Hướng dẫn hủy bỏ đăng ký giảm trừ gia cảnh

Hướng dẫn hủy bỏ đăng ký giảm trừ gia cảnh
Hỏi:

Kính gửi cơ quan quản lý Thuế, Tôi xin được hỏi một tình huống và mong Tổng Cục thuế trả lời giúp vì nhiều Doanh nghiệp vướng mắc. Anh A và chị B là vợ là 2 vợ chồng, sinh được 1 con tên là C. - Năm 2012, anh A đăng ký C là con để giảm trừ người phụ thuộc để thuế TNCN với công ty D nơi anh làm việc. - Năm 2016, chị B đăng ký C là con để giảm trừ gia cảnh với công ty E và hàng tháng công ty E tính lương đều giảm trừ gia cảnh cho chị B và C. - Năm 2017, anh A và chị B ly hôn, quyền nuôi con ( C ) thuộc về chị B. Anh A không có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng vì bản án ly hôn không phán quyết vì không có yêu cầu. Năm 2020, Công ty E sau đó được cơ quan thuế thông báo cháu C đã được anh A giảm trừ gia cảnh ở công ty D nên không được giảm trừ ở công ty E nữa. Chị B đã yêu cầu anh A huỷ bỏ giảm trừ ở công ty D nhưng cả anh A và chị B không thống nhất thoả thuận ai được đăng ký giảm trừ người phụ thuộc là cháu C vì cả 2 đều bất đồng quan điểm. Anh A không đồng ý thôi giảm trừ người phụ thuộc là cháu C. Trong trường hợp này, chị C cho rằng chị là người trực tiếp nuôi con mà không được đăng ký giảm trừ người phụ thuộc cho con là một điều vô lý, không nhân văn, không công bằng. Anh A không có quyền nuôi con, không có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng thì làm sao được quyền tiếp tục hưởng giảm trừ người phụ thuộc. Nếu luật pháp chỉ bảo vệ quyền thoả thuận đăng ký người phụ thuộc trong thời kỳ hôn nhân của các bên mà không có cơ chế huỷ bỏ thoả thuận đăng ký giảm trừ người phụ thuộc khi ly hôn thì đó không phải là một cơ chế công bằng và bình đẳng. Câu hỏi: Chị B phải thực hiện thủ tục gì với cơ quan thuế để dành được quyền đăng ký giảm trừ người phụ thuộc là cháu C sau khi đã ly hôn với anh A? hoặc pháp luật phải sửa đổi để bảo vệ quyền lợi chính đáng của chị B đang có nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng cháu C theo bản án và theo nghĩa vụ quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình. Tôi rất mong quý Tổng Cục thuế quan tâm và mong chờ nhận được giải đáp. Trân trọng,

25/08/2021

Căn cứ Thông tư 111/2013/TT-BTC hướng dẫn luật thuế thu nhập cá nhân tại tiết d.1 điểm d Khoản 1 Điều 9 thì con là người phụ thuộc bao gồm:

"d.1) Con: con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú, con riêng của vợ, con riêng của chồng, cụ thể gồm:

d.1.1) Con dưới 18 tuổi (tính đủ theo tháng).

d.1.2) Con từ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động.

d.1.3) Con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông (tính cả trong thời gian chờ kết quả thi đại học từ tháng 6 đến tháng 9 năm lớp 12) không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng”

Vây, nếu là con mà thuộc một trong các trường hợp nêu trên đều được tính giảm trừ gia cảnh.

Căn cứ tại tiết c.2 điểm c Khoản 1 Điều 9 Thông tư số 111/2013/TT-BTC hướng dẫn luật thuế thu nhập cá nhân về giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc quy định:

"c.2) Giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc

c.2.1) Người nộp thuế được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu người nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.

c.2.2) Khi người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc sẽ được cơ quan thuế cấp mã số thuế cho người phụ thuộc và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi đăng ký. Đối với người phụ thuộc đã được đăng ký giảm trừ gia cảnh trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được giảm trừ gia cảnh cho đến khi được cấp mã số thuế.

c.2.3) Trường hợp người nộp thuế chưa tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc trong năm tính thuế thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi người nộp thuế thực hiện quyết toán thuế và có đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc. Riêng đối với người phụ thuộc khác theo hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều này thời hạn đăng ký giảm trừ gia cảnh chậm nhất là ngày 31 tháng 12 của năm tính thuế, quá thời hạn nêu trên thì không được tính giảm trừ gia cảnh cho năm tính thuế đó.

c.2.4) Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một người nộp thuế trong năm tính thuế. Trường hợp nhiều người nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì người nộp thuế tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một người nộp thuế."

Vậy, cháu C chỉ được tính giảm trừ gia cảnh cho anh A hoặc chị B nên anh A và chị B phải thoả thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh cho một người. Trong trường hợp này, chị B phải thỏa thuận với anh A để anh A cắt giảm trừ người phụ thuộc là cháu C thì chị B mới đăng ký giảm trừ gia cảnh cho cháu C được.