Hay Phân tích cái ngông của Tản Đà

    Xuân Diệu đã từng nhận xét Tản Đà: “có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái tôi”. Đây quả là một nhận xét xác đáng về bản lĩnh cá nhân, về cái tôi ngông ngạo, hơn đời của Tản Đà. Cái tôi “ngông” là một nét đặc sắc, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông. Và được thể hiện đặc biệt rõ nét qua tác phẩm Hầu trời.

    Ngông là khái niệm để chỉ tính cách ngang tàng, bất cần. Nhưng đối với kẻ sĩ ngông chính là để thể hiện một cái tôi cao ngạo, khác người. Bởi họ tự tin vào tài năng, nhân cách của bản thân, họ dám đem tài năng để khẳng định với đời.

    Ngông vốn không phải là khái niệm xa lạ trong văn học, ta có thể kể đến những tác giả tiêu biểu cho lối sống đó như cái tôi rất ngông của Nguyễn Công Trứ:

    Vũ trụ nội mạc phi phận sự

    Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

    Hay Tú Xương:

    Ông trông lên bảng thấy tên ông

    Ông tớp rượu vào ông nói ngông

    Trên bảng năm ba thầy cử đội

    Bốn kì mười bảy cái ưu thông.

    Đến Tản Đà, cái ngông tiếp tục được phát triển và được khẳng định một cách mạnh mẽ. Cái ngông trong bài Hầu trời trước hết được thể hiện trong hành động muốn được lên trời, bởi ông cho rằng chỉ có Trời mới đánh giá đúng tài năng của mình:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên sướng lạ lùng.

    Cách vào đề của ông thật dí dỏm, hài hước, ông một mực khẳng định việc mình được lên tiên là thật, không hoảng hốt, không mơ mòng, cái thật ở cả phách, hồn, thân thể. Cuộc vượt thoát trần tục, lên tiên đối với ông là có thật, là không thể chối cãi. Đồng thời ông cũng lí giải lí do mình lên tiên: “Trời nghẹ hạ giới ai ngâm nga/Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà/ Làm trời mất ngủ, trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”. Câu thơ như một lời khẳng định tài năng của bản thân vọng vang cả trời đất, khiến cả Trời cũng phải sai người xuống mời ông lên đọc. Đây là biểu hiện thứ nhất trong cái tôi ngông ngạo của Tản Đà.

    Không dừng lại ở đó, ý thức khẳng định cái tôi được thể hiện rõ hơn ở đoạn ông tự khen chính mình:

    “Đọc hết văn vần lại văn xuôi

    Hết văn thuyết lý lại văn chơi”

    Tài năng hơn người khiến Tản Đà không ngần ngại thể hiện bản lĩnh cái tôi cá nhân, những tác phẩm của ông đều được liệt kê với những đặc điểm nổi bật của chúng: Khối tình con, Thần tiên, Giấc mông, … Rồi ông tự khen mình “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”. Đây không phải là lần đầu tiên Tản Đà tự khen ngợi mình, trong bài Tự trào ông đã viết: “Vùng đất Sơn Tây nảy một ông/ Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng/ Sông Đà núi Tản ai hun đúc/ Bút thanh câu thần sớm vãi vung”. Cho thấy ý thức cao độ về cái tôi của mình trong thơ ông.

    Nghe những lời nhận xét ấy, trời cũng phải bật buồn cười và phê cho “văn thật tuyệt” “văn trời được thế chắc có ít”. Các chư tiên thì khen ngợi bằng những lợi khen ngợi không tiếc lời: lời văn như sao băng, khí văn như mây chuyển, nhẹ như sương, êm như gió,… Và họ tranh nhau ao ước, dặn: “Anh ghánh lên đây bán chợ Trời”. Quả thật chỉ có ở nơi tiên giới này Tản Đà mới tìm được người bạn tri âm tri kỉ với mình, bởi dưới hạ giới văn chương rẻ như bèo, ít được trân trọng. Còn ở đây ông đã tìm được tri âm tri kỉ, bởi chỉ có những người như họ mới cảm nhận được hết tài năng của ông.

    Đã có mấy ai trong văn học, dám xưng họ tên đủ đầy trong tác phẩm của mình, ấy vậy mà có một thi nhân tên Tản Đà, khi hầu trời đã dám làm việc đó: “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/ Quê ở Á Châu và Địa cầu/ Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Một nhân cách hơn người, một bản lĩnh khác thường ở con người tài năng và nhân cách này. Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về bản thân, quê quán, và ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. Cách nói thật trịnh trọng, đầy khẳng định về tài năng, nhân cách của chính mình.

    Đồng thời Tản Đà cũng tự nhận mình là một Trích tiên bị đầy xuống trần gian vì tôi ngông, nhưng ngay sau đó ông đã khẳng định: “Trời rằng: không phải là Trời đày/ Trời định sai con một việc này/ Là việc “thiên lương” của nhân loại”/ “Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Ông xuống trần gian để thực hiện một sứ mệnh cao cả, thực hành thiên lương, đem lại đời sống tốt đẹp cho con người. Nhưng đây quả là một nhiệm vụ khó khăn, ở giữa trốn trần gian đầy hiểm ác, bon chen, giữ được thiên lương và truyền bá thiên lương quả thực không hề đơn giản. Việc ông tự nguyện gánh vác nhiệm vụ Trời trao cho thấy nhân cách cao đẹp của thi nhân.

    Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ

    Dám xin không phụ Trời trông mong

    Thể thơ thất ngôn trường thiên, đã cho phép tác giả thể hiện một cách thoải mái cảm xúc của bản thân. Bài thơ Hầu trời đã thể hiện một cách đầy đủ cái tôi đầy ngông ngạo của Tản Đà trước cuộc đời. Ông ý thức sâu sắc về tài năng của bản thân, ông thời cũng ý thức hiện thực xã hội thối nát lúc bấy giờ. Qua đó cũng cho người đọc thấy một cái tôi ngông nhưng cũng đầy cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.

Đề bài: Phân tích cái tôi ngông của Tản Đà trong bài “Hầu trời”.

Bài văn mẫu

Nam Cao đã từng nói: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” chính điều đó làm nên cái tôi cá nhân có dấu ấn riêng biệt của mỗi tác giả. Tản Đà là một nhà văn có cái tôi ngông khác người nên thơ văn ông để lại một nét đặc sắc không thể lẫn với bất kì nhà văn nhà thơ nào. Đặc biệt cái tôi ngông ấy được thể hiện xuất sắc trong bài thơ “Hầu trời” với lối viết phóng khoáng, tự do khẳng định tài năng của bản thân.

Khái niệm “ngông” trong dùng để chỉ thái độ ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thường với mọi người của các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao về tài năng và phẩm chất cá nhân. Trong văn học trung đại ta đã từng bắt gặp cái tôi ngông của Nguyễn Công Trứ trong “Bài ca ngất ngưởng” hay Cao Bá Quát nay ta lại gặp Tản Đà dù không phải là cái ngông duy nhất nhưng vẫn có những điểm đặc thù do quy định thời đại thi sĩ sống là lúc giao thời Đông Tây, Hán học suy tàn và Tây học bắt đầu phát triển. Thơ văn Tản Đà được coi là dấu gạch nối giữa hai thế kỉ: trung đại và hiện đại.

Trong bài thơ “Hầu trời” cái tôi ngông được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm. Trời ở tận trên cao xa có ai lên đến được với trời để hầu vậy mà Tản Đà lại hầu trời bằng văn thơ. Không chỉ vậy cái ngông ấy còn được thể hiện ở những nội sau.Tác giả tự cho rằng văn thơ mình hay khi “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” nên khiến Trời mất ngủ đành phải cho hai cô tiên xuống mời thi sĩ lên đọc thơ. Ông tự tin khẳng định cái tôi cá nhân của mình bằng cách “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/ Hết văn lí thuyết lại văn chơi”, ông liệt kê những áng văn của mình như: khối tình, khối tình con, thần tiên, giấc mộng, đài gương, lên sáu, đàn bà Tàu, lên tám. Nhà trời nghe xong gật gù khen: “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”/ “Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay”, các chư tiên cũng tấm tắc ngợi ca: “Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi/ Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày/ Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng/ Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”. Thi sĩ đã mượn lời của Trời để khẳng định tài năng văn chương bản thân đặc biệt là câu thơ: “Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt/ Văn trần được thế chắc có ít/…”. Ta từng bắt gặp lời tự ý thức tài năng bản thân trong thơ ông như: “Sông Đà núi Tản đúc nên ai/ Trần thế xưa nay được mấy người”. Tản Đà rất tự tin thể hiện mình bằng tất cả vốn văn chương có được, ông khẳng định có mấy người được như ông.

Cái tôi ngông được thể hiện khi được Trời hỏi danh tính ông đã tự tin xưng tên họ đầy đủ. “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/ Quê ở Á Châu về Địa cầu/ Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Trong thơ ca trung đại với đặc trưng cái tôi cá nhân bị lu mờ nhưng cũng có không ít trường hợp không ngần ngại xưng danh như Hồ Xuân Hương “Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương đã quệt rồi” hay Nguyễn Công Trứ với câu thơ “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Cái ngông của Tản Đà cũng lặp lại điểm giống tuy nhiên cách nói của thi nhân đặc biệt hơn các nhà thơ trước. Ông công khai lí lịch rõ ràng và rất hiện đại có đầy đủ họ tên, quê quán, quốc tịch, châu lục, hành tinh…. Qua đó ta có thể thấy được con người tài năng và phẩm chất đáng quý của ông. Thi sĩ ý thức tài năng văn chương bản thân và tự tin bộc lộ bản ngã cá nhân không chút ngần ngại không những vậy ta còn thấy được tấm lòng yêu nước sâu sắc của bậc trí thức công khai mình ở “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt” trong hoàn cảnh chủ quyền đất nước bị xâm lăng, nền độc lập dân tộc bị đe dọa. Chính điều đó khẳng định tinh thần tự tôn dân tộc của thi sĩ. Đúng như lời nhận xét của Xuân Diệu: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi”

Cái tôi ngông Tản Đà còn được thể hiện khi ông tự coi mình là một vị tiên trên trời bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Ông cũng tự nhận mình là người nhà Trời được sai xuống hạ giới để thực hiện sứ mệnh cao cả: “Là việc thiên lương của nhân loại/ Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Ông tự bịa chuyện lên hầu trời bằng tài năng văn chương cá nhân cũng là để thể hiện sự đối lập nhân cách, lối sống với giai cấp phong kiến, Tản Đà tự thấy mình là người không có ai là kẻ tri âm tri kỉ với mình. Chưa bao giờ ta thấy một cái tôi ngông bạo dạn như thế. Nếu các tác giả trước tự khẳng định mình về con đường công danh, kinh bang tế thế còn Tản Đà lại thể hiện tài văn chương hơn người hơn đời. Một nét đặc biệt cái ngông Tản Đà có điểm đặc thù do sự quy định của thời đại ông sống trong thời điểm giao thời loạn lạc, chế độ phong kiến suy tàn, Nho học nhường lối cho chữ quốc ngữ và văn chương hiện đại nên ông không đề cao “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ trung” như Nguyễn Công Trứ. Ông tự do sống đúng với bản ngã cá nhân mới mẻ phù hợp với thời đại lúc bấy giờ.

Như vậy cái tôi ngông của Tản Đà đã làm nên một dấu ấn cá nhân riêng biệt trong nền văn học dân tộc khiến cho ai đọc thơ ông không thể quên được cái ngông ngạo nghễ với đời thật xác đáng với lời nhận xét của Lê Thanh: “Ông Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối, tôi không muốn nói đến đã chết rồi. Ông ra đời đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng; ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha với đời một cách tự do, ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rãi trong văn thơ”.

Hầu trời (Tản Đà) (dàn ý + 17 mẫu)