Cách gieo vần trong thơ Đường luật
Cách gieo vần trong thơ Đường luậtThơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại. Hôm nay ATP Academy đã tổng hợp những thông tin giúp bạn làm thơ Đường Luật một cách dễ dàng và đúng luật. Show
Thơ Đường Luật Định nghĩa thể thơ Thất ngôn bát cúThất ngôn bát cú là thể thơ thông dụng trong các thể thơ Đường Luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa chuộng. Đây là hình thức lấy câu thơ bảy chữ làm đơn vị nhịp điệu. Ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc, bắt nguồn từ thơ bảy chữ cổ phong (thất ngôn cổ thể), đến đời Đường, thơ thất ngôn bát cú phát triển rầm rộ. Thể thơ thất ngôn bát cú có bố cục bốn phần, mỗi phần ứng với hai câu đảm nhận nhưng nhiệm vụ cụ thể. Hai câu đề giới thiệu về thời gian, ko gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao. Ở một số trường hợp, phần thực và luận có chung nhiệm vụ vừa tả thực vừa luận, ví dụ như hai câu thực và luận trong bài “Muốn làm thằng cuội của ” của Tản Đà: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi, Trần thế em nay chán nửa rồi! Luật thơ Đường Luật thất ngôn bát cú (TNBC)Hình thức 1 bài thơ ĐL TNBC gồm có 6 yếu tố:
– Chữ thứ 2 của câu 2 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 3 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 4.– Chữ thứ 2 của câu 4 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 5 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 6.– Chữ thứ 2 của câu 6 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 7 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 8. – Chữ thứ 2 của câu 8 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 1 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 2. Nếu bài thơ không thoả bất kỳ điều kiện nào trong tất cả điều kiện trên thì gọi là thất niêm. 4. Đối: Luật niêm và đối 5. Vần Vần được gieo ở cuối các câu chẵn của bài thơ ĐL. Chữ cuối câu 1 có thể cùng vần hoặc không vần. Trong toàn bài thơ chỉ dùng 1 vần duy nhất (gọi là độc vận).Vần có 2 loại: chính vận và thông vận– Chính vận là vần gồm những chữ có âm y hệt nhau, chỉ khác phụ âm đầu và dấu giọng. Thí dụ: trường, sương, dương, thương… – Thông vận là vần gồm những chữ có âm tương tự. Thí dụ: lùng, chung, không, công, tòng, đông, hồng …Nếu dùng chữ mà âm nghe không giống lắm, miễn cưỡng mà dùng tạm thì gọi là cưỡng vận. Nếu dùng chữ có âm hoàn toàn khác nhau thì gọi là lạc vận. Trong 1 bài thơ ĐL có thể dùng cả chính vận lẫn thông vận, cưỡng vận chỉ dùng trong trường hợp bất đắc dĩ và nên dùng ít thôi. Nếu có lạc vận là bài thơ hỏng. 6. Nhịp điệu Bước tới đèo Ngang _ bóng xế tà Cỏ cây chen đá _ lá chen hoa hay: Nhớ nước _ đau lòng con quốc quốc Thương nhà _ mỏi miệng cái gia gia(Bà huyện Thanh Quan) với: Chìm đáy nước _ cá lờ đờ lặn Lửng da trời _ nhạn ngẩn ngơ sa(Ôn Như Hầu) Nước thanh bình _ ba trăm năm cũ Áo nhung trao quan vũ _ từ đây(Đoàn Thị Điểm) Bài thơ ngắt nhịp không đúng cũng không gọi là thơ ĐL. KỸ THUẬT LÀM THƠ ĐL TNBCBố cục bài thơ ĐLTNBCBài thơ ĐLTNBC có 4 cặp câu tạo thành 4 phần: đề, thực, luận, kết – Đề: gồm 2 câu đầu. Câu 1 là phá đề dùng để mở bài, câu 2 là thừa đề tiếp nối với câu 1 nói lên đầu đề của bài . – Thực hay Trạng: 2 câu 3-4 dùng giải thích đầu bài, nếu là tả cảnh thì mô tả cảnh sắc, nếu vịnh sử thì nêu công trạng đức hạnh của nhân vật, v.v… – Luận: 2 câu 5-6 nói lên cảm xúc, ý kiến khen chê hay so sánh, v.v… – Kết: 2 câu cuối tóm ý nghĩa cả bài. Luật bằng trắc trong bài thơ ĐLTNBC – Luật trắc vần bằngT T B B T T B (vần) B B T T T B B (vần) B B T T B B T T T B B T T B (vần) T T B B B T TB B T T T B B (vần) B B T T B B T T T B B T T B (vần) – Luật bằng vần bằng B B T T T B B (vần) T T B B T T B (vần) T T B B B T T B B T T T B B (vần) B B T T B B T T T B B T T B (vần) T T B B B T T B B T T T B B (vần) – Luật trắc vần trắc T T B B B T T (vần) B B T T B B T (vần) B B T T T B B T T B B B T T (vần) T T B B T T B B B T T B B T (vần) B B T T T B B T T B B B T T (vần) – Luật bằng vần trắc B B T T B B T (vần) T B B B T T (vần) T T B B T T B B B T T B B T (vần) B B T T T B B T T B B B T T (vần) T T B B T T B B B T T B B T (vần) Bất luận và khổ độcGiữ đúng luật bằng trắc của bài thơ ĐL rất khó, làm hạn chế việc sử dụng từ ngữ và diễn đạt ý tưởng nên trong thơ ĐL có thêm luật “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”, tức là trong 1 câu thơ ĐL không cần giữ đúng luật bằng trắc ở các chữ thứ 1, 3 hay 5, nhưng chữ thứ 2, 4 và 6 thì tuyệt đối không thể du di được . Tuy vậy khi sử dụng luật bất luận, chữ theo luật là trắc mà đổi sang bằng thường thì không sao, nhưng nếu bằng mà đổi sang trắc đôi khi đọc nghe không êm tai, phải nên tránh . Những chữ thứ 5 của câu lẻ và chữ thứ 3 của câu chẵn nếu theo luật đáng là bằng mà lại đổi thành trắc theo luật bất luận thì gọi là khổ độc. Một bài thơ bị nhiều lỗi khổ độc sẽ kém giá trị! Các lỗi thường xuất hiện trong thơ Đường Âm điệu tiết tấu bài thơ ĐLMột bài thơ theo đúng hết quy định bằng trắc của luật thơ đôi khi đọc lên nghe vẫn không xuôi tai, đó là vì sử dụng không khéo các tiếng trầm bổng. Mặc dù chữ có dấu huyền (trầm bình thanh) và chữ không dấu (phù bình thanh) đều là thanh bằng, chúng lại không tương đương nhau về mặt cao thấp khi đặt trong câu. Để câu thơ đọc nghe du dương réo rắt tránh dùng chỉ toàn một loại thanh mà cần phải thay đổi, xen kẽ các thanh này với nhau trong các vần liên tiếp, hoặc trong các chữ trong câu. Các lỗi thông thường trong bài thơ ĐL TNBC– Trùng vận: Thơ ĐL chỉ dùng độc vận, nếu 1 chữ vần được dùng lặp lại ở 2 câu khác nhau thì gọi là trùng vận, bài thơ sẽ hỏng. Tuy nhiên nếu chỉ là tiếng đồng âm mà khác nghĩa thì được coi là 2 chữ vần khác nhau, không phạm lỗi. – Trùng từ: Cùng 1 chữ được dùng nhiều lần ở trong bài thơ, ngoại trừ trường hợp cố ý, thì gọi là lỗi trùng từ hay điệp từ. Dùng lại chữ 1 lần thì tạm chấp nhận, dùng lại 2, 3 lần thì bài thơ kém. Trong trường hợp sử dụng mỹ từ pháp điệp ngữ thì không tính là lỗi. – Phong yêu hạc tất Bài thơ ĐL chỉ gieo vần ở các chữ cuối câu. Nếu chữ thứ 4 trong 1 câu cũng vần với chữ cuối câu thì phạm lỗi phong yêu hạc tất – Bình đầu Bài thơ mà có nhiều câu liên tiếp bắt đầu bằng những tiếng cùng một từ loại, cùng một cấu trúc câu thì phạm lỗi bình đầu, ngoại trừ trường hợp cố tình làm có mục đích rõ rệt. Nguyễn Trung Phong Một thoáng mơ hồ Thời gian lặng lẽ lại thầm trôi Gánh nặng tâm tư tưởng hết rồi Một thoáng vô tình ta chợt thấy Trong lòng ẩn hiện chẳng là tôi
|