Bài văn nghị luận về dân chủ và kỉ luật năm 2024

Bài viết trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân chủ với kỷ cương, pháp luật; phân tích, đánh giá thành tựu, hạn chế của việc nhận thức, giải quyết quan hệ dân chủ với kỷ cương, pháp luật ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân chủ với kỷ cương, pháp luật ở Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ và các tầng lớp nhân dân tỉnh Thanh Hóa năm 1961

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về dân chủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân chứa đựng những giá trị đặc sắc. Đó là kết quả của sự đúc rút, tổng kết thực tiễn Việt Nam và thế giới, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự kế thừa, phát triển giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Giá trị lý luận và thực tiễn của những tư tưởng đó không chỉ được khẳng định bởi tính sâu sắc, dung dị mà còn bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà thực hành dân chủ vĩ đại, là tấm gương thực hành dân chủ rộng rãi và giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật bao gồm những nội dung cơ bản sau:

Một là, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân theo chính thể cộng hòa với hiệu lực pháp lý mạnh mẽ. Trong đó, “dân là chủ”, “dân làm chủ”, “tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[1]. Như vậy, dân chủ ở Việt Nam là chế độ chính trị, nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân lập ra và phục vụ lợi ích của nhân dân.

Hai là, dân chủ tập trung là cơ chế, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt của cả hệ thống chính trị, kể cả các hợp tác xã, các đơn vị kinh tế, văn hóa, giáo dục… Trong cơ chế, nguyên tắc dân chủ tập trung, ngoài các nội dung như thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình,… Người còn nhấn mạnh những nội dung khác như: đoàn kết, khoan dung, thương lượng dân chủ, thống nhất hành động. Hơn nữa, để có dân chủ thật sự thì “tư tưởng phải được tự do”. Tự do tư tưởng là “đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý”, “khi tìm ra chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Cần lưu ý rằng, “chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”, “ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, tức là phục tùng chân lý”[2]. Kỷ luật, pháp luật phải được xây dựng, thực thi bằng phương thức dân chủ; phải đúng quy luật, hợp thời đại, hợp với nước mình và thuận lòng dân.

Ba là, dân chủ ở Việt Nam bao hàm sự thống nhất hữu cơ giữa dân chủ và chuyên chính. Đây là dân chủ kiểu mới và chuyên chính kiểu mới: dân chủ với nhân dân và chuyên chính với những cá nhân, tổ chức phản lại lợi ích của nhân dân. “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khoá, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khoá. Thế dân chủ cũng phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ”[3] và “muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự, vì không chuyên chính thực sự, bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân”[4]. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân; chúng ta cần mở rộng dân chủ đối với nhân dân, đồng thời cần tăng cường chuyên chính với kẻ địch của nhân dân. Có tăng cường chuyên chính với kẻ địch thì mới bảo vệ được tự do và dân chủ của nhân dân ta”[5]. Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, cá nhân với cộng đồng, nhất là quan hệ công dân với công bộc, nhân dân với nhà nước. Trong xã hội dân chủ ở nước ta, nhân dân là chủ, có quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân, tức là: tuân theo pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội, đóng thuế theo quy định, bảo vệ của công, làm nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc, cần, kiệm, làm chủ nơi mình sinh sống, học tập và làm việc. Trong xã hội dân chủ, cán bộ là đầy tớ, là công bộc của nhân dân và đạo đức công bộc là tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thương dân, yêu dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc có hại đến dân phải hết sức tránh.

2. Giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới

Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong hơn 30 năm đổi mới [từ năm 1986 đến nay], Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Điều đó thể hiện qua các nội dung sau đây:

- Nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm giữa nhân dân với nhà nước. Nhân dân có quyền làm chủ và có nghĩa vụ của người làm chủ. Nhà nước thực hiện quyền quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật và có nghĩa vụ, trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đảng thực hiện quyền lãnh đạo nhà nước, xã hội nhưng Đảng cũng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; Đảng có trách nhiệm phục vụ nhân dân nhưng phải chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Tất cả những gì là quyền lợi của nhân dân thì đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước. Nhân dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm; cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép… Thẩm quyền và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức được cụ thể hóa một cách rõ ràng bằng các thể chế pháp lý.

- Nhận thức hài hòa, biện chứng hơn về mối quan hệ dân chủ với tập trung. Ở Việt Nam, dân chủ và tập trung gắn bó tự nhiên, chặt chẽ trong mối quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Sự gắn bó biện chứng giữa dân chủ với tập trung được biểu hiện ở sự thống nhất mật thiết giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; thiểu số phục tùng đa số; cấp dưới phục tùng cấp trên; cá nhân phục tùng tổ chức; thực hiện dân chủ gắn với đoàn kết toàn dân và đồng thuận xã hội trên cơ sở lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân nhiệm, phân cấp, phối hợp và kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau, đồng thời, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương…

- Nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về quan hệ biện chứng giữa dân chủ với chuyên chính; dân chủ với pháp luật, kỷ cương. Theo đó, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương; dân chủ và chuyên chính được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ với nhân dân và nghiêm trị những người phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội. Thực hiện dân chủ rộng rãi đi đôi với việc tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí bằng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế và hình sự[6]. Trên cơ sở đổi mới nhận thức, việc giải quyết, xử lý mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật ở nước ta thời gian qua đã đạt được những kết quả rất cơ bản, đó là:

Thứ nhất, hệ thống thể chế, nhất là thể chế pháp luật được xây dựng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện. Hơn 30 năm qua, nước ta đã 2 lần lập hiến [ban hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013], 3 lần sửa đổi Hiến pháp [năm 1988, 1989 sửa đổi Hiến pháp năm 1980, năm 2001 sửa đổi Hiến pháp năm 1992]. Số luật, pháp lệnh được ban hành tăng gấp gần 8 lần so với số luật, pháp lệnh được ban hành trong 41 năm trước đổi mới [trong số 614 luật, pháp lệnh được ban hành kể từ năm 1945 đến năm 2015, có 65 luật, pháp lệnh được ban hành trong thời gian từ năm 1945 đến năm 1985; 549 luật, pháp lệnh được ban hành trong thời gian từ năm 1986 đến năm 2015].

Thứ hai, quá trình xây dựng pháp luật được thực hiện theo tinh thần dân chủ, phương thức dân chủ, thu hút sự tham gia, đóng góp tích cực, ngày càng chủ động và có hiệu quả của đông đảo các tầng lớp nhân dân với quy trình, quy định chặt chẽ. Việc đông đảo nhân dân tham gia góp ý kiến vào dự thảo Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp năm 2013 là những ví dụ điển hình.

Thứ ba, hệ thống chính trị được tổ chức, hoạt động theo hướng đổi mới, dân chủ hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Dân chủ trong Đảng có tiến bộ; kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được tăng cường. Từ năm 2013 đến nay, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật hơn 4.300 cán bộ, đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kiểm tra, làm rõ, kết luận, quyết định thi hành kỷ luật và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kỷ luật nghiêm minh nhiều tổ chức đảng và đảng viên là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước vi phạm, cả đương chức và đã nghỉ hưu, cả bộ trưởng và chủ tịch tỉnh, cả bí thư tỉnh ủy, thành ủy và ủy viên Bộ Chính trị. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XII đến nay đã thi hành kỷ luật 56 cán bộ diện Trung ương quản lý[7]. Sự phân công, phối hợp, phân cấp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức nhà nước được thực hiện tốt hơn; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể bước đầu được khẳng định, thực thi và phát huy tác dụng tích cực.

Thứ tư, bảo đảm phát huy dân chủ và thực hiện kỷ cương, pháp luật trên các lĩnh vực đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội; quyền lợi đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm; dân chủ gắn liền với tập trung, thống nhất. Với hệ thống thể chế, nhất là thể chế pháp luật ngày càng đầy đủ, hoàn thiện, người dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm; cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.

Thứ năm, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận cả về phương diện nhận thức và thực tiễn. Về lý luận chúng ta đã có mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Về thực tiễn, tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng tỏ rõ hiệu lực, hiệu quả và tương thích, thúc đẩy sự vận hành, phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc giải quyết, xử lý mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như:

Một là, tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn diễn ra ở nhiều nơi, thậm chí có nơi còn nghiêm trọng, kéo dài, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhân dân và làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; nhất là những vụ việc liên quan đến giải phóng mặt bằng, tái định cư, thu hồi, bồi thường đất đai. Điều đó cho thấy, ở nhiều nơi, trong nhiều công việc của xã hội có tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương.

Hai là, tình trạng dân chủ quá trớn, cực đoan, tự do tùy tiện, coi thường kỷ cương, pháp luật, vi phạm các thể chế, quy định dân chủ và quyền tự do dân chủ của người khác còn diễn ra khá phổ biến và nghiêm trọng. Đáng chú ý, các cơ quan nhà nước các cấp đã ban hành và áp dụng nhiều quyết định hành chính, nhiều văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp, pháp luật. Chỉ tính riêng năm 2017 đã có tới hơn 5.600 văn bản trái luật được ban hành[8].

Ba là, ý thức pháp luật của người dân ở nước ta vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Tình trạng “phép vua thua lệ làng”, “lách luật”, lẩn tránh pháp luật,… để vụ lợi, mưu đồ lợi ích cá nhân, gây ra nhiều tiêu cực và bức xúc xã hội. Nhiều người có tâm lý sợ ra tòa, không muốn giải quyết các tranh chấp bằng con đường tư pháp, thờ ơ với cái xấu trong xã hội. Bất chấp quy định pháp luật, không ít cán bộ chủ chốt ở các địa phương không tiếp dân trong nhiều năm liền[9]. Có trường hợp cán bộ bị dân kiện ra tòa nhưng lại coi thường phán quyết của Tòa án[10]…

Bốn là, dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức. Tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng thường đi đôi với việc lãnh đạo, quản lý quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, làm bừa, làm ẩu; mượn danh, nhân danh tập thể để hợp thức hóa quyết định, ý chí cá nhân[11]. Ngược lại, có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, hứa nhưng không làm, nói nhưng không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo; chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước không nghiêm.

3. Một số giải pháp tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, nhận thức đúng đắn về dân chủ, về pháp luật và mối quan hệ chặt chẽ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật trong điều kiện hiện nay. Trong những năm qua, mặc dù trình độ dân trí và trình độ đảng trí đều đã được nâng lên, nhưng nhiều cán bộ, đảng viên và người dân chưa ý thức sâu sắc về trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ, quyền lợi của mình; chưa có tư duy, phong cách dân chủ, thiếu năng lực làm chủ và chưa hình thành thói quen sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật[12]. Nhiều người, kể cả cán bộ, đảng viên lãnh đạo, quản lý vẫn nhận thức phiến diện về dân chủ và pháp luật; nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và Nhà nước vẫn bị hiểu sai lệch, tách dân chủ khỏi tập trung, đối lập tập trung với dân chủ dẫn đến tập trung quan liêu và dân chủ vô tổ chức, vô chính phủ.

Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”[13]. Những nội dung cơ bản trên đây phải biến thành nhận thức, ý thức thường trực, sâu sắc của mỗi người, trước hết là cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, các ngành. Chỉ trên cơ sở nhận thức, hiểu biết đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc thì mới có thể biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí mãnh liệt và hành động cách mạng đúng đắn, hiệu quả. Để thực hiện giải pháp này, trước hết phải chú trọng việc đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện, phương thức tuyên truyền, giáo dục, học tập về dân chủ, pháp luật, nhất là trong hệ thống giáo dục và trên các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả trên mạng xã hội cũng như trong tổ chức, hoạt động, sinh hoạt hàng ngày của các tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các đơn vị kinh tế - xã hội cũng như trong các cộng đồng dân cư[14].

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật theo yêu cầu dân chủ.

Thực hiện giải pháp này cần chú trọng một số nội dung chính sau:

Một là, Đại hội lần thứ XII của Đảng nêu quan điểm có tính nguyên tắc của việc thực hiện mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật như sau: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”[15]. Tuy nhiên, nguyên tắc đó phải được cụ thể hóa, thể chế hóa bằng hệ thống cơ chế, chính sách, các quy định, quy chế, văn bản pháp luật cụ thể.

Hai là, tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Tiếp tục thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật bảo đảm xây dựng con người và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện đoàn kết, đồng thuận, công bằng, an sinh, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, thể chế hóa, cụ thể hóa hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ. Nghiên cứu xây dựng, ban hành quy chế dân chủ trong sinh hoạt Đảng; hoàn thiện cơ chế, quy định về chất vấn trong Đảng; các quy định về kiểm soát quyền lực, có chế tài xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng…

Bốn là, thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Hoàn thiện cơ chế giải trình, đối thoại với dân, tiếp dân, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, quy định về từ chức, cách chức, bãi miễn, xử lý quan liêu, tham ô, tham nhũng[16]…

Thứ ba, có cơ chế bảo đảm và thực hiện tốt dân chủ và pháp luật trên thực tế.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo hiến; cơ chế chất vấn, giải trình và chịu trách nhiệm sau chất vấn; cơ chế ứng cử, bầu cử có số dư, cơ chế tranh cử dân chủ trong bầu cử của Đảng và Nhà nước; cơ chế tiếp xúc cử tri, tiếp dân, đối thoại với dân; cơ chế bảo vệ người tố cáo, người chống tham nhũng; cơ chế ngăn ngừa lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, tham ô, tham nhũng; cơ chế thuận lợi cho việc từ chức, cách chức, bãi miễn đại biểu; cơ chế chặt chẽ, thuận lợi cho việc xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật; cơ chế Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng tham gia giám sát, phản biện xã hội.

Chú trọng bảo đảm tính độc lập theo pháp luật của các cơ quan tư pháp, nhất là trong hoạt động xét xử của Tòa án. Khẩn trương thể chế hóa quan điểm “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự”[17].

Phát huy dân chủ phải gắn liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội... Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân[18]. Những cá nhân, tổ chức lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá chế độ, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhân dân, của Tổ quốc đều phải được xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Chỉ như vậy mới bảo vệ được dân chủ và bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.

Để thực hiện dân chủ và kỷ cương trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ và thực hiện nghiêm kỷ luật trong Đảng. Là lực lượng lãnh đạo, dẫn đường cho dân tộc, Đảng phải nêu gương thực hành dân chủ và thực hiện kỷ luật, kỷ cương. Đó là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội và giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Phát huy dân chủ, tích cực phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng; xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm dân chủ, coi thường kỷ cương, phép nước.

Đời sống đất nước đang rất cần phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương, phép nước. Kết quả phòng, chống tham nhũng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII [2016] đến nay cho thấy, cuộc chiến đấu này càng có kết quả thì dân chủ trong Đảng, trong xã hội càng được nâng cao; niềm tin của nhân dân và sự đồng thuận của xã hội được củng cố. Do đó, trong thời gian tới vẫn tiếp tục phải xem đây là một trong những giải pháp có tính quyết định cho việc giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ cương, pháp luật và quyết định đến sự thành bại của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

Chủ Đề