Phân cắt protein glycosyl hóa protein gắn kết với lipid năm 2024

Protein niệu xuất hiện do thay đổi các tế bào nội mô mao mạch, màng đáy cầu thận (GBM) hoặc tế bào chân lồi biểu mô, thường cho phép lọc protein huyết thanh chọn lọc theo kích thước và theo điện tích.

Cơ chế gây tổn thương cho các cấu trúc này hiện chưa được biết rõ trong bệnh cầu thận nguyên phát và thứ phát, nhưng các bằng chứng cho thấy các tế bào T có thể kích thích yếu tố tính thấm trong tuần hoàn hoặc làm giảm hoạt động của yếu tố ức chế tính thấm đáp ứng với các kháng nguyên miễn dịch và các cytokine chưa được xác định. Các yếu tố có thể khác bao gồm các khiếm khuyết di truyền tại các protein gắn với màng lọc cầu thận, hoạt hóa bổ thể dẫn tới tổn thương các tế bào biểu mô cầu thận và mất các nhóm điện tích âm gắn với các protein của màng đáy cầu thận và các tế bào biểu mô cầu thận.

Hội chứng này gây mất các protein phân tử lớn ra nước tiểu, chủ yếu là albumin cũng như các opsonins, globulin miễn dịch, erythropoietin, transferrin, các protein liên kết hormone (bao gồm globulin liên kết hormone tuyến giáp và protein liên kết vitamin D) và antithrombin III. Sự thiếu hụt các protein này và các protein khác góp phần gây ra một số biến chứng (xem bảng ); các yếu tố sinh lý khác cũng có vai trò gây ra các biến chứng.

Phân cắt protein glycosyl hóa protein gắn kết với lipid năm 2024

Các triệu chứng và dấu hiệu của hội chứng thận hư

Các triệu chứng ban đầu bao gồm chán ăn, mệt mỏi và nước tiểu sủi bọt (do nồng độ protein cao).

Sự ứ dịch có thể gây ra

  • Khó thở (tràn dịch màng phổi hoặc phù thanh quản)
  • Đau khớp (tràn dịch khớp)

Các triệu chứng tương ứng có thể xuất hiện, bao gồm phù ngoại biên và cổ trướng. Phù có thể làm mờ các dấu hiệu của triệu chứng teo yếu cơ và gây ra dấu hiệu đường trắng song song ở nền móng (đường Muehrcke).

Các triệu chứng và dấu hiệu khác là do nhiều biến chứng của hội chứng thận hư (xem bảng ).

  • Tỷ lệ protein/creatinine nước tiểu cắt ngang ≥ 3 hoặc protein niệu ≥ 3 g/24 giờ
  • Xét nghiệm huyết thanh học và sinh thiết thận trừ khi biểu hiện lâm sàng cho thấy nguyên nhân rõ ràng.

Dấu hiệu protein niệu tăng có ý nghĩa (3 g protein trong nước tiểu thu thập 24 giờ) là dấu hiệu chẩn đoán (lượng bài tiết bình thường < 150 mg/ngày). Ngoài ra, tỷ lệ protein/creatinine trong mẫu nước tiểu ngẫu nhiên có thể ước tính một cách khá chính xác lượng protein/1,73m2 diện tích bề mặt da (BSA) trong mẫu thu thập 24h (ví dụ, với giá trị 40 mg/dL protein và creatinine 10 mg/dL [884 micromol/L] trong mẫu nước tiểu ngẫu nhiên tương đương với lượng protein 4 g/1,73 m2 trong mẫu nước tiểu 24 giờ).

Việc tính toán dựa trên mẫu nước tiểu ngẫu nhiên có thể ít tin cậy hơn khi sự bài tiết creatinine ở mức cao (ví dụ như trong khi luyện tập thể dục thể thao) hoặc ở mức thấp (ví dụ như trong hội chứng suy mòn). Tuy nhiên, tính toán dựa trên các mẫu nước tiểu ngẫu nhiên thường được áp dụng hơn mẫu nước tiểu 24 giờ vì việc thu thập nước tiểu thuận tiện hơn và ít bị sai sót hơn (ví dụ do thiếu tuân thủ); thuận tiện hơn trong việc đánh giá sự thay đổi xét nghiệm trong quá trình điều trị.

Ngoài protein niệu, xét nghiệm nước tiểu có thể phát hiện các trụ niệu (trụ hyalin, trụ hạt, trụ mỡ, trụ sáp hoặc trụ tế bào biểu mô). Lipid niệu, sự hiện diện của lipid tự do hoặc lipid trong các tế bào ống thận (thể mỡ tròn), trong các trụ (trụ mỡ) hoặc dưới dạng các globulin tự do, gợi ý có bệnh cầu thận gây ra hội chứng thận hư. Có thể phát hiện cholesterol trong nước tiểu dưới kính hiển vi quang học và biểu hiện dưới dạng hình chữ thập Maltese dưới ánh sáng phân cực chữ thập, có thể phải sử dụng nhuộm Sudan để hiển thị triglycerides.

Xét nghiệm hỗ trợ giúp đánh giá mức độ nặng và biến chứng.

  • Nồng độ urê máu và creatinine thay đổi theo mức độ suy thận.
  • Albumin huyết thanh thường < 2,5 g/dL (25 g/L).
  • Cholesterol và triglyceride toàn phần thường tăng.

Không cần thiết phải định lượng nồng độ alpha- và gammaglobulin, globulin miễn dịch, ceruloplasmin, transferrin và các thành phần bổ thể, nhưng nồng độ các chỉ số này có thể cũng thấp.

Vai trò của xét nghiệm tìm các nguyên nhân thứ phát của hội chứng thận hư (xem bảng ) còn đang tranh cãi vì bằng chứng còn thấp. Các xét nghiệm được chỉ định dựa trên tình trạng lâm sàng. Các xét nghiệm có thể bao gồm:

  • Glucose huyết thanh hoặc Hb glycosyl hóa (HbA1C)
  • Kháng thể kháng nhân
  • Điện di protein huyết thanh và nước tiểu
  • Cryoglobulin
  • Yếu tố dạng thấp
  • Nồng độ bổ thể (C3, C4)

Kết quả xét nghiệm có thể ảnh hưởng đến điều trị và loại trừ khả năng phải sinh thiết thận. Ví dụ, xuất hiện cryoglobulins gợi ý bệnh cryoglobuline máu hỗn hợp (ví dụ, do các tổn thương viêm mạn tính như là Lupus ban đỏ hệ thống Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) Lupus ban đỏ hệ thống là một bệnh lý viêm tự miễn mạn tính có biểu hiện bệnh ở nhiều hệ cơ quan, xảy ra chủ yếu ở phụ nữ trẻ tuổi. Các biểu hiện phổ biến có thể bao gồm đau khớp và viêm khớp... đọc thêm

Phân cắt protein glycosyl hóa protein gắn kết với lipid năm 2024
, hội chứng Sjögren Hội chứng Sjögren Hội chứng Sjögren là một bệnh viêm tự miễn hệ thống mạn tính, không rõ nguyên nhân. Bệnh được đặc trưng bởi triệu chứng khô miệng, mắt, và các màng nhầy khác (hội chứng sicca) do thâm nhiễm... đọc thêm
Phân cắt protein glycosyl hóa protein gắn kết với lipid năm 2024
, hoặc nhiễm vi rút viêm gan C Viêm gan C, mạn tính Viêm gan C là nguyên nhân phổ biến gây ra viêm gan mạn tính. Bệnh thường không có triệu chứng cho đến khi các biểu hiện của bệnh gan mạn tính xuất hiện. Chẩn đoán được khẳng định bằng cách tìm... đọc thêm ) và sự xuất hiện protein đơn dòng trên điện di protein huyết thanh hoặc điện di protein trong nước tiểu gợi ý bệnh lý gamma đơn dòng (ví dụ: đa u tủy Đa u tủy xương Đa u tủy xương là ung thư của tương bào mà sản xuất ra các globulin miễn dịch đơn dòng, xâm lấn và phá hủy xương lân cận. Các biểu hiện thường gặp bao gồm tổn thương tiêu xương gây đau và/hoặc... đọc thêm
Phân cắt protein glycosyl hóa protein gắn kết với lipid năm 2024
), đặc biệt là ở những bệnh nhân\> 50 tuổi có thiếu máu Tổng quan về Giảm sinh hồng cầu Thiếu máu, giảm số lượng hồng cầu (RBC), hemoglobin (Hb), hoặc hematocrit (Hct) do giảm sản xuất hồng cầu (giảm sinh hồng cầu), tăng phá hủy hồng cầu, mất máu, hoặc phối hợp các yếu tố này.... đọc thêm .

  • Điều trị nguyên nhân gây bệnh
  • Ức chế Angiotensin
  • Hạn chế Natri
  • Statins
  • Thuốc lợi tiểu nếu quá tải dịch
  • Hiếm khi phải cắt thận

Điều trị các bệnh nền có thể bao gồm điều trị nhanh chóng các bệnh nhiễm trùng (ví dụ: viêm nội tâm mạc do tụ cầu, sốt rét, giang mai, bệnh sán máng) và ngừng dùng thuốc (ví dụ: vàng, penicillamine, thuốc chống viêm không steroid [NSAID]); những biện pháp này có thể chữa khỏi hội chứng thận hư trong những trường hợp cụ thể.

Hạn chế protein không còn được khuyến cáo vì thiếu hiệu quả được chứng minh trên sự tiến triển của bệnh.

Hạn chế natri (< 2 g natri, hoặc khoảng 100 mmol/ngày) được khuyến cáo cho bệnh nhân có phù trên lâm sàng.

Các thuốc lợi tiểu quai thường được dùng để kiểm soát phù nhưng có thể làm xấu thêm tình trạng suy thận trước đó và tình trạng giảm thể tích, tăng độ nhớt máu, tăng đông và do đó nên được sử dụng chỉ khi chế độ ăn hạn chế natri không hiệu quả hoặc có bằng chứng về tình trạng quá tải dịch trong lòng mạch. Trong trường hợp nặng của hội chứng thận hư, truyền albumin tĩnh mạch sau đó dùng lợi tiểu quai có thể được chỉ định để kiếm soát phù.

Hạn chế cholesterol và chất béo bão hòa được khuyến cáo giúp kiểm soát rối loạn lipid máu.

Thuốc chống đông được chỉ định để điều trị tình trạng huyết khối, nhưng có rất ít dữ liệu hỗ trợ cho việc sử dụng chúng như biện pháp phòng ngừa ban đầu.

Tất cả các bệnh nhân cần được tiêm phòng phế cầu nếu không có chống chỉ định khác.

Tiên lượng thay đổi theo nguyên nhân. Đáp ứng hoàn toàn có thể đạt được một cách tự nhiên hoặc với điều trị. Tiên lượng nói chung là tốt ở các tổn thương đáp ứng với điều trị corticoid.

Trong mọi trường hợp, tiên lượng có thể không tốt nếu xuất hiện các dấu hiệu sau đây:

  • Nhiễm trùng
  • Tăng huyết áp
  • Nồng độ Nitơ máu tăng cao
  • Đái máu
  • Huyết khối tĩnh mạch não, phổi, ngoại vi hoặc thận
  • Hội chứng thận hư là phổ biến nhất ở trẻ nhỏ, thường là tự phát, và thường là bệnh cầu thận thay đổi tối thiểu nhất.
  • Ở người lớn, hội chứng thận hư thường là thứ phát, thường gặp nhất thứ phát do đái tháo đường hoặc tiền sản giật.
  • Cần nghĩ đến hội chứng thận hư ở những bệnh nhân, đặc biệt là trẻ nhỏ, có phù hoặc cổ trướng không giải thích được.
  • Chẩn đoán xác định hội chứng thận hư dựa vào dấu hiệu tỉ lệ protein/creatinine nước tiểu ngẫu nhiên ≥ 3 hoặc protein niệu ≥ 3 g/24 giờ.
  • Làm xét nghiệm tìm các nguyên nhân thứ phát và sinh thiết thận một cách có chọn lọc dựa trên các biểu hiện lâm sàng.
  • Ở trẻ bị hội chứng thận hư nguyên phát cải thiện bệnh sau điều trị với corticosteroid thường được quy ước có tổn thương bệnh cầu thận thay đổi tối thiểu.
  • Điều trị rối loạn theo nguyên nhân bằng liệu pháp điều trị bệnh cụ thể.

Dùng thuốc ức chế angiotensin, hạn chế natri và thường dùng thuốc lợi tiểu và/hoặc statin để kiểm soát protein niệu, phù và tăng lipid máu.