Cách viết câu phủ định trong tiếng Việt
Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng việtBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.68 KB, 54 trang ) Khóa luận tốt nghiệp Tôi xin cam đoan khóa luận về đề tài Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt không trùng với bất kì khóa luận nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 08, tháng 5, năm 2009 Sinh viên Phạm Thị Hoa Phượng Phạm Thị Hoa Phượng 4 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Như ta đã biết, câu phủ định là một trong những vấn đề đã được đề cập đến trong hầu hết các công trình nghiên cứu của Việt ngữ học. Về mặt lí luận, đây là vấn đề thuộc về một lĩnh vực khoa học mà hầu hết các nhà nghiên cứu đã đi đến thống nhất. Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu mới chủ yếu đi vào các vấn đề lí luận nói chung về câu phủ định mà chưa đi sâu nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của hành vi phủ định trong tiếng Việt với sự phong phú, phức tạp của nó trong thực tiễn hoạt động giao tiếp hằng ngày. Chính vì vậy, đây vẫn còn là một vấn đề đang cần được quan tâm nghiên cứu. Trước đây, khi chưa có sự soi sáng của Ngữ pháp văn bản và Ngữ dụng học, câu tiếng Việt thường được xem xét, nghiên cứu dựa vào hai căn cứ sau: + Căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của câu + Căn cứ vào mục đích nói năng Ngày nay, khi Ngữ dụng học đã phát triển rộng rãi, việc nghiên cứu, tìm hiểu câu tiếng Việt đã có sự thay đổi. Bên cạnh những cách nghiên cứu câu theo các tiêu chí truyền thống, người ta còn nghiên cứu, tìm hiểu, phân loại câu theo các chức năng, công dụng thực hiện hành vi ngôn ngữ của chúng. Các cách phân loại này chính là cách phân loại câu theo mục đích sử dụng cụ thể, sinh động của nó trong chức năng giao tiếp. Như vậy, muốn hiểu được nội dung ý nghĩa của câu ( theo cách phân loại này) người đọc nhất thiết phải đặt câu trong hoàn cảnh tình huống giao tiếp và phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể. Qua đây chúng ta thấy, sự phân loại này đã đem đến một hướng tiếp cận mới về câu phủ định, về hành vi phủ định nói riêng, cũng như các hành vi ngôn ngữ nói chung. Phạm Thị Hoa Phượng 5 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Xuất phát từ tình hình thực tế sự chuyển hướng của ngôn ngữ học và việc dạy học về câu nói chung cũng như câu phủ định nói riêng trong chương trình tiếng Việt ở phổ thông hiện nay mà việc nghiên cứu, tìm hiểu về câu phủ định và các hành vi phủ định trong tiếng Việt có ý nghĩa thiết thực đối với không chỉ người viết mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với nghề nghiệp của bản thân người viết. Chính vì những lí do trên mà chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt. 2. Lịch sử vấn đề Có thể nói rằng, trong lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, câu phủ định không phải là loại câu hoàn toàn mới hay mới được phát hiện, mà nó là một vấn đề đã được nghiên cứu khá lâu đời cả ở trong và ngoài nước. Ngay trong giới Việt Ngữ học của nước ta cũng vậy, hầu như công trình nghiên cứu nào, các nhà nghiên cứu cũng ít nhiều quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, trong các công trình thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, mỗi tác giả đều đề cập đến câu phủ định dưới một góc độ, một lĩnh vực khác nhau tùy theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu riêng. Song phần lớn các tác giả đều nhìn nhận, đánh giá câu phủ định dưới góc độ phân loại câu theo mục đích phát ngôn, mà chưa chú ý đến chức năng thực hiện hành vi phủ định hay chưa chú ý đến cách sử dụng chúng, đến mục đích sử dụng chúng trong từng tình huống giao tiếp cụ thể. Sau đây chúng tôi sẽ điểm qua một vài ý kiến bàn về câu phủ định trong tiếng Việt. 1- Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, các tác giả đã đưa ra các vấn đề về câu phủ định như: Đối với câu tả hay câu luận khi phủ định đều có dùng phụ từ phủ định trong cấu tạo phần thuyết. Phạm Thị Hoa Phượng 6 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 2- Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu của mình đã kết hợp logic với cú pháp và ngữ nghĩa để khảo sát câu phủ định. Trong cuốn Logicngữ nghĩa- cú pháp, ông đã đi vào vấn đề câu phủ định bác bỏ, ông đã nhấn mạnh và phân tích khá kĩ khi xem xét việc dùng từ kèm phủ định trong câu phủ định. Bên cạnh đó, dựa vào chức năng ngữ nghĩa cụ thể, tác giả đã phân loại các toán tử logic- tình thái. Ông quan niệm toán tử phủ định có mức độ, mục đích và ý nghĩa khác nhau (phủ định dứt khoát, phủ định thuyết phục, phủ định bác bỏ). 3- Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (tập hai) đã dành hẳn một chương để bàn về vấn đề câu phủ định. Ông đặc biệt chú ý đến vấn đề câu phủ định đích thực (có chứa những phương tiện phủ định và mang nội dung phủ định). Cũng qua đây tác giả đã phân loại hiện tượng phủ định theo quan điểm ngữ pháp. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra vấn đề về câu phủ định miêu tả và câu phủ định bác bỏ. 4- Ngoài ra, trong cuốn Câu tiếng Việt và nội dung dạy- học câu ở trường phổ thông tiến sĩ Nguyễn Thị Thìn cũng đề cập đến vấn đề câu phủ định bác bỏ thực hiện hành vi bác bỏ bằng phương thức phủ định tính chân lí, tính đúng đắn của mệnh đề trong câu. Nội dung của mệnh đề sau phản ánh ý kiến trái ngược với ý kiến trước đó của người đối thoại. Trong khóa luận này, trên cơ sở tiếp thu vận dụng những vấn đè lí luận mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra, dưới ánh sáng của quan điểm nghiên cứu mới - quan điểm của Ngữ dụng học, chúng tôi chỉ tập trung xem xét và miêu tả về hành vi phủ định và cách biểu hiện của hành vi phủ định trong tiếng Việt qua một số ngữ liệu thực tế từ các tác phẩm văn chương và hoạt động giao tiếp hằng ngày. 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ Phạm Thị Hoa Phượng 7 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Thực hiện đề tài Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt, người viết xác định cho mình những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu lí luận ngôn ngữ học để nắm được những kiến thức, những hiểu biết chính xác, hệ thống và cập nhật về câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt. - Trên cơ sở nắm vững những vấn đề lí luận về câu phủ định và hành vi phủ định, tiến hành khảo sát, thống kê và phân loại những biểu hiện cụ thể của hành vi phủ định trong một số tác phẩm văn chương và trong thực tiễn hoạt động giao tiếp. - Phân tích, bình giá các ngữ liệu, rút ra những nhận xét, kết luận về những dạng biểu hiện của hành vi phủ định để thấy được sự phong phú, đa dạng và hiệu quả giao tiếp cụ thể của chúng. 3.2. Mục đích - Củng cố, bổ sung và hệ thống hóa những kiến thức lí luận về ngôn ngữ học nói chung và vấn đề câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt nói riêng. - Vận dụng những kiến thức lí luận đã được cung cấp vào việc tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá một vấn đề cụ thể trong ngôn ngữ học hiện đại đó là tìm hiểu những cách biểu hiện của hành vi phủ định trong thực tế. - Tập dượt làm quen với các phương pháp nghiên cứu khoa học và rèn luyện kĩ năng viết một bài nghiên cứu khoa học thuộc chuyên ngành ngôn ngữ học làm hành trang tri thức cho nghề nghiệp trong tương lai. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Đề tài Câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt là một vấn đề khá rộng và phức tạp. Do đó, chúng tôi không có tham vọng đi khảo sát hết các vấn đề có liên quan đến câu phủ định và hành vi phủ định mà chỉ đi sâu tìm hiểu một số các biểu hiện của hành vi phủ định trong hoạt động Phạm Thị Hoa Phượng 8 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 giao tiếp tiếng Việt để từ đó rút ra những nhận xét và kết luận cần thiết về các dạng thức cụ thể của hành vi này. - Đối tượng khảo sát của chúng tôi chủ yếu là trên cơ sở của các ngữ liệu thống kê từ một số tác phẩm văn học và thực tiễn hoạt động giao tiếp. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 1) Phương pháp hệ thống và khái quát hóa vấn đề 2) Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại 3) Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp 4) Phương pháp phân tích ngôn ngữ 6. Bố cục khóa luận Khóa luận có bố cục như sau: - Mở đầu - Nội dung + Chương 1: Cơ sở lý luận + Chương 2: Các cách biểu hiện của hành vi phủ định trong tiếng Việt - Kết luận - Tài liệu tham khảo Phạm Thị Hoa Phượng 9 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận 1.1.Câu phủ định và sự phân loại câu phủ định 1.1.1. Câu phủ định Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về vấn đề câu phủ định trong tiếng Việt. Tất cả những ý kiến đó đã được chúng tôi đề cập và tập hợp lại trong phần lịch sử vấn đề. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến một quan niệm của một tác giả đó là tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (tập hai). Chúng tôi xem đó như chỗ dựa, như một cơ sở cần thiết cho việc tìm hiểu xem xét vấn đề mà khóa luận này đặt ra. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (tập hai) Diệp Quang Ban đã dành hẳn một chương (chương 4) để bàn về câu phủ định. Đứng trên quan điểm ngữ pháp tác giả đã đưa ra khái niệm về câu phủ định như sau: Câu phủ định là câu xác nhận sự vắng mặt của sự vật hiện tượng hay sự kiện, xác nhận sự vắng mặt của đối tượng trong hiện thực hoặc trong tưởng tượng bằng những phương tiện hình thức xác định. 1.1.2. Phân loại câu phủ định Khi bàn về câu phủ định, các nhà nghiên cứu đã có rất nhiều cách phân loại khác nhau, sau đây chúng tôi sẽ đi vào khảo sát từng cách phân loại cụ thể: 1.1.2.1 Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt tác giả Diệp Quang Ban đã chia câu phủ định thành ba dạng như sau: - Câu phủ định đích thực - Câu phủ định giả - Câu phủ định lâm thời Phạm Thị Hoa Phượng 10 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Câu phủ định đích thực: là câu có chứa các phương tiện phủ định và mang nội dung phủ định Ví dụ: Tối hôm qua, tôi không đi chơi. Câu phủ định giả: là câu có chứa những phương tiện phủ định nhưng không mang nội dung phủ định Ví dụ: Anh ấy mà còn không tốt ư? Câu phủ định lâm thời: là câu không chứa những phương tiện phủ định nhưng có nội dung phủ định Ví dụ: Cô bé ấy mà xinh! 1.1.2.2 Ngoài cách phân loại trên, các nhà nghiên cứu khác đã căn cứ vào cách thức biểu hiện ý nghĩa phủ định, vị trí các từ phủ định trong câu để chia câu phủ định ra làm hai loại: Câu phủ định toàn bộ và câu phủ định bộ phận. - Câu phủ định toàn bộ: là câu chứa phụ từ chỉ ý nghĩa phủ định đứng trước vị ngữ hoặc đứng trước nòng cốt câu: Ví dụ: Nó không đi học. Ở ví dụ này, ta thấy phụ từ phủ định không đứng trước vị ngữ của câu đi học, nó đã phủ định toàn bộ nội dung thông tin của câu này. - Câu phủ định bộ phận: là câu trong đó có các phụ từ phủ định đứng trước một bộ phận, một thành phần phụ nào đó trong câu như: Từ phủ định đứng trước thành phần phụ trạng ngữ của câu hoặc định tố, bổ tố của các cụm danh từ, động tính từ đảm nhiệm các thành phần trong câu. Ví dụ: Nó/ học bài không thuộc. Từ phủ định chỉ phủ định vào bổ tố chỉ kết quả của vị từ trung tâm. 1.1.2.3 Trong logic người ta căn cứ vào đối tượng F được bàn tới trong câu mà chia câu phủ định ra làm hai loại. Ở cuốn Logic - Ngữ nghĩa - Cú pháp Phạm Thị Hoa Phượng 11 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Nguyễn Đức Dân đã chia câu phủ định thành câu phủ định chung và câu phủ định riêng. - Câu phủ định chung: là câu phủ định vào đặc trưng thuộc tính của toàn bộ các sự vật, hiện tượng được nêu ở trong câu Ví dụ: Ở lớp tôi, mọi người đều không biết khiêu vũ. Đây là câu phủ định chung hay câu phủ định tuyệt đối vì sự phủ định ở đây được thực hiện với mọi người, mọi yếu tố. - Câu phủ định riêng: là câu phủ định miêu tả một hoặc một số phần tử của một tập hợp không có một thuộc tính nào đó. Ví dụ: Ở khoa tôi năm nay, một số người / không đi Huế. Đây là câu phủ định riêng vì chỉ có một số người trong tập hợp mọi người là không đi Huế ở khoa tôi năm nay. 1.1.2.4 Ngoài ra, người ta còn phân loại câu phủ định thành câu phủ định miêu tả và câu phủ định bác bỏ. - Câu phủ định miêu tả: là câu phủ định dùng trong hành động ngôn ngữ miêu tả sự vật, hiện tượng, sự kiện. Ví dụ: Trên trời không một vì sao. Đây là câu phủ định miêu tả xác nhận sự vắng mặt của hiện tượng sao. - Câu phủ định bác bỏ: là câu được dùng trong đối đáp cải chính, để bác bỏ ý kiến, nhận định của người khác hoặc dùng trong quá trình suy nghĩ để tự bác bỏ ý kiến, điều cảm nghĩ của chính bản thân mình ( Diệp Quang Ban- Ngữ pháp tiếng Việt- tập hai- Trang 248) Ví dụ A: Cô bé ấy xinh nhỉ! B: Cô bé ấy không xinh. Đây được coi là câu phủ định bác bỏ vì lời đáp của B đã phủ định lại ý kiến của A. Phạm Thị Hoa Phượng 12 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Trên đây là những vấn đề cơ bản về câu phủ định và sự phân loại câu phủ định trong tiếng Việt. 1.2. Hành vi ngôn ngữ và hành vi phủ định trong tiếngViệt 1.2.1. Hành vi ngôn ngữ 1.2.1.1 Khái niệm Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu bàn đến vấn đề hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt. Đây là một khái niệm đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm tòi, khám phá như GS.TS Nguyễn Đức Dân; GS.TS Đỗ Hữu Châu; TS Nguyễn Thị ThìnỞ đây chúng tôi chỉ đề cập đến một quan niệm của một tác giả đó là tác giả Nguyễn Đức Dân trong cuốn Logic và tiếng Việt. Chúng tôi xem đó là chỗ dựa, như một cơ sở cần thiết cho việc tìm hiểu, xem xét vấn đề mà khóa luận này đặt ra. Cuốn Logic và tiếng Việt đã dành hẳn mục III để bàn về khái niệm hành vi ngôn ngữ. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ cũng còn gọi là lí thuyết hành động lời nói. Người xây dụng nền móng cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ là J.L.Austin với công trình được công bố sau khi ông qua đời: How to do things with words( Từ ngữ làm nên sự vật thế nào?), bản dịch tiếng Pháp của NXB Seuil: Quand dire, cest faire)(X.Austin 1962)( khi nói tức là làm).Phát triển lí thuyết này phải kể tới J.Searle với công trình Speech acts( các hành vi ngôn ngữ). Như vậy, khi thực hiện một phát ngôn trong một tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc của nó, người nói đã thực hiện những hành vi ngôn ngữ nhất định và người nghe cảm nhận được điều này. Điều này có nghĩa là khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ.Hành động ngôn ngữ giống như các loại hành động khác của con người ở chỗ: Nó gây ra biến đổi ít nhiều ở đối tượng tiếp nhận. Phạm Thị Hoa Phượng 13 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Khi thực hiện một phát ngôn nào đó, theo Austin, người ta thực hiện đồng thời ba hành vi: Tạo lời, mượn lời và tại lời - Hành vi tạo lời: Khi nói một điều gì đó, chúng ta đã dùng các yếu tố ngôn ngữ, từ ngữ âm, từ vựng tới ngữ pháp, kết hợp lại và tạo ra chuỗi âm thanh làm nên lời nói.Vậy là chúng ta đã thực hiện một hành vi tạo lời. - Hành vi mượn lời: Đây là hành vi mượn các phương tiện ngôn ngữ (các phát ngôn) để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ ở người nghe hay người đọc. Ví dụ phát ngôn: Ngày mai trời sẽ mưa lớn. Trước phát ngôn này, mỗi người sẽ có phản ứng khác nhau như lo lắng, mừng vui, dễ chịu, khó chịu tùy theo công việc của từng người. - Hành vi tại lời: Là hành vi thực hiện ngay từ khi nói và bằng chính sự nói ra câu nói đó. Ví dụ: Cháu mời bác vào nhà uống nước. Trong phát ngôn này, người nói thực hiện ngay bằng chính câu nói đó một hành vi ở lời trực tiếp là mời người lớn tuổi vào nhà uống nước. 1.2.1.2 Phân loại hành vi ngôn ngữ Vấn đề hành vi ngôn ngữ đã được rất nhiều các nhà ngôn ngữ quan tâm, tìm hiểu. Tùy theo từng tiêu chí phân loại cụ thể mà chúng ta có thể xác định được những loại, những dạng hành vi ngôn ngữ khác nhau. Theo cách phân loại của Searle, ông đã đưa ra bốn tiêu chí phân loại như sau: - Đích ở lời ( cái hướng tới, nó là một bộ phận trong hiệu lực ở lời ). Mỗi một hành vi sẽ có đích riêng. - Hướng khớp ghép lời với hiện thực mà lời đề cập đến: Thí dụ trong miêu tả hay trần thuật thì có hướng khớp ghép lời phù hợp với hiện thực nghĩa là lời có sau, hiện thực có trước. Phạm Thị Hoa Phượng 14 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 - Trạng thái tâm lý được thể hiện: Thí dụ hứa hẹn thể hiện ý định của người nói thực hiện cái gì đó. Nội dung mệnh đề (lõi miêu tả): Thí dụ người nghe thực hiện một hành động nào đó là đặc trưng của mệnh đề sai bảo. - Sử dụng bốn tiêu chí trên Searle phân lập được năm nhóm hành vi ngôn ngữ đó là: - Thứ nhất, nhóm tái hiện, biểu hiện (nhóm khẳng định) - Thứ hai, nhóm điều khiển (hành vi mệnh lệnh, yêu cầu, hỏi, cho phép, đề nghị, thách thức). - Thứ ba, nhóm cam kết (hành vi hứa hẹn, tặng, biếu, cam đoan, bảo đảm). - Thứ tư, nhóm biểu cảm (hành vi xin lỗi, chúc mừng, cảm ơn). - Thứ năm, nhóm tuyên bố (hành vi tuyên bố, từ chức, khai trừ, kết tội, bổ nhiệm). 1.2.2. Hành vi phủ định trong tiếng Việt 1.2.2.1. Khái niệm hành vi phủ định Hành vi phủ định là hành vi ngôn ngữ mang ý nghĩa phủ định, phủ nhận, bác bỏ hiệu lực giao tiếp, nội dung thông tin trong hành vi ngôn ngữ trước đó. Đây là loại hành vi mà chúng ta thường gặp trong hoạt động giao tiếp với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng bản chất của hành vi phủ định trong giao tiếp là phủ định để phản bác, bác bỏ lại nội dung phát ngôn của người đi trước không thừa nhận hiệu lực ở lời, hiệu lực thông tin ở hành vi ngôn ngữ trước đó. Tùy thuộc vào từng tình huống giao tiếp và dựa vào ngữ cảnh cụ thể mà người ta chia thành hai loại hành vi phủ định đó là: hành vi phủ định trực tiếp và hành vi phủ định gián tiếp. Phạm Thị Hoa Phượng 15 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 - Hành vi phủ định trực tiếp đó là những hành vi ngôn ngữ có chứa các từ phủ định và nhằm mục đích phủ định, phủ nhận. - Hành vi phủ định gián tiếp đó là những hành vi ngôn ngữ không chứa các yếu tố phủ định nhưng lại mang ý nghĩa phủ định bác bỏ. 1.2.2.2. Các loại hành vi phủ định Hành vi phủ định trong hoạt động giao tiếp rất phong phú và đa dạng, người ta có thể dùng hành vi phủ định để thực hiện chức năng phủ định bác bỏ.Như trên đã nói có hai loại hành vi phủ định là hành vi phủ định trực tiếp và hành vi phủ định gián tiếp. + Hành vi phủ định trực tiếp: Là hành vi thể hiện bằng câu ngữ vi tường minh với sự xuất hiện của các từ: Phủ định, phủ nhận.Và các câu ngữ vi nguyên cấp với sự xuất hiện của các phụ từ phủ định: Không, chẳng, chăng, chưa, không hề, chẳng hề, chưa hề, không phải, chẳng phải, chưa phải. + Hành vi phủ định gián tiếp là hành vi thể hiện bằng câu ngữ vi nguyên cấp không xuất hiện các phụ từ phủ định. Trong cuốn Logic và tiếng Việt GS.TS Nguyễn Đức Dân đã chia hành vi phủ định ra thành nhiều loại với các từ, tổ hợp từ tiêu biểu như sau: Hành vi phủ định gián tiếp của những câu dùng từ phiếm định: Nào, gì, đâu, bao. Hành vi phủ định gián tiếp của những câu dùng sao, mà. Ngoài ra còn rất nhiều hành vi phủ định gián tiếp khác trong hoạt động giao tiếp dùng các từ: Có, còn, thôi, làm gì,thì có, việc gì, thế nào, gì có Trên đây là những vấn đề lí thuyết cơ bản về câu phủ định và hành vi phủ định trong tiếng Việt. Trong khuôn khổ của khóa luận này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cụ thể qua những trường hợp tiêu biểu để từ đó có những kết luận cần thiết và cách sử dụng hiệu quả câu phủ định trong thực tế giao tiếp hằng ngày. Phạm Thị Hoa Phượng 16 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Chương 2 Các cách biểu hiện của hành vi phủ định trong tiếngViệt 2.1. Hành vi phủ định trực tiếp 2.1.1. Hành vi phủ định trực tiếp được thể hiện bằng phát ngôn ngữ vi tường minh với sự xuất hiện của các từ: Phủ định, phủ nhận Đối với câu thể hiện hành vi phủ định trực tiếp chứa các từ: Phủ định, phủ nhận thì chủ ngữ của câu xuất hiện ở ngôi thứ nhất và trong câu không có các hư từ - Phủ định: Bác bỏ sự tồn tại, sự cần thiết của cái gì, trái với khẳng định Ví dụ: A: Anh có ý kiến gì về lời buộc tội của cô ta không? B: Tôi hoàn toàn phủ định lời cô ta nói. - Phủ nhận: Không thừa nhận là đúng, là có thật Ví dụ: A: Họ nghi ngờ anh ăn cắp máy vi tính của công ti M. B: Tôi phủ nhận thông tin đó. Các từ phủ định, phủ nhận xuất hiện trong câu ngữ vi tường minh thể hiện hành vi phủ định trực tiếp thường xuất hiện ít trong thực tiễn giao tiếp. Nó chỉ xuất hiện trong các cuộc tranh luận, tranh cãi. Với chức năng này, nó thực hiện hành vi phủ định phản bác, bác bỏ vào hành vi ngôn ngữ trước đó. Ví dụ: A: Cậu ta nói anh đã đánh cậu ta bị thương. B: Tôi hoàn toàn phủ nhận điều cậu ta nói. 2.1.2. Hành vi phủ định trực tiếp được thể hiện bằng phát ngôn ngữ vi nguyên cấp với sự xuất hiện của các phụ từ phủ định: Không, chẳng, chưa, chăng 2.1.2.1. Hành vi phủ định trực tiếp với sự xuất hiện của phụ từ phủ định không a). Bản chất từ loại Phạm Thị Hoa Phượng 17 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Các nhà nghiên cứu ngữ pháp xưa nay cho rằng: Không là một phụ từ, một danh từ hay là một tính từ. Nhưng tùy thuộc vào từng cách kết hợp từ trong từng tình huống giao tiếp cụ thể mà không có thể tồn tại với chức năng khác nhau. Tuy nhiên trong giới hạn của khóa luận này chúng tôi khảo sát từ không mang ý nghĩa phủ định. Trong trường hợp này không có tư cách là một phụ từ. Ví dụ: 1- không một bóng người. 2- Tôi không làm việc đó. b) Chức năng phủ định - Không có khả năng tham gia các hành vi phủ định miêu tả và phủ định bác bỏ Ví dụ: Hành vi phủ định miêu tả: Hôm nay trời không nắng. Hành vi phủ định bác bỏ: Tôi không làm việc đó. - Không có khả năng tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn và phủ định bộ phận trong câu Ví dụ: Tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn: Buổi tối, nó không đi chơi. Tạo ý nghĩa phủ định bộ phận: Tôi học bài không thuộc. - Không trong các dạng thức kết hợp tạo cho câu những sắc thái tình cảm khác nhau. + Không ở dạng rút gọn trong hội thoại hồi đáp thực hiện chức năng phủ định bác bỏ dứt khoát, thẳng thắn phát ngôn đi trước. Ví dụ: A: Chị ơi! Cho em đi chơi với. B: Không. +Không trong các dạng kết kợp khác thường mang sác thái trung hòa trong việc thể hiện tình cảm. Ví dụ: 1- Nó không đi chơi ở những chốn đó. 2- Bài hát này không hay. Phạm Thị Hoa Phượng 18 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Nếu muốn tạo sắc thái nhấn mạnh có thể thêm từ hề đằng sau. Ví dụ: Tôi không hề làm việc đó. c) Khả năng kết hợp và dạng thức phủ định - Phụ từ phủ định không có thể đứng một mình làm thành câu đặc biệt dùng khi cần bắc bỏ bằng cách phủ định một sự kiện, một tình huống, một ý kiến. Trong trường hợp này nó không phải là dạng rút gọn của một câu hay của một cụm từ tương ứng và nó cũng không phải là một bộ phận của một câu nào đó lân cận tách ra với tư cách biến thể dưới bậc của câu. Ví dụ: Đức bảo nó: - Thì tội gì mà khổ thân Cứ ở nhà này. - Không. - Thế thì tôi đi với mợ Nó sợ hãi - Không (Nam Cao) - Phụ từ phủ định không còn có khẳ năng kết hợp phong phú trong câu. + Không đứng trước vị ngữ trung tâm của câu, tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn cho câu. Mô hình: C- z - V Ví dụ: 1- Anh ấy không ở nhà giờ này. 2- Tôi không có quyển sách đó. + Không đứng đầu bộ phận chủ ngữ, phủ định vào chủ ngữ của câu,tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn cho sự kiện được nêu trong câu. Mô hình: z -C-V Ví dụ: Không một bóng người qua đây. Phạm Thị Hoa Phượng 19 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 + Không có thể đứng trước thành phần trạng ngữ của câu và phủ định thành phần đó để tạo câu mang nghĩa phủ định bộ phận. Mô hình: z- T- C- V Ví dụ: Không ngày nào, nó đi học muộn. + Không có thể đứng trước bổ tố của động, tính từ vị ngữ phủ định vào nội dung được nêu ở bổ tố, tạo khuôn hình câu phủ định bộ phận. Mô hình: C- V- z- B Ví dụ: 1- Anh đọc không rõ. 2- Bông hoa này không đẹp + Không có thể đứng trước định tố của danh từ, phủ định vào nội dung của định tố để tạo câu phủ định định tố. Mô hình: C- z- Đ- V Ví dụ: Quyển sách không bìa thế mà quý đấy. + Ngoài ra, không còn có khẳ năng kết hợp với động từ tình thái phải để tạo thành một tình thái từ mang nghĩa phủ định với sắc thái phủ định cao hơn không. Ví dụ: Không phải ông giám đốc cho mời anh mà tôi mời anh đến có việc. 2.1.2.2. Hành vi phủ định trực tiếp với sự xuất hiện của phụ từ phủ định chẳng a) Bản chất từ loại - Phụ từ chẳng là một phụ từ biểu thị ý phủ định với sắc thái nhấn mạnh. Nó mang tính dứt khoát hơn không. Ví dụ: 1- Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao 2 Một người làm chẳng nổi Phạm Thị Hoa Phượng 20 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 - Bản chất từ loại của từ chẳng cũng được các tác giả trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học) thống nhất 1. Chẳng là một phụ từ 2. Chẳng là một trợ từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về sắc thái nghĩa của từ hoặc tổ hợp từ đứng liền sau. Ví dụ: Có xe, chẳng tội gì phải đi bộ Như vậy, chẳng vừa là phụ từ phủ định vừa là trợ từ tùy thuộc vào từng hoàn cảnh sử dụng nhất định. Tuy nhiên, trong giới hạn của khóa luận này, chúng tôi khảo sát chẳng mang nghĩa phủ định. Trong trường hợp này nó có tư cách là một phụ từ. Ví dụ: Nếu vậy, tôi chẳng cần bạn giúp nữa. b) Chức năng phủ định - Chẳng cũng giống với không có khả năng tham gia tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn và ý nghĩa phủ định bộ phận trong câu. Ví dụ: Tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn: Cây kia chẳng có quả. Tạo ý nghĩa phủ định bộ phận: Một người làm chẳng nổi. - Chẳng biểu thị ý phủ định được nhấn mạnh dứt khoát hơn không.Đồng thời ngoài ý nghĩa thể hiện một thái độ phủ định kiên quyết, Chẳng còn bộc lộ một sắc thái đánh giá chủ quan của bản thân người nói. Ví dụ: A: Cô nghĩ tôi là ai chứ? B: Anh chẳng là gì hết! Câu trả lời của B với phụ từ chẳng thể hiện một thái độ bực tức, quyết liệt, phủ định hoàn toàn câu nói của A. - Chẳng khi đi với phải tạo thành tổ hợp từ mang ý nghĩa phủ định để thanh minh, bác bỏ lại phát ngôn đi trước. Ví dụ: A: Con đánh em khóc đấy à? B: Chẳng phải con đánh em (mà nó bị ngã). Phạm Thị Hoa Phượng 21 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Ở ví dụ trên, câu trả lời của người con đã bác bỏ lại câu hỏi của mẹ về việc mình đánh em, đồng thời cũng là thanh minh, phủ định lại hành vi có tính chất phỏng đoán áp đặt của mẹ. Thực chất của hành vi thanh minh, chối cãi là để bác bỏ điều giả định phỏng đoán của A nhằm thuyết phục người nghe. c) Khả năng kết hợp và dạng thức phủ định - Phụ từ phủ định chẳng đứng đầu bộ phận vị ngữ với tư cách là phụ ngữ của từ làm thành tố chính ở vị ngữ ấy và phủ định vào vị ngữ của câu, tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn cho câu. Mô hình: C- z V Ví dụ: Nam chẳng bỏ học bao giờ. - Phụ từ phủ định chẳng có thể đứng trước chủ ngữ của câu phủ định vào chủ ngữ, tạo câu phủ định toàn bộ Mô hình: z- C-V Ví dụ: Chẳng ai đến đây. - Cũng giống với không, chẳng cũng có thể đứng trước thành phần phụ trạng ngữ của câu, phủ định vào trạng ngữ tạo ý nghĩa phủ định bộ phận cho câu. Mô hình: z- T- C- V Ví dụ: Chẳng ngày nào, tôi ngủ sớm. - Chẳng có thể đứng trước bổ tố trong cụm động, tính từ để phủ định vào các bổ tố đó tạo ý nghĩa phủ định bộ phận cho câu. Mô hình: C- V- z- B Ví dụ: Nó học chẳng thuộc bài - Chẳng khi đứng đầu câu kết hợp với phải tạo tổ hợp tình thái từ mang nghĩa phủ định ở mức độ cao. z(phải)- C- V Phạm Thị Hoa Phượng 22 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 Mô hình: Ví dụ: Chẳng phải người đứng đằng kia tìm bạn, mà người lúc nãy kia. Ví dụ: Chẳng phải quyển sách này của tôi (mà là của bạn kia). -Chẳng còn xuất hiện và phủ định ở câu đặc biệt. Ví dụ: Trong nhà chẳng có người nào cả. 2.1.2.3. Hành vi phủ định trực tiếp với sự xuất hiện của phụ từ chưa a) Bản chất từ loại Chưa được coi là một phụ từ biểu thị ý phủ định đối với điều mà vào thời điểm nói ra câu nói đó nó không có hoặc không xảy ra (nhưng tương lai có thể xảy ra) Ví dụ: 1. Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường. 2. Chưa ai đến cả. 3. Chưa bao giờ như lần này. b) Chức năng phủ định. - Chưa có khả năng tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn hoặc phủ định bộ phận trong câu.Khác với không và chẳng, chưa biểu thị ý nghĩa phủ định gắn với ý nghĩa thời gian.Nghĩa là nó biểu thị ý nghĩa phủ định có giới hạn trong khoảng thời gian quá khứ cho tới thời điểm nói. Ví dụ: Tạo ý nghĩa phủ định hoàn toàn: Tôi chưa đến Pháp lần nào. Tạo ý nghĩa phủ định bộ phận: Nó làm bài tập chưa bao giờ đúng. - Chưa khi đứng một mình để biểu thị ý nghĩa phủ định trong câu thường mang sắc thái tình cảm trung hòa. Ví dụ: 1- Tôi chưa đến thành phố Hồ Chí Minh lần nào. 2- Mẹ tôi chưa mua sách cho tôi. Phạm Thị Hoa Phượng 23 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 - Chưa kết hợp với hề tạo nên sắc thái nhấn mạnh. Nó như một sự cam đoan của người nói và cũng là để thanh minh cho việc làm của mình. Ví dụ: A: Cậu đã lật tung giá sách của tớ đúng không? B: Tớ chưa hề động đến giá sách của cậu. Câu trả lời của B đã thanh minh cho việc làm của mình là chưa hề động đến giá sách cũng là để bác bỏ câu hỏi mang tính chất áp đặt của A về việc làm của mình. -Chưa kết hợp với phải tạo tổ hợp từ mang ý nghĩa phủ định bác bỏ. Ví dụ: A: Cậu làm xong báo cáo chưa? B: Tớ chưa phải làm. c) Khả năng kết hợp và dạng thức phủ định - Chưa đứng đầu bộ phận vị ngữ của câu và phủ định bộ phận vị ngữ đó, tạo dạng thức câu phủ định hoàn toàn. Mô hình: C- z- V Ví dụ: 1- Tôi chưa thấy cơn gió nào to như thế. 2- Nam chưa làm bài tập về nhà. - Chưa có thể đứng trước chủ ngữ để phủ định vào chủ ngữ của câu, tạo ý nghĩa phủ định toàn bộ cho câu. Mô hình: z- C- V Ví dụ: Chưa người nào làm bài tập về nhà. - Chưa cũng có thể đứng trước thành phần phụ của câu hoặc thành tố phụ trong các cụm từ làm chủ ngữ hoặc vị ngữ để phủ định vào các thành phần, thành tố phụ đó tạo dạng thức phủ định bộ phận cho câu. + Chưa đứng trước thành phần trạng ngữ của câu và phủ định vào thành phần đó. Mô hình: z- T- C-V Ví dụ: Chưa gặp anh, nó rất nóng lòng. Phạm Thị Hoa Phượng 24 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 + Chưa phủ định vào bổ tố chỉ kết quả của vị từ trung tâm. Mô hình: C- V- z- B Ví dụ: Nam làm chưa xong bài tập đã đi chơi. + Chưa có thể đứng trước định tố của danh từ phủ định vào nội dung của định tố tạo câu phủ định định tố. Mô hình: C- z- Đ- V Ví dụ: Quyển sách chưa bọc bìa rất hay. - Chưa cũng có thể đứng một mình tạo dạng thức câu rút gọn để thể hiện ý phủ định trong hội thoại. Mô hình: z Ví dụ: A: Cậu làm bài tập toán rồi à? B: Chưa. Như vậy câu trả lời của B đã phủ nhận điều được nêu trong câu mà cho đến một lúc nào đó tại thời điểm nói không có hoặc không xảy ra Ngoài ra người ta còn sử dụng phụ từ chăng để thực hiện hành vi phủ định trực tiếp nhưng số lượng ít. Chăng cũng là phụ từ biểu thị ý phủ định như chẳng, không nhưng chăng không được sử dụng rộng rãi như chẳng, không Ví dụ: 1. Nghe lỏm câu được câu chăng (có câu nghe được có câu không) 2. Có chăng chỉ một mình anh ta biết 2.2. Hành vi phủ định gián tiếp 2.2.1. Tình hình khảo sát, thống kê Căn cứ vào bản chất và chức năng của các từ, tổ hợp từ mang nghĩa phủ định chúng tôi tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học như: Phạm Thị Hoa Phượng 25 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 1.Tuyển tập Nam Cao (tập 1, 2), Nxb Văn học, Hà Nội, 1999 2.Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (tập 1, 2) Nxb Hà Nội, 1997 Qua quá trình khảo sát,chúng tôi thu được khoảng trên 100 phiếu điều tra có chứa các từ, tổ hợp từ mang nghĩa phủ định và tổng hợp các phiếu điều tra thông qua bảng sau: Những hành vi phủ định có chứa các từ mang nghĩa Những hành vi phủ Tổng phủ định định có chứa các tổ hợp từ Tổng mang nghĩa phủ định Đâu 20 Làm gì 6 Nào 14 Thì có 5 Gì 8 Quái gì 7 Có 7 Việc gì 4 Còn 2 Thế nào 6 Cóc 4 Chịu thôi 1 Mà 5 Gì có 1 Mặc 1 Thôi 2 Nhận xét: Qua kết quả khảo sát, thống kê, chúng tôi nhận thấy các hành vi phủ định được hai nhà văn Nam Cao và Vũ Trọng Phụng sử dụng trong các tác phẩm văn học nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào các dạng thức biểu hiện sự phủ định của các hành vi phủ định, chúng tôi phân chia chúng thành ba loại sau: - Hành vi phủ định gián tiếp có chứa các phụ từ mang ý nghĩa phủ định. Phạm Thị Hoa Phượng 26 Khoa: Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSPHN2 - Hành vi phủ định gián tiếp có chứa các tổ hợp từ (kết hợp từ) mang ý nghĩa phủ định. - Hành vi phủ định gián tiếp có chứa các trợ từ mang ý nghĩa phủ định. Qua thực tế thống kê và khảo sát các ngữ liệu thu được, chúng tôi thấy các dạng thức biểu hiện của hành vi phủ định trong các tác phẩm văn học của các nhà văn rất phong phú và đa dạng. Hành vi phủ định có thể được thể hiện bằng nhiều từ và tổ hợp từ khác nhau. Mỗi từ hoặc tổ hợp từ được sử dụng trong các phát ngôn ngoài ý nghĩa phủ định còn mang những sắc thái biểu thị tình cảm, thái độ, dụng ý khác nhau của người nói. Nhờ những ý nghĩa biểu thái đó mà các hành vi phủ định trong tiếng Việt thường có giá trị biểu đạt cao và góp phần quan trọng tạo nên tính chất thẩm mỹ, tính chất nghệ thuật trong việc sử dụng ngôn từ trong tác phẩm văn học nghệ thuật. Chính bởi những ý nghĩa biểu thái cụ thể của mình mà tần số xuất hiện của các dạng thức hành vi phủ định cũng hết sức khác nhau. Thông qua việc khảo sát, phân tích các ví dụ cụ thể, chúng ta có thể tìm hiểu vai trò của các hành vi phủ định qua từng dạng thức biểu hiện của nó. 2.2.2. Các cách biểu hiện cụ thể của hành vi phủ định gián tiếp trong tiếng Việt Dựa trên cơ sở sự phân loại cau phủ định, hành vi phủ định ở phần cơ sở lý luận, phần này chúng tôi sẽ đi vào một số dạng thức cơ bản của hành vi phủ định trong tiếng Việt như sau 2.2.2.1. Hành vi phủ định gián tiếp với sự xuất hiện của các từ mang ý nghĩa phủ định Như trên chúng tôi đã nói, hành vi phủ định là hành vi ngôn ngữ hết sức phổ biến, thông dụng và sự biểu hiện của nó cũng hết sức phức tạp, phong phú.Bởi vậy trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp,chúng tôi không có tham vọng khảo sát và miêu tả tất cả các từ ngữ được nêu trong bảng kết quả khảo sát, thống kê và các dạng thức xuất hiện của nó. Ở đây, chúng tôi Phạm Thị Hoa Phượng 27 Khoa: Ngữ Văn |