái Hưng, các nhà nghiên cứu nhận xét hầu hết tác phẩm của ơng
thường xốy vào chủ đề: đề cao tình yêu tự do, chống lễ giáo phong kiến, một phần cải cách xã hội.
Khái Hưng rất hiểu tâm lý phụ nữ. Truyện của ông phần kết bao giờ cũng gây cảm giác bâng
khuâng, man mác cho bạn đọc. Vũ Ngọc Phan nhận xét: Khái Hưng viết truyện ngắn tuyệt hay,
linh hoạt và cảm người ta hơn là truyện dài. Truyện ngắn Khái Hưng có một đặc biệt là ơng tìm ra
ý nghĩa của mọi việc trên đời, dùng ngôn ngữ giản dị trong sáng ghi lại, làm cho người ta cảm nhận
chứ khơng gị ép. Theo Vũ Ngọc Phan: Đọc những truyện ngắn của Khái Hưng, tơi nhận thấy
nghệ thuật của ơng là tìm cho ra những ý nghĩa đau đớn hay khoái lạc của mọi việc ở trên đời, rồi
ghi lại bằng những lời văn gọn gàng, sáng suốt, làm cảm người ta bởi những việc mình dàn xếp, chứ
khơng phải cám dỗ người ta bởi những thuyết mà mình tưởng là cao cả, cịn với Phạm Thế Ngũ
thì: Đây là một cây bút đi nhặt nhạnh chuyện người, một thứ gương pha lê bước ra cuộc đời lắm


vẻ, dung nạp một cách trung thực và khoan hòa, dung dị và hóm hỉnh những tâm tư và hình thái của
một xã hội chung quanh ông qua nhiều trang bất hủ của Gia đình, nhất là của Thừa tự [49.101].
Phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: Bên cạnh một cuốn tiểu thuyết tâm lý kinh điển như
Hồn bướm mơ tiên chính là một tác phẩm lâu nay được xem là lãng mạn, Khái Hưng viết nhiều tiểu
thuyết mà về chất liệu là giàu chất hiện thực và về cách viết là thuộc loại tiểu thuyết toàn cảnh
[49.183].
Ngay cả trong lời tựa viết cho Hồn bướm mơ tiên, Nguyễn Bảo Sơn [tức Nhất Linh] cũng đã
nhận xét: Tác giả không tả cảnh rườm rà, chỉ một vài nét chấm phá thanh đạm như những bức thủy
họa của Tàu [39.282].
Đánh giá Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Văn Trung, Giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gịn, viết:
Nếu nhìn con người theo diễn tiến lịch sử, có thể coi con người trong tác phẩm của nhiều nhà văn
trong Tự Lực Văn Đoàn tiêu biểu cho giai đoạn đầu tiên của sự diễn tiến đó, nghĩa là giai đoạn tự
giác. Sự tự giác đó xuất hiện trong lịch sử xã hội Việt Nam như một phản kháng chống đối với quan
niệm về con người của xã hội cũ. Nhận định nói trên gần gũi với cách đánh giá Tự lực văn đoàn
của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta lại khơng thể đồng tình khi ơng Nguyễn Văn Trung cho rằng
những tác giả trình bày những vấn đề gia đình, hơn nhân như kiểu Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt

sẽ bị bỏ quên đi vì chúng phục vụ cho những mục tiêu nhất thời, trong khi đó Hồn bướm mơ tiên sẽ
có giá trị lâu dài vì tác phẩm bày tỏ một cái gì trường tồn nơi con người và bày tỏ trong một cơng
trình xây dựng chứa đựng nhiều rung động nghệ thuật [39.245].
Nhìn chung, các nhà phê bình miền Nam trước 1975 có xu hướng đánh giá quá cao những
sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng cả về nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, họ cũng chỉ ra được
phần nào cái chưa hay trong các tiểu thuyết luận đề, và tính chất lãng mạn không tưởng trong một
số tác phẩm.
2.2. Khu vực miền Bắc trước 1975, có các cơng trình: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam
[1957] của nhóm Lê Quý Đôn, Sơ thảo văn học Việt Nam của Viện văn học [1964], Tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại, tập I [1974] của Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam 1930 1945 [1961] của Bạch Năng
Thi Phan Cự Đệ. Đồng thời một số bài nghiên cứu của Nguyễn Đức Đàn, Vũ Đức Phúc, Nam
Mộc cũng có đề cập đến Tự lực văn đoàn, Nhất Linh và Khái Hưng. Song, cách đánh giá cịn dè
dặt, do quan điểm lúc đó khi nhìn nhận văn học lãng mạn cịn bị định kiến chính trị chi phối, nên
gần như cịn cái nhìn nặng nề với tác phẩm văn học, chẳng hạn: Tinh thần dân tộc khơng có trong
tác phẩm của Nhất Linh, ít nhất cũng khơng có cơ sở chắc chắn. Bởi lẽ tác giả khơng nói tới sự áp
bức bóc lột của đế quốc. Sách giáo khoa Văn lớp 12 phổ thông nhận định chung về văn học lãng
mạn: Căn bản là bạc nhược, suy đồi, phản động, khơng giúp ích gì cho cách mạng [NXB Giáo
dục Hà Nội, 1980, tr.8].


Nhận định về hai tác giả Khái Hưng và Nhất Linh hai cây bút trụ cột của Tự lực văn đoàn,
Nguyễn Đức Đàn, trên tập san Văn Sử Địa, viết cái tác hại rõ ràng nhất của các tiểu thuyết của
Khái Hưng và Nhất Linh là đã xơ đẩy một số đơng thanh niên trí thức và học sinh rạo rực những
khát vọng được sống xa hoa và phóng đãng, trốn tránh thực tế đấu tranh dân tộc.
Trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 1945, Vũ Đức Phúc đã phê phán
những mặt tiêu cực, lạc lõng của Tự lực văn đoàn. Cách đánh giá của Vũ Đức Phúc khá cực đoan,
thiên về phủ định hơn là chắt lọc, gạn đục khơi trong. Về Nhất Linh, Vũ Đức Phúc viết: Tóm lại,
sau khi chống phá lễ giáo phong kiến, Nhất Linh khơng cịn biết phát hiện ra một yếu tố gì tiến bộ
trong cuộc sống. Chỉ có những tư tưởng viễn vơng về chủ nghĩa anh hùng cá nhân và một ít triết lý
về sự hành lạc ích kỷ [48.18].

Những nhận định về Khái Hưng cũng nặng nề: Tiêu Sơn tráng sĩ là một quyển truyện có ít
nhiều tính chất kiếm hiệp ca ngợi bọn người phục vụ cho một chế độ suy tàn, không hề nghĩ tới
nhân dân, khi gặp thất bại thì tìm cách thốt ly vào tình u và rượu. Trống mái tô vẽ lối sống của
tư sản: đẹp đẽ, sang trọng, ăn chơi nhàn rỗi. Nhân vật Hiền mê một người đánh cá như kiểu các phụ
nữ tư sản châu Âu yêu một con vật đẹp. Chủ nghĩa cải lương phản động biểu hiện rõ rệt nhất
trong Gia đình [48.18]. Rõ ràng đây là cách nhìn nhận, đánh giá còn nặng nề, nghiệt ngã, lướt
qua và đầy định kiến.
Nói chung việc đánh giá trào lưu văn học lãng mạn trước đây trên cả hai khu vực [Bắc và
Nam] đều chưa đạt yêu cầu khách quan, khoa học. Nếu ở Miền Nam, việc khen có phần nào dựa
trên hàm ý đề cao văn học lãng mạn tư sản thì ở miền Bắc, việc chê lại dựa trên nhưng tiêu chí sau:
a. Lấy những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng làm thước đo mà không thấy rằng văn
học lãng mạn có những đặc trưng riêng của nó.
b. Quan niệm về khái niệm hiện thực còn quá hẹp, cho rằng hiện thực của văn học lãng
mạn nói chung không phải là hiện thực của đời sống dân nghèo chống lại sự áp bức của địa chủ, đế
quốc [như văn học hiện thực phê phán]. Với nhận định cho rằng văn học lãng mạn xa rời thực
tiễn, các tác giả đã quên mất rằng thời kỳ 1932-1945 trong xã hội Việt Nam, tầng lớp trí thức tiểu
tư sản, thanh niên cũng là một bộ phận, một thành phần căn bản của xã hội và viết về đời sống tâm
tư của họ cũng là viết về một mảng hiện thực không thể thiếu được của đời sống xã hội.
Dựa vào những tiêu chí trên, khơng xuất phát từ bản thân văn học đồng nhất con người chính
trị với con người văn học, nhiều nhận định đã gần như phủ định sạch trơn trào lưu văn học lãng mạn
Việt Nam là một hiện tượng văn học đặc biệt, đã tạo bước ngoặt cho văn học Việt nam chuyển hẳn
từ trung đại sang hiện đại nên có những đóng góp độc đáo cũng như hạn chế lịch sử, không thể
tránh khỏi trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc.


Năm 1990, trong bài viết Mấy suy nghĩ về vấn đề học thuật hôm nay, nhân vấn đề văn học
lãng mạn, Văn Tâm đã đặt ra câu hỏi Khi nhìn nhận lại văn học lãng mạn, liệu có cần thêm phần
cách tân quan điểm học thuật và bổ sung công cụ khám phá?. Trước đó, năm 1989, câu hỏi trên
cũng đã được Nguyễn Đình Chú đề cập đến trong bài Cần nhận thức đúng thời kỳ văn học 30 45
khi ông cho rằng việc đánh giá thời kỳ văn học 30 45 có hai điểm đáng chú ý nhất đó là:

a. Xử lý đúng mối quan hệ giữa quan điểm chính trị và văn chương. Thốt ly hồn tồn quan
điểm chính trị là sai lầm nhưng chính trị hóa việc nghiên cứu văn chương như trước đây cũng là
phiến diện và cực đoan.
b. Khi đánh giá các hiện tượng văn học, ta không thể bỏ qua thế giới vô thức, thế giới tâm
linh của con người. Trước đây ta mới chú ý đến con người hữu thức, lý tính và con người giai
cấp mà chưa chú ý đến con người vô thức, tiềm thức, phi lý, trực giác, bản năng và con người
nhân loại.
3. Từ năm 1986 đến nay:
Cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất, chuyện hôm qua không
phải là chuyện hôm nay. Từ đó nhìn lại Tự lực văn đồn cũng cần có sự đánh giá đúng đắn, cần ghi
nhận những đóng góp của trào lưu văn học này. Trên thực tế, từ sau Đại hội VI [1986] cùng với một
không khí dân chủ hóa trong đời sống xã hội, trong sáng tác văn học, lý luận phê bình cũng đã có sự
đổi mới từng. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được xuất bản trở lại ở các Nhà xuất bản Văn học,
Nhà xuất bản Đại học. Những tác phẩm chống lễ giáo phong kiến của Tự lực văn đoàn như Nửa
chừng xuân của Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, rồi Gánh hàng hoa, Đôi bạn, Lạnh
lùng. Nhiều bài nghiên cứu về Tự lực văn đồn được cơng bố với tinh thần cởi mở hơn. Và đã
đến lúc cần có một tiếng nói chung qua trao đổi luận bàn để có thể thống nhất được những vấn đề cơ
bản.
Từ năm 1986 đến nay các nhà nghiên cứu phê bình có nhìn nhận lại nhóm Tự lực văn đồn
và những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng đã được đánh giá thỏa đáng hơn. Các bài nghiên
cứu của Trương Chính, Trần Hữu Tá, Nguyễn Hồnh Khung, Lê Thị Đức Hạnh, Hồng Xn Hãn,
Trần Đình Hượu, Đỗ Đức Dục, Lê Thị Dục Tú, Nguyễn Hữu Hiếu, Hà Minh Đức, Đỗ Đức Hiểu
.v.v, các cơng trình của Phan cự Đệ, Trần Thị Mai Nhi, Hồi ký của Tú Mỡ, được đặc san báo
Người giáo viên nhân dân [Số 27 đến 31, năm 1989] đăng ý kiến trong cuộc hội thảo văn chương
Tự lực văn đoàn ngày 27-5-1989 của Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp phối hợp với nhà
xuất bản Đại học tổ chức [do Giáo sư Hà Minh Đức tổng thuật]. Tham dự hội thảo có đơng đảo các
nhà văn, nhà thơ ở cả hai thời kỳ trước và sau Cách mạng như Huy Cận, Tế Hanh, Nguyễn Văn
Bổng, Bùi Hiển, Trương Chính, Vũ Tú Nam, các giáo sư Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Hà Minh
Đức, Phong Lê. Ý kiến tuy cịn có chỗ khác nhau nhưng phần thống nhất chung là sự ghi nhận



những đóng góp quan trọng của Tự lực văn đồn cho văn xuôi thời hiện đại. Ý kiến phát biểu của
các nhà văn về Tự lực văn đồn khơng cịn bồng bột như buổi ban đầu, không định kiến trong khơng
khí xã hội thời kỳ chiến tranh. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét: Họ đã cho chúng tôi thấy văn
chương là việc đúng đắn, sang trọng, gợi cho nhiều người ước muốn lấy nó làm ý tưởng cho đời
mình. Nhìn lại trong thời đó, văn chương Tự lực văn đồn khơng giúp ích gì vào việc thức tỉnh lịng
u nước và tinh thần đấu tranh cách mạng của tuổi trẻ chúng tơi. Nhưng khơng phải vì vậy mà bỏ
qua những đóng góp đáng kể của họ vào văn học nước nhà, nhất là về ngôn ngữ nghệ thuật. Nhà
văn Bùi Hiển nhắc đến những ấn tượng đẹp về một số nhân vật trong các tác phẩm Tự lực văn đồn:
Đó là những nhân vật có tinh thần phản kháng. Họ dám chống đối lại lễ giáo, đạo đức của đại gia
đình phong kiến. Họ khinh bỉ cả gốc quyền q và lối sống bóc lột của gia đình mình như Dũng
trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn. Mặt biểu hiện thứ hai là họ có tình u và tình bạn khá trong sáng và
đẹp đẽ [48.209].
Khi quan niệm yếu tố hiện thực trong văn chương lãng mạn thì giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng:
Hầu hết những vấn đề mà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nêu ra đều là những vấn đề thời sự của xã
hội bấy giờ. Không ít tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đã đưa ra những vần đề gay cấn của xã hội
vào trong trang sách. Chỉ có điều mặc dù họ đã cố gắng bám sát đời sống, đưa ra các vấn đề xã hội,
nhưng cách tiếp cận hiện thực của họ, quan niệm nghệ thuật của họ đã không làm cho các tác phẩm
của mình trở thành những sản phẩm của văn học hiện thực.
Theo giáo sư Phan Cự Đệ thì tiểu thuyết Tự lực văn đồn có những cuốn là lãng mạn tiến bộ,
thấm đẫm tinh thần dân tộc và khát vọng tự do, có tiểu thuyết giàu yếu tố hiện thực. Các tiểu thuyết
lãng mạn đã thực hiện yêu cầu điển hình hố theo kiểu lãng mạn chủ nghĩa, nghĩa là xây dựng được
những nhân vật phóng đại và lý tưởng hố, đứng cao hơn hồn cảnh và nhìn chung, khơng chịu sự
tác động của hồn cảnh. Một số nhân vật có những nét điển hình và giàu chất hiện thực.
Trường Chinh đã nhận xét: Đối với trào lưu văn nghệ lãng mạn, chúng ta không nên mạt
sát, vơ đũa cả nắm mà cần đi vào phân tích những dịng tiến bộ trong những thời kỳ khác nhau.
Chúng ta cần hết sức cố gắng tìm hiểu mọi nhân tố yêu nước và tiến bộ trong những tác phẩm lãng
mạn trước đây [141.145].
Nhận định đó là căn cứ và chuẩn mực để đánh giá văn học lãng mạn, văn chương Tự lực văn
đồn. Tuy nhiên điều quan trọng là khơng khí xã hội mà trực tiếp là khơng khí tiếp nhận khơng

thích hợp để tác phẩm Tự lực văn đồn có thể đến với người đọc. Nói như nhà phê bình Trương
Chính, tâm lý người nghiên cứu là dè dặt, phê phán hơn là khẳng định: Rút cục lại trong một thời
gian rất dài, ở trường phổ thông cũng như trường đại học, học sinh, sinh viên cứ yên chí sách Tự lực
văn đoàn là văn chương đồi trụy, phản động thậm chí cịn cho là sách cấm.


Trưởng thành sau Cách mạng tháng Tám, Vũ Tú Nam là nhà văn am hiểu khá sâu sắc Tự lực
văn đồn. Khoảng cách thời gian tạo cho ơng một cách nhìn riêng về văn đồn này: Tự lực văn
đồn có đóng góp tích cực ở nội dung chống phong kiến, đấu tranh cho tự do, chống phát xít. Nghệ
thuật có những cái mới, sách báo in đẹp, tổ chức giỏi[49.210]. Huy Cận vốn là một cộng tác viên
thân thiết và gần gũi của Tự lực văn đồn đã có những nhận xét thỏa đáng: Ta đã có đủ thời gian
để đánh giá sự đóng góp của Tự lưc văn đồn. Có thể nói Tự lực văn đồn đã đóng góp lớn vào văn
học sử Việt Nam. Họ có hồi bão về văn hóa dân tộc. Họ có điều kiện để đi vào chuyện văn
chương. Tự lực văn đồn đã có đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói
và câu văn của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam [49.208]. Ngoài ra cịn có các cơng
trình nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như của giáo sư Phan Cự Đệ, các luận án tiến sĩ của Trịnh Hồ
Khoa và của Nguyễn Thị Dục Tú.
Giáo sư Hà Minh Đức nêu lên một số vấn đề cần đặt ra trong việc nghiên cứu Tự lực văn
đoàn: Tự lực văn đoàn thường được xem là trào lưu văn học lãng mạn nhưng thực tế không thuần
nhất. Nhiều tác phẩm có giá trị hiện thực như Nửa chừng xn, Đoạn tuyệt, Thốt ly, cũng
khơng nên hiểu lãng mạn là hàm ý tiêu cực. Chất lãng mạn thường biểu hiện ở các nhân vật trẻ
trung, quan hệ yêu đương và những mơ ước của họ về hoạt động xã hội. Văn chương Tự lực văn
đồn mang tính chất phản phong khá mạnh mẽ. Nó trực diện tiến cơng vào đạo đức và lễ giáo của
đại gia đình phong kiến và đã thắng thế trong cơng luận. Đó là điều mà các tác phẩm ở thập kỷ
trước chưa làm được. Về nghệ thuật cũng cần phân tích rõ những đóng góp quan trọng của Tự lực
văn đồn với văn chương dân tộc, đặc biệt ở bước ngoặt, chuyển từ thời kỳ cận đại sang quỹ đạo
của thời kỳ hiện đại [49.207].
Nhà nghiên cứu văn hóa Phong Lê nhận xét: Cả một thời gian dài chúng ta phê phán Tự lực
văn đồn. Bây giờ cần nói lại. Về chính trị mà nói Tự lực văn đồn là tiếng thở dài chống chế độ
thực dân như đồng chí Trường Chinh đã nói. Tự lực văn đồn có những cuốn hiện thực và có

những cách tân và nhảy vọt về nghệ thuật [49.210].
Giáo sư Trần Đình Hượu muốn đánh giá Tự lực văn đoàn như một hiện tượng phát triển
liên tục của lịch sử trong q trình hiện đại hóa của văn học phương Đơng. Những năm hai mươi là
q trình khẳng định văn học mới và Tự lực văn đoàn đánh dấu giai đoạn tồn thắng với sự đóng
góp lớn, chủ động và tích cực. Ơng cho rằng trong nhiều tác phẩm trước kia, lễ giáo phong kiến
chưa hiện ra dưới bộ mặt tàn bạo và các tác giả chưa thấy rõ sau số mệnh là những cái gì trói buộc
con người. Tự lực văn đồn rất có ý thức và rất nhất quán trong việc tố cáo sự ràng buộc của gia
đình và họ hàng. Chủ trương giải phóng cá nhân hoặc cải cách của họ có nhiều hạn chế. Tuy nhiên
so với các nhà văn những năm ba mươi, bốn mươi trước cách mạng tháng Tám, chính họ là nhóm
có ý thức cải tạo xã hội, muốn đổi mới xã hội và Tự lực văn đồn rất có ý thức đi tìm cái đẹp.


Cũng không nên xem việc họ chế giễu những cuộc sống gia đình bảo thủ, lạc hậu và cả người dân
quê lam lũ nơi bùn lầy nước đọng là có dụng ý xấu mà thực ra họ muốn cổ vũ cho cuộc sống Âu
hóa, đơ thị hóa [49.211].
Đặng Việt Ngoạn nhận xét các tác phẩm của Khái Hưng và Nhất Linh có giá trị phê phán lễ
giáo phong kiến và có giá trị nhân bản. Nhiều bức tranh miêu tả nơi đồng quê tuy có phần thi vị hóa
nhưng vẫn gần gũi, đáng yêu [49.212].
Các nhà nghiên cứu hầu như công nhận nội dung tiến bộ của những sáng tác của Nhất Linh
và Khái Hưng là thể hiện được khát vọng giải phóng cá nhân, giải phóng phụ nữ, chống lễ giáo
phong kiến, chế độ đại gia đình phong kiến, địi tự do hơn nhân, quyền được hưởng hạnh phúc cá
nhân, ấp ủ một tinh thần dân tộc dân chủ qua hình ảnh người khách chinh phu, có hồi bão về cải
cách xã hội. Một số tác phẩm bày tỏ sự cảm thông với nỗi khổ của dân quê, phê phán bọn địa chủ
phong kiến tàn bạo. Nhiều sáng tác nói đến sự phát triển của con người cá nhân, từ ý thức về quyền
sống, quyền tự do yêu đương, quyền được hưởng hạnh phúc [Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng]
đến sự bứt phá gia đình phong kiến tìm lối thốt trong tình u, trong thế giới nội tâm, trong khát
vọng lên đường tìm lý tưởng cải cách xã hội [Đơi bạn]. Lê Thị Dục Tú có những phát hiện về con
người cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và vẻ đẹp thể chất của nhân vật mang tính lý
tưởng, tính đơ thị. Sự khác nhau giữa các nhân vật của Nhất Linh và Khái Hưng được Phan Cự Đệ
chỉ ra: Nhân vật của Khái Hưng thời kỳ đầu u đời, lạc quan, tơn thờ tình u, sự hy sinh cao

thượng, thích mơ mộng lãng mạn, có khi đạt được mục đích dễ dàng. Cịn nhân vật của Nhất Linh,
thường trải qua những cơn khủng hoảng tinh thần [Dũng, Doãn, Trương]. Họ đau khổ, dằn vật trên
con đường đi tìm lý tưởng hoặc tìm kiếm hạnh phúc cá nhân [38.23]. Những thành công của Nhất
Linh ở tiểu thuyết luận đề được ông ghi nhận: Những tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh nâng cao
được ý nghĩa xã hội và sức khái quát của tác phẩm, mà vẫn không rơi vào tình trạng minh họa một
cách khơ khan cơng thức [38.50].
Vấn đề ảnh hưởng của văn học phương Tây, phương Đông, văn học truyền thống đối với tiểu
thuyết của Nhất Linh, hay các tác phẩm của Tự lực văn đồn được các nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ,
Trương Chính, Trần Thị Mai Nhi, Trần Hữu Tá, Nguyễn Hoành Khung đề cập đến. Theo Phan
Cự Đệ, Nhất Linh vẫn sử dụng những mơ típ truyền thống, hình ảnh cơ Minh Nguyệt, cô Cả Đạm ở
Đoạn tuyệt làm ta liên tưởng đến Đạm Tiên trong Truyện Kiều [38.63]. Đỗ Đức Hiểu cho rằng
Bướm trắng là tiểu thuyết hiện đại, Nhất Linh đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật phương
Tây để xây dựng tâm hồn phương Đông [70.4]. Hà Minh Đức chừng mực và thỏa đáng hơn:
Bướm trắng cũng ghi nhận ở chính tác giả ngịi bút chân thành nhưng mệt mỏi ở một chặng đường
mà xã hội mờ mịt và đầy biến động, người viết dễ mất hướng đi [49.26].


Sự đổi mới trong những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng được khẳng định, đó là đổi
mới kết cấu theo dòng tâm lý, cốt truyện chặt chẽ, lối kể chuyện hấp dẫn, ngôn ngữ trong sáng,
trang nhã, gợi cảm, giàu chất thơ, chất họa, đi sâu vào thế giới nội tâm phong phú của con người, đã
đánh dấu sự xuất hiện công khai của con người cá nhân. Tác giả bước đầu đổi mới nghệ thuật xây
dựng tính cách ở một số nhân vật, xóa nhịa ranh giới phản diện và chính diện.
Các nhà nghiên cứu, phê bình đã khai thác một cách khá hợp lý nhiều vấn đề với thái độ
khách quan, cơng bằng và có những phát hiện mới ở những góc độ khác nhau. Qua một số ý kiến
cũng cho thấy các sáng tác Nhất Linh và Khái Hưng đã đạt được những thành tựu trong q trình
hiện đại hóa.
Như vậy, với tinh thần đổi mới, khoa học và cởi mở, với ý thức công bằng, tránh định kiến,
đứng trên quan điểm lịch sử, cuộc hội thảo về Tự lực văn đồn đã có nhiều ý kiến đánh giá có lý có
tình và thỏa đáng về hiện tượng văn học phong phú và phức tạp này, ngày càng có những khám phá
mới, càng đi dần đến sự xác đáng hơn. Tuy nhiên, việc nhìn lại những diễn biến trong quá trình khá

phức tạp nên thấy rằng vẫn cần có cơng trình riêng, nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện,
nhất là tồn bộ những sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng trước 1945, để từ đó xác định rõ hơn
những cái được và chưa được của nhà văn đối với lịch sử văn hóa nước nhà trong giai đoạn hiện đại.
Hơn nửa thế kỷ đã qua, nền văn học cách mạng đã có những bước phát triển mới. Do đó việc nhìn
nhận lại một cách khoa học và thỏa đáng giá trị của văn chương Tự lực văn đồn nói chung, xem xét
những mặt đóng góp tích cực trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh nói riêng là một việc làm
khơng những chỉ có ý nghĩa với việc đánh giá một hiện tượng văn học, một thế hệ nhà văn của q
khứ mà cịn góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn học mới đầy tính nhân văn.
Trong luận văn này, tôi sẽ cố gắng khảo sát một cách có hệ thống những sáng tác của Nhất
Linh và Khái Hưng để góp phần giải quyết một số vấn đề còn tồn tại, hoặc chưa được nghiên cứu kỹ
ở một vài tác phẩm, ở một số khía cạnh rất cần chú ý.
VI. Phương pháp nghiên cứu
1. Tự lực văn đoàn là một trào lưu văn học Việt Nam xuất hiện trong một thời kỳ lịch sử cụ
thể. Cho nên tôi không đặt vấn đề nghiên cứu Văn học Tự lực văn đoàn như một chỉnh thể, một
hiện tượng độc đáo của lịch sử Văn học. Do vậy, việc nghiên cứu chủ yếu là tìm hiểu yếu tố hiện
thực và lãng mạn trong các tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng địi hỏi phải có quan điểm lịch
sử và đặt trong tương quan của Tự lực văn đoàn với các trào lưu khác. Đồng thời, khi khảo sát các
sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh thuộc nhóm Tự lực văn đồn, bản thân tơi đi theo hướng tìm
hiểu xu hướng của văn xi lãng mạn Việt Nam, tìm hiểu đề tài, tư tưởng, quan điểm sáng tác để
làm nên những đặc trưng, những giá trị tiến bộ của văn xi lãng mạn, của nhóm Tự lực văn đồn
nói chung, của Khái Hưng và Nhất Linh nói riêng nhằm xác định giá trị của các yếu tố hiện thực có


trong các tác phẩm đó. Bởi vì ở đây tơi không đi sâu nghiên cứu thành công hay hạn chế mà chỉ là
đóng góp nhỏ vào việc nhìn nhận lại một khuynh hướng văn học.
2. Dưới góc độ là người đi tìm hiểu, nghiên cứu đề tài: Yếu tố hiện thực và yếu tố lãng
mạn trong sáng tác của khái Hưng và Nhất Linh thuộc nhóm Tự lực văn đồn, tơi muốn kết
hợp sắp xếp một cách có hệ thống về mặt lý luận và việc vận dụng lý luận ấy vào việc tìm hiểu đề
tài thơng qua phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh một số tác
phẩm của Khái Hưng và Nhất Linh dựa trên cái nhìn của lý luận văn học, trên cơ sở đó mà rút ra

quan điểm sáng tác độc đáo của nhà văn.
2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Để khảo sát nghiên cứu sáng tác của Nhất Linh vá Khái Hưng, tất yếu phải coi phương pháp
phân tích tác phẩm văn học là phương pháp quan trọng hàng đầu. Trên cơ sở đó mới tổng hợp được
những đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
2.2. Phương pháp văn học sử
Đây là một đề tài có tính chất văn học sử cho nên phương pháp văn học sử được luận văn
đặc biệt quan tâm. Khảo sát tác phẩm theo phương pháp này đòi hỏi phải đặt đối tượng vào trong
tồn bộ q trình sáng tạo của các nhà văn, đồng thời đặt nó trong sự vận động chung của thể loại và
lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Q trình vận động phát triển này có quan hệ chặt chẽ với sự
biến đổi của tình hình kinh tế, chính trị, văn học của xã hội Việt Nam đương thời.
2.3. Phương pháp thống kê, so sánh
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối
chiếu theo đồng đại, lịch đại với một vài tác giả trong Tự lực văn đồn để tìm ra những đặc trưng
nổi bật, những nét độc đáo trong quan điểm nghệ thuật để xác định yếu tố hiện thực và yếu tố lãng
mạn trong sáng tác của Nhất Linh và Khái Hưng.
2.4. Để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu, do đó, tơi thực hiện kết cấu đề tài luận văn như sau:
DẪN NHẬP
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích của đề tài
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
V. Lịch sử vấn đề
VI. Phương pháp nghiên cứu
Chương 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Khái quát về chủ nghĩa lãng mạn và yếu tố hiện thực trong sáng tác của Tự lực văn đoàn
1.1.1.Một số định nghĩa Chủ nghĩa lãng mạn


1.1.2. Cách hiểu về Chủ nghĩa lãng mạn trong nghiên cứu văn học Việt Nam

1.1.3. Tìm hiểu yếu tố hiện thực trong sáng tác của Tự lực văn đoàn
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn trong sáng tác của Khái Hưng và
Nhất Linh
1.2.1. Cơ sở khách quan
1.2.2. Chủ thể sáng tác
1.2.2.1. Con người
1.2.2.2. Quan điểm sáng tác
Chương 2: KHẢO SÁT YẾU TỐ HIỆN THỰC VÀ YẾU TỐ LÃNG MẠN TRONG SÁNG
TÁC CỦA KHÁI HƯNG VÀ NHẤT LINH
2.1. Yếu tố lãng mạn trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh
2.2. Yếu tố hiện thực trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh
2.3. Sự đan xen yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất
Linh
2.4. So sánh yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn trong sáng tác của Khái Hưng và Nhất Linh
với các nhà văn khác trong nhóm Tự lực văn đồn
Chương 3: YẾU TỐ HIỆN THỰC VÀ YẾU TỐ LÃNG MẠN TRONG NGHỆ THUẬT
THỂ HIỆN QUA SÁNG TÁC CỦA KHÁI HƯNG VÀ NHẤT LINH
3.1. Xây dựng cốt truyện
3.2. Miêu tả nhân vật
3.3. Miêu tả phong tục và cảnh quan về thiên nhiên đất nước
3.4. Phong cách thể hiện
3.4.1. Giọng điệu, câu văn
3.4.2. Ngôn ngữ


Chương 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Khái quát về chủ nghĩa lãng mạn và yếu tố hiện thực trong sáng tác của Tự lực văn đoàn
1.1.1.Một số định nghĩa Chủ nghĩa lãng mạn
* Theo Từ điển Triết học [Từ điển Triết học, NXB Tiến bộ, Mat-xcơ-va, tác giả M. M. Pôzen-ta-li-a, trang 301, 302] thì lãng mạn [được hiểu là Chủ nghĩa lãng mạn, Trường phái lãng mạn]

là phương pháp nghệ thuật, trong đó thể hiện rõ thái độ của nghệ sĩ đối với những hiện tượng được
mô tả, điều này làm cho các tác phẩm nghệ thuật có được tính chất tao nhã nhất định, một khuynh
hướng cảm xúc đặc biệt. Chủ nghĩa lãng mạn thay thế chủ nghĩa cổ điển trong nghệ thuật ở châu Âu
trong những năm 20, 30 của thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa lãng mạn có xu hướng tiến bộ, thể hiện sự phản kháng của các giới rộng rãi trong
xã hội đối với chế độ phong kiến cũng như tư sản, đối với sự phản động chính trị. Mặc dù những lý
tưởng thẩm mỹ của trào lưu này trong chủ nghĩa lãng mạn có nhiều mang tính chất khơng tưởng và
các hình tượng của các nhà lãng mạn có tính chất hai mặt và bi thảm bên trong. Tuy vậy chúng vẫn
thể hiện một sự hiểu biết nhất định đối với những mâu thuẫn trong xã hội tư sản, sự quan tâm tới
cuộc sống của quần chúng nhân dân rộng rãi và hướng về tương lai. Những yếu tố của chủ nghĩa
lãng mạn biểu hiện ở niềm khát vọng muốn xây dựng lại hiện thực dưới ánh sáng của một lý tưởng
thẩm mỹ nào đó, cũng có những đặc tính của các phương pháp nghệ thuật khác trong đó có chủ
nghĩa hiện thực. Tính chất lãng mạn một hình thức nghệ thuật tiên đốn lịch sử, thể hiện ước vọng
của người nghệ sĩ là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
* Theo Từ điển thuật ngữ văn học [Lê Bá Hán chủ biên, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2000], chủ nghĩa lãng mạn là một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu Mỹ vào cuối thế kỷ
XVIII, có ảnh hưởng và ý nghĩa lớn đối với sự phát triển văn học toàn thế giới. Vào thế kỷ XVIII,
từ lãng mạn vốn được dùng để chỉ tất cả những cái gì hoang đường, kì lạ, khác thường chỉ thấy có ở
trong sách chứ khơng có trong hiện thực.
Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa lãng mạn trở thành một
thuật ngữ dùng để chỉ một khuynh hướng văn học mới đối lập với chủ nghĩa cổ điển.
Tiền đề tư tưởng xã hội của nó là sự bất bình với lối sống tư sản, sự chống lại cái dung tục
tầm thường, khơng tình nghĩa và thói ích kỷ của những quan hệ tư sản đã sớm được thể hiện trong
chủ nghĩa tình cảm và tiền lãng mạn đến các nhà văn sáng tác theo chủ nghĩa lãng mạn càng trở nên
đặc biệt gay gắt.
Các nhà lãng mạn chủ nghĩa hướng về một thế giới khác thường mà họ tìm thấy trong các
truyền thuyết và sáng tác dân gian, trong các thời đại lịch sử đã qua, trong những bức tranh kỳ diệu
của thiên nhiên, trong đời sống, sinh hoạt, tập quán. Họ đem những ước vọng cao cả và những biểu



hiện cao nhất của đời sống tinh thần như nghệ thuật, tôn giáo, triết học, đối lập với thực tiễn vật chất
tầm thường.
Các nhà văn sáng tác theo chủ nghĩa lãng mạn luôn thể hiện một cá nhân cô đơn xung đột
với môi trường xung quanh, một khát vọng tự do cá nhân vơ hạn tách biệt hồn tồn với xã hội, dẫn
tới sự thích thú với những tình cảm mạnh mẽ, những tương phản gay gắt, những vận động bí ẩn tối
tăm của tâm hồn.
Đồng thời các nhà văn này ý thức đầy đủ về vai trò của cá tính sáng tạo của nghệ sĩ đối lập
với sự bắt chước tự nhiên của chủ nghĩa cổ điển. Chủ nghĩa lãng mạn cho rằng nghệ sĩ có quyền
cải biến thế giới hiện thực bằng cách tạo ra cho mình một thế giới riêng đẹp hơn, chân thực hơn và
vì thế hiện thực hơn. Nó thích sự tưởng tượng phóng khống và bác bỏ tính quy phạm trong mỹ học
và sự quy định có tính chất duy lý trong nghệ thuật. Chủ nghĩa lãng mạn địi hỏi tính lịch sử và tính
dân tộc của nghệ thuật với ý nghĩa chủ yếu là tái hiện lại màu sắc địa phương và thời đại
[tr.73,74,75].
* Theo Đại Từ điển Tiếng Việt [Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa Thơng tin, 1999 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam] thì lãng mạn thuộc về khuynh
hướng văn học, chủ trương phản ánh cảm xúc, ước mơ và đời sống riêng tư [tr.976]. Chủ nghĩa lãng
mạn là các trào lưu văn học nghệ thuật chủ trương sáng tác dựa chủ yếu vào tình cảm, ước mơ và
tưởng tựơng của nghệ sĩ, ra đời vào cuối thế kỷ XVIII ở Anh, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban Nha và
Nga [tr.392].
* Theo Từ điển văn học [Đỗ Đức Hiểu chủ biên, NXB Thế giới, 2004] thì chủ nghĩa lãng
mạn nảy sinh do hàng loạt nguyên nhân, cả những nguyên nhân xã hội lịch sử lẫn nguyên nhân
nội tại của nghệ thuật.
Nhiều tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn trong suốt nửa thế kỷ tồn tại của nó đã biến đổi ở
mức đáng kể, nhưng những tâm thế chung, có tính chất thế giới quan, vẫn được phát triển trong một
định hướng thẩm mỹ thống nhất, và được sự hậu thuẫn của những đại diện của các trường phái lãng
mạn khác nhau.
Nhà văn xem nghệ thuật như lĩnh vực giải phóng các năng lực đa dạng của cá nhân, như lĩnh
vực mà cá nhân tự thực hiện mình một cách tự do và tự nguyện. Nhiều nhà lãng mạn cảm thấy
những ảo tưởng nảy sinh đã hóa thân thành thực tại xã hội tư sản mà lối sống tầm thường, dung tục
của nó, tính chất ích kỷ, khơng có chỗ đứng cho tâm hồn trong các quan hệ xã hội của nó, họ thấy

khơng thể chấp nhận. Họ đau đớn trải nghiệm sự đổ vỡ của những ảo tưởng ấy [73.288]. 1

* Trong cách hiểu nôm na trước đây Văn học lãng mạn theo nghĩa đen với lối chiết tự âm Hán: lãng là sóng, mạn là tràn, lãng mạn là sóng tràn bờ, chỉ
một sự phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc. Trong ngôn ngữ thường ngày trước đây, lãng mạn có khi được xem như một lối sống không lành mạnh.


Các nhà lãng mạn đã phát hiện ra tính phức tạp, chiều sâu và tính đối kháng của thế giới tinh
thần con người, tính vơ tận nội tại của cá nhân con người. Đối với họ, con người là cả một tiểu vũ
trụ. Chú ý đến những tình cảm mạnh mẽ; đến những vận động bí ẩn của tâm hồn; đến những mặt
đen tối của tâm hồn là những nét cốt yếu của cảm quan lãng mạn chủ nghĩa, bảo vệ tự do, chủ
quyền và giá trị tự thân của cá nhân; chú ý đến những cái đơn nhất không lặp lại ở con người; sùng
bái cái cá nhân cũng là những nét đặc trưng cho chủ nghĩa lãng mạn và biện hộ cá nhân gần như là
cách tự bảo vệ trước tiến trình tàn nhẫn của lịch sử [73.289].2
Theo nhà nghiên cứu Mĩ học, triết học Hungari, Lukas [G.Lukacs] thì cho đến nay có đến
11.396 định nghĩa về chủ nghĩa lãng mạn. Từ đây, người viết đề tài có thể rút ra một số nét phổ biến
của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học với tư cách là một khuynh hướng và một phương pháp sáng
tác làm tiền đề cho việc tìm hiểu đề tài.
Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương có tiền đề lịch sử xã hội là hướng về mục tiêu chống
phong kiến, chống lại cơ chế văn hóa tinh thần trung đại, cổ vũ cho một nền văn hóa mới với những
mục tiêu nhân bản mới, say đắm cảnh vật thiên nhiên, nhớ tiếc cuộc sống của con người thời
nguyên thủy, nỗi nhớ nhung, đau khổ về tình yêu, những khát vọng về một xã hội công bằng, bác ái,
hạnh phúc, nhu cầu biểu hiện cá tính mãnh liệt. Trong chủ nghĩa lãng mạn, tình cảm của con người
được biểu hiện rõ rệt nhất, được khai thác ở mọi phương diện và thiên nhiên cũng được phản ánh
một cách sinh động nhất, trở thành nơi phản ánh nội tâm và ni dưỡng tình cảm của con người.
Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người muốn hướng đến một cuộc sống tự do,
thoát khỏi mọi ràng buộc. Do vậy, chủ nghĩa lãng mạn chủ yếu dựa vào tình cảm và ước mơ, tưởng
tượng của người nghệ sĩ để sáng tác. Thực tiễn cuộc sống cũng thông qua sự cảm nhận chủ quan và

* Theo www.guitarvietnam.net/modules.php? Thì chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ánh những khuynh hướng mâu thuẫn của xã hội và những khuynh hướng
tiến bộ của thời đại. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao thế giới nội tâm của con người, trước hết là thể hiện những khuynh hướng tự do cá nhân. Họ đã miêu tả những yếu

tố khác thường của thế giới tình cảm và yếu tố trữ tình trong nghệ thuật. Các chủ đề về tình yêu, nỗi cô đơn, nỗi buồn, những lý tưởng không đạt được. Họ làm
phong phú cho nghệ thuật bằng những hình tượng, những chủ đề mới và xác nhận nhân vật mới. Song người nghệ sĩ lãng mạn không phải là người chỉ biết có ước
mơ, mà thực tế xã hội đã thức tỉnh người nghệ sĩ tình cảm yêu nước tha thiết và sự phản đối với mọi bất công.

* Theo www.liluanvanhoc.wordpress.com/.../văn-học-chủ-nghĩa-lãng-mạn thì chủ nghĩa lãng mạn là một khái niệm mang tính lịch sử. Nó được sử dụng
với tư cách là một trào lưu tư tưởng, thủ pháp biểu hiện và loại hình văn học, nhưng chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu thì phải từ cuối thế kỉ XVIII
đến những năm 30, 40 của thế kỉ XIX, đầu tiên hình thành ở Đức, sau đó lan sang Anh, Pháp, Nga nhanh chóng phát triển thành phong trào văn học rộng khắp
châu Âu, tạo ra rất nhiều tác giả, tác phẩm có ảnh hưởng lớn. Chủ nghĩa lãng mạn trong lí luận văn học và với tư cách là loại hình văn học chủ yếu chỉ chủ nghĩa
lãng mạn ở thời kì này.
Chủ nghĩa lãng mạn mong ước một xã hội lí tưởng chân chính. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn là tinh thần ln hướng về lí tưởng vượt lên trên
hiện thực, dùng lí tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan, dốc toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con người nên có. Do đó, chủ nghĩa lãng
mạn khơng truy tìm chân thực cuộc sống, chân thực chi tiết, mà dốc toàn lực biểu hiện lý tưởng. Vì hướng tới biểu hiện hiện thực xã hội lý tưởng nên hình tượng
nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn cũng là hình tượng nhân vật lý tưởng. [Dịch từ bản tiếng Trung: Giáo trình Lí luận văn học của Lưu An Hải, Tôn Văn Hiến chủ
biên, Nxb ĐHSP Hoa Trung, Vũ Hán 2002].


khát vọng riêng rư của từng nghệ sĩ để tự biểu hiện, chứ không dựa hẳn vào thực tại khách quan và
sự miêu tả phân tích cụ thể của tác giả như trong chủ nghĩa hiện thực.
1.1.2. Cách hiểu về chủ nghĩa lãng mạn trong nghiên cứu văn học Việt Nam
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật trên thế giới và ở Việt Nam, khái niệm chủ nghĩa lãng
mạn được sử dụng với những hàm nghĩa và cấp độ rất khác nhau. Chủ nghĩa lãng mạn được hiểu là
một kiểu sáng tác, cũng có thể hiểu là một trào lưu văn học xuất hiện ở một giai đoạn lịch sử nhất
định, có cơ sở lịch sử xã hội, văn hóa riêng.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn như một trào lưu văn học xuất hiện vào những năm 30 của
thế kỷ XX. Tiêu biểu cho trào lưu văn học này là sáng tác văn xi của nhóm Tự lực văn đoàn và
sáng tác thơ ca của phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên đây là một hiện tượng văn học không thuần
nhất. Chúng ta đang có một sự đánh giá lại những thành tựu và những hạn chế của văn học lãng
mạn 30-45 một cách khách quan hơn [theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán chủ biên,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, tr.73,74,75].
Nhìn chung, các nhà văn lãng mạn Việt Nam tuy khác nhau về phong cách và thế giới quan,

nhưng vẫn đứng chung trong trào lưu lãng mạn, vì thế vẫn có một số đặc điểm chung về quan điểm
mỹ học và phương pháp sáng tác.
Đứng về phương diện phương pháp sáng tác, các nhà văn lãng mạn thường xây dựng nhân
vật trong tác phẩm của mình là những kẻ mơ mộng, đi trốn cuộc đời, tìm vào thế giới ảo tưởng;
cũng có những nhân vật phản kháng, chống đối xã hội cũ, đòi giải phóng cá nhân, hướng về một
tương lai tốt đẹp, mặc dầu tương lai ấy vẫn còn mơ hồ và xa xôi.
Chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam lại gắn liền với giai cấp tư sản dân tộc trong một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam ra đời khi giai cấp công nhân Việt Nam đã
trưởng thành. Vì thế, bản thân văn học lãng mạn gắn liền với giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị,
gắn liền với ý thức hệ cá nhân tư sản, khơng thể có điều kiện tạo thành một khuynh hướng lãng mạn
tiến bộ phát triển thành một dịng độc lập, mà chỉ có thể có những mặt tiến bộ, tích cực bên cạnh
tính chất tiêu cực, thốt ly. Một số nhà văn lãng mạn lúc mới xuất hiện thì tác phẩm cịn mang ít
nhiều yếu tố tiến bộ, nhưng càng về sau, tác phẩm của họ càng bị chủ nghĩa cá nhân làm cho yếu
dần đi.
Vì vậy, khi tìm hiểu, đánh giá văn học lãng mạn Việt Nam và nhóm Tự lực văn đồn, chúng
ta cần phải có quan điểm lịch sử, phải đặt các tác phẩm của những tác giả ấy vào hoàn cảnh lịch sử
mà họ sống thì mới có khả năng đánh giá một cách khoa học, chính xác. Do đó, khơng thể giải thích
tài năng và tác phẩm của các tác giả bằng cuộc đời của họ, nhưng cũng không nên tách rời tuyệt đối
tác phẩm với đời tư của người nghệ sĩ.


Huy Cận trong Lời bạt cho bộ sách văn xuôi lãng mạn việt nam 1930 1945 có viết: Lãng
mạn và hiện thực thì cũng đành theo một cách phân loại đã quen dùng. Cái tên lãng mạn chỉ có
tính chất quy ước, không phải đều phù hợp với mọi hiện tượng văn học mà nó muốn thâu tóm trong
các thời kỳ phát triển của nó. Bên cạnh những tác phẩm được sáng tác theo nguyên tắc của chủ
nghĩa lãng mạn thì cũng xuất hiện một số tác phẩm gần với chủ nghĩa hiện thực phê phán. Vì thế
khó có thể xác định ranh giới dứt khoát cho trào lưu văn học này. Nhiều tác giả tên tuổi, nhiều tác
phẩm quen thuộc, lâu nay vẫn coi là lãng mạn, song cũng có thể coi là hiện thực. Có lẽ, trong
tác phẩm hay, nhìn khía cạnh này thì có thể là lãng mạn, nhìn khía cạnh khác lại có thể là hiện thực.
Vậy lấy gì làm ranh giới? Nội dung hay phương pháp sáng tác? Phải chăng cũng liên quan

đến cách nhìn đời, nhìn cuộc sống của nhà văn? Với một tác phẩm có giá trị nhân bản, tất yếu là
hiện thực, nó nói lên được cuộc sống bên trong [và bên ngoài] của con người ở trong một hoàn cảnh
xã hội nhất định. Với cách nhìn đúng, chúng ta sẽ nhìn nhận những giá trị có thực trong dịng Văn
học lãng mạn 1930-1945.
Năm 1957, trong bài nói chuyện ở Đại hội Văn nghệ tồn quốc lần thứ II, đồng chí Trường
Chinh phát biểu: Đối với trào lưu văn nghệ lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát, vơ đũa cả nắm,
cần đi vào phân tích những dịng tiến bộ trong những thời kỳ khác nhau. Cần đánh giá đúng tinh
thần căm thù bọn đế quốc và vua quan, cường hào, nỗi đau khổ của người dân mất nước, sự quằn
quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lịng khát khao một cuộc sống chân vật và tự do [38.120,121].
Trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam 1930 1945 phát triển và khẳng định như một trào lưu
thật sự trong một thời kỳ lịch sử có nhiều biến động sâu sắc, ngày càng phân hóa phức tạp thành
những khuynh hướng khác nhau. Lúc này trong xã hội đã hình thành một tầng lớp thanh niên Tây
học xuất thân từ các nhà trường Pháp Việt, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa tư sản phương
Tây, đồng thời, sinh hoạt thành thị Âu hóa mạnh mẽ. Ý thức hệ tư sản Việt Nam chủ yếu là chủ
nghĩa cá nhân phát triển mạnh và tấn cơng vào văn hóa lễ giáo phong kiến, địi giải phóng cá
nhân. Phong trào văn nghệ lãng mạn là một biểu hiện của cuộc vận động văn hóa mới, mở đầu
bằng cuộc xung đột mới cũ sôi nổi trong đời sống thành thị khi đó [73.1958]. Trên con đường
phát triển, khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật của văn xuôi lãng mạn Việt Nam, đặc biệt là nhóm
Tự lực văn đồn khá thống nhất, mang những đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Song dịng đời xơ
đẩy, văn xi lãng mạn đã đi vào nhiều nẻo đường vừa mới mẻ, phong phú, vừa xa lạ, nặng nề,
phức tạp.
Chỉ trong vòng khoảng 15 năm, văn học lãng mạn Việt Nam đã đi trọn con đường phát triển
của nó. Một mặt, cảm hứng cá nhân hướng nó đến những tìm tịi khác lạ với truyền thống khiến nó
có sức hấp dẫn mới mẻ. Mặt khác, là tiếng nói của lớp trí thức dân tộc, chán ghét sâu sắc chế độ
thuộc địa, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước và những tình cảm tốt đẹp của cha ông. Văn học


lãng mạn có những yếu tố dân chủ, dân tộc tiến bộ rõ rệt. Việc phê phán văn hóa lễ giáo phong kiến
hủ bại, đấu tranh cho giải phóng và phát triển cá nhân có ý nghĩa tiến bộ quan trọng trong sự phát
triển của văn học, văn hóa xã hội. Nó mở ra khả năng to lớn trong sự khám phá thế giới bên trong

con người; gắn liền với một cảm quan mới về thế giới, khơi dậy những cảm hứng, những rung động
mới mẻ, góp phần làm phong phú tâm hồn con người. Và trong văn học lãng mạn Việt Nam cịn có
nỗi đau khổ của người dân mất nước, sự quằn quại của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng khao khát một
cuộc sống chân thật và tự do [73.1960].
Tự lực văn đoàn là một văn đoàn do Nhất Linh cùng một số nhà văn khác thành lập vào năm
1932. Trong khoảng trên dưới 10 năm tồn tại, Tự lực văn đồn với những sáng tác văn hóa, hoạt
động báo chí, trao giải thưởng, tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học Việt Nam thời kỳ đó. Tự lực văn
đoàn cũng là đại biểu của văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.
1.1.3. Tìm hiểu yếu tố hiện thực trong sáng tác của Tự lực văn đoàn
Trong chặng đường của khoảng mười năm phát triển, tiểu thuyết Tự lực văn đồn có những
chuyển biến, cùng với những chuyển biến của xã hội và thế giới quan của nhà văn. Nếu như trong
thời kỳ đầu [1932-1935], nhiều tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, thể hiện khá rõ nét những đặc trưng
tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn với những tác phẩm có nhiều yếu tố tích cực, đấu tranh cho tự
do u đương, giải phóng cá nhân, thì ở thời kỳ thứ hai, nhiều tác phẩm Tự lực văn đồn mang tính
hiện thực sâu sắc, có bước phát triển mới và đậm đà bản sắc dân tộc. Từ xu hướng buổi đầu chống
lễ giáo phong kiến, đề cao tự do cá nhân, Tự lực văn đồn đã bắt vào khơng khí của thời cuộc trong
thời kỳ Mặt trận Dân chủ[1936-1939]. Những tác giả trong Tự lực văn đồn quan tâm viết về giới
bình dân. Khái Hưng với Trống mái [1936], Nhất Linh với tập truyện Tối tăm. Trong hướng đi vào
miêu tả mặt trái của đời sống gia đình phong kiến, Khái Hưng có những mặt thành cơng như Gia
đình, Thốt ly, Băn khoăn của Khái Hưng và Lạnh lùng của Nhất Linh, Con đường sáng của
Hoàng Đạo và Con Trâu của Trần Tiêu. Trong những tác phẩm trên, các tác giả đã đặt ra những
vấn đề xã hội sâu sắc với nhiều chi tiết sinh động và chân thực. Sang thời kì thứ 3 thì yếu tố hiện
thực trong tác phẩm của Tự lực văn đồn ngày càng giảm dần xuống. Dù sao thì các tác giả của Tự
lực văn đoàn cũng là những người đã lên tiếng đầu tiên đòi đưa văn học trở về với những quan tâm
thường nhật của cuộc sống. Theo Thạch Lam nói riêng và những cây bút của Tự lực văn đồn nói
chung, người nghệ sĩ phải là người trung thực với cuộc sống thực tại, văn chương lãng mạn vẫn phải
trung thành với yếu tố hiện thực của cuộc sống.
Hiện thực là chất liệu, là yếu tố mà các nhà văn lãng mạn sử dụng trong sáng tác của mình
khơng theo một quy luật và ngun tắc nào. Tuy nhiên, hướng vận động của Tự lực văn đồn là
thốt dần những ảo tưởng lãng mạn của thời kỳ đầu và dần trở về với cuộc sống thực. Chúng ta xét

trong khoảng mười năm hoạt động của Tự lực văn đồn, đời sống xã hội có nhiều biến động, những


sự kiện chính trị dồn dập xảy ra, khơng có một văn đồn nào có thể thốt ly khỏi thời cuộc, không
tỉnh táo nhận ra hướng phát triển của xã hội thì cũng bị lơi cuốn vào guồng máy của thời sự chính trị
với nhiều hậu quả khác nhau. Khái Hưng, nhà văn có tài tạo nên nhiều cốt truyện lãng mạn có tính
bịa đặt mà như có thực kiểu Hồn bướm mơ tiên, Trống mái cũng đã đổi hướng viết về những đề
tài thiết thực. Huy Cận cho rằng các tiểu thuyết như Hồn bướm mơ tiên, Nửa Chừng xuân, Lạnh
lùng, Đoạn tuyệt, Gánh hàng hoa, nhiều cuốn đọc rất hay, hấp dẫn nhưng còn thiếu sức nặng
của cuộc đời. Gia đình, Thừa tự, Thốt ly, Lạnh lùng, một phần nào Đôi bạn là vấn đề kêu gọi đả
phá đại gia đình phong kiến, nhưng ý phản kháng ấy tốt lên một cách tự nhiên từ sự mơ tả phong
tục một cách rất sống bằng những nhân vật rất sống [49.31]. Rõ ràng ở đây là mô tả một xã hội mà
tác giả rất quen, rất biết, rất thuộc, tả từ bên trong chứ khơng phải đốn hiểu từ bên ngoài. Các tác
giả để cho phần tự biểu hiện của nhân vật rất tự nhiên, hợp với quy luật tâm lý, hợp với quy luật tư
tưởng giai cấp của nhân vật. Chủ nghĩa nhân bản ở đây là sự ngầm lên án cái xã hội lỗi thời, nó làm
cho con người chỉ còn những động cơ tiền tài, tranh giành quyền lợi vật chất, xóa bỏ tình nghĩa ở
đời. Từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ, khuynh hướng hiện thực của Tự lực văn đoàn lấn dần trong các
tác phẩm. Các tác phẩm ở chặng đường cuối như Bướm trắng của Nhất Linh, Đẹp và Thanh Đức
của Khái Hưng đều mang tính chất pha tạp của nhiều khuynh hướng vừa lãng mạn, vừa hiện thực lại
trộn lẫn với các khuynh hướng hiện thực suy đồi. Về phía chủ quan, ngịi bút của các nhà văn Tự
lực văn đồn khơng còn sinh lực buổi ban đầu và họ trong tâm thế của kẻ thất bại, chán chường. Về
phía khách quan thì cuộc sống lúc này khơng cịn bình ổn mà đang bị xáo trộn chuẩn bị cho những
khủng hoảng lớn của thời kỳ chiến tranh. Tính chất thực dụng và thế lực của đồng tiền chi phối đời
sống xã hội. Con người trong xã hội cũng như nhân vật của tiểu thuyết bị xô đẩy, trôi dạt về nhiều
ngả và khơng có hướng giải thốt. Tự lực văn đồn chấm dứt dần hoạt động của mình trong thời
điểm này, chấm dứt trào lưu lãng mạn trong văn xuôi vốn đã có những năm tháng huy hồng trên
văn đàn thời hiện đại.
Tự Lực văn đoàn với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ
hoạt động trên mặt trận văn chương và báo chí. Những cơng việc của nhóm là dùng văn chương báo
chí để vận động cải cách xã hội theo tinh thần Tây phương. Những người trí thức Tây học này đã

nhận ra sự nơ lệ của mình: xã hội ta lạc hậu, tinh thần Nho giáo suy đồi, hủ lậu, dân tộc cực khổ thất
học, với nhiều dị đoan, mê tín. Họ thấy rõ muốn thoát khỏi cảnh lệ thuộc trước hết phải nâng cao
dân trí, cải cách xã hội. Họ muốn cải cách xã hội cũ, hạ bệ chế độ đại gia đình, đập tan xiềng xích
trói buộc của ln lý Khổng Mạnh. Họ đấu tranh cho quyền tự do yêu đương, cho hạnh phúc cá
nhân,. Họ khơng chấp nhận triết lý dung hịa Âu Á, mới cũ của thế hệ trước chủ trương. Do
đó, các nhà văn chọn thể loại tiểu thuyết theo lối mới làm phương thức đấu tranh, như Lương Khải
Siêu: Muốn làm mới một nước phải hăng làm mới tiểu thuyết nước ấy, cho nên muốn mới đạo đức


Video liên quan

Chủ Đề