Phân tích giá trị nhân đạo trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

[ Văn mẫu 9 ] Tuyển tập những bài văn hay nghiên cứu và phân tích giá trị nhân đạo trong siêu phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du .

Phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện thông qua niềm thương xót cho số phận đau thương của con người và sự tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người. Tham khảo bài hướng dẫn dưới đây để hiểu hơn về vấn đề này và hoàn thành tốt bài viết về giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du thể hiện trong Truyện Kiều nói chung và cụ thể ở 4 đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” nói riêng.

Đề bài

Bạn đang đọc: Phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Truyện Kiều của Nguyễn Du.: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩmcủa Nguyễn Du .* * *

Hướng dẫn làm bàiphân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài : chỉ ra những biểu lộ của giá trị nhân đạo được Nguyễn Du biểu lộ trong Truyện Kiều- Đối tượng làm bài : giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều- Phương pháp làm bài : nghiên cứu và phân tích, chứng tỏ

2. Các vấn đề chính cần triển khai

Luận điểm 1: Trân trọng vẻ đẹp của con người

Luận điểm 2: Thương xót cho số phận đau thương của con người

Luận điểm 3: Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người

Luận điểm 4: Thấu hiểu ước mơ của con người

3. Lập dàn ý

Xem dàn ý chi tiết cụ thể : Dàn ý nghiên cứu và phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều

4. Sơ đồ tư duy

Phân tích giá trị nhân đạo trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

Xem thêm: Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều

Sau khi khám phá về khung dàn bài với những ý chính cần tiến hành trong bài, những em hãy tìm hiểu thêm thêm 1 số ít bài văn mẫu nghiên cứu và phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều dưới đây để có thêm sáng tạo độc đáo làm bài nhé !

Văn mẫu tìm hiểu thêmphân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều

Bài văn mẫu 1:

Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều thể hiện qua các đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”

Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Truyện Kiều là tập đại thành của ông kết tinh những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đọc các đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”,“Mã Giám Sinh mua Kiều”, ta thấy tác giả đã xót thương cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều nhưng đó cũng đồng thời là nỗi xót thương cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết biểu hiện ở tấm lòng thương xót đối với người phụ nữ bất hạnh. Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du giúp người đọc thấy được tấm lòng của ông cho nhân vật Thúy Kiều. Thúy Kiều là người con hiếu thảo. Trước cơn gia biến, nàng quyết định bán mình chuộc cha và em. Bằng bút pháp ước lệ, tác giả làm nổi bật tâm trạng tủi hổ, cảm giác nhục nhã, ê chề của Kiều khi nàng bị coi như một món hàng. Một người con gái tài sắc, đức hạnh như nàng Kiều lại trở thành một món hàng đem ra mua bán. Không những thế,bọn chúng còn “Cò kè bớt một thêm hai”, Nguyễn Du đã cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. Nguyễn Du đã thấu hiểu tâm trạng Kiều. Đó chính là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo sáng ngời trong tác phẩm. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn, lo sợ của nàng Kiều. Phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vaò tay Mã Giám Sinh và Tú Bà. Kiều không muốn tiếp khách làng chơi nên nàng đã tìm đến cái chết nhưng nàng lại được cứu sống. Tú Bà vì sợ Thúy Kiều chết đi thì “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” nên dỗ ngon ngọt và vờ đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích đợi tìm nơi tử tế để gả chồng. Thực chất lầu Ngưng Bích là nơi giam lỏng Thúy Kiều – nơi khóa kín tuổi xuân của nàng. Nơi đây cũng chính là điểm khởi đầu cho quãng đường lưu lạc đầy đau thương, tủi nhục của Kiều. Ngòi bút của Nguyễn Du như nhỏ lệ khi miêu tả canhỷ vật thông qua tâm trạng của Thúy Kiều. Giữa thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn thấy “bốn bề bát ngát xa trông”. Một cảm giác cô dơn, buồn tủi và bẽ bàng xâm chiếm tâm hồn nàng. Nàng xót xa cho thân phận, số kiếp mình:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuyaNửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng .Phải chăng đó cũng chính là nỗi xót đau của tác giả dành cho những người phụ nữ tài sắc nhưng xấu số như Thúy Kiều ?

Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở chỗ tác giả ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều bằng những lời tuyệt mĩ. Miêu tả Thúy Vân, ngòi bút của Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng:

Vân xem sang chảnh khác vờiHai chữ “ sang trọng và quý phái ” nói lên vẻ đẹp cao sang, sang trọng và quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp sang chảnh, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời : trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Tác giả đã sử dung những hình ảnh vạn vật thiên nhiên có vẻ như đẹp đặc biệt quan trọng, trong trắng, tinh khiết, bùng cháy rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Khuôn mặt nàng đẹp như trăng rằm. Nụ cười tươi như hoa. Giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngọc ngà. Làn tóc mềm mịn và mượt mà, thướt tha đẹp hơn mây trời. Màu trắng của tuyết vẫn không hề sánh bằng làn da trắng trắng ngần của Thúy Vân. Thiên nhiên cũng phải thua, phải nhường vẻ đẹp của nàng .Bằng giải pháp thẩm mỹ và nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, tác giả đã làm điển hình nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà sang chảnh của người thiếu nữ. Chân dung của Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Vân tạo nên sự êm đềm, hòa hợp với xung quanh. Điều đó dự báo cuộc sống nàng sẽ suôn sẻ, niềm hạnh phúc. Phải là người biết yêu quý cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp Nguyễn Du mới có được sự miêu tả như vậy .Ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không riêng gì ca tụng vẻ đẹp hình thức mà tác giả còn ca tụng vẻ đẹp về mặt tâm hồn, kĩ năng. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc thù nhân vật : “ Kiều càng tinh tế, mặn mà ”. Nàng tinh tế về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật và thẩm mỹ ước lệ : “ thu thủy ” ( nước mùa thu ), “ xuân sơn ” ( núi mùa xuân ), hoa, liễu. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đáng quan tâm là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung chuyên sâu gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự bộc lộ phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái tinh tế của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều tương quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “ làn thu thủy ” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sôi động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, lộng lẫy, linh động. Còn hình ảnh ước lệ “ nét xuân sơn ” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên khuôn mặt tươi tắn. Khi tả Thúy Vân, tác giả hầu hết gợi tả nhan sắc mà không biểu lộ cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả năng lực .

Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: “Cung thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả sắc – tài – tình. Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đễn nỗi mất thành mất nước. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”, báo hiệu số phận của nàng gặp nhiều gian truân, đau khổ. Rõ ràng phải là người có tấm lòng yêu thương mới thấy hết được vẻ đẹp của những con người bất hạnh để mà ca ngợi. Tình cảm xót thương, sự chân trọng về sắc đẹp và tàinăng Thúy Kiều giúp ta hiểu được giá trị nhân đạo thể hiện qua các đoạn trích này nói riêng, trong tác phẩm Truyện Kiều nói chung.

Giá trị nhân đạo còn biểu lộ ở thái độ khinh bỉ, sự chán ghét của tác giả với những kẻ “ buôn thịt bán người ” mà tay “ sinh viên ” họ Mã kia là một nổi bật tiêu biểu vượt trội. Tác giả đã vạch trần bộ mặt xấu xa, đểu cáng của tay buôn người đội lốt sinh viên trường Văn Miếu bằng một loạt những chi tiết cụ thể nói lên sự lỗ mãng, dị hợm của hắn. Mặc dù đã “ ngoại tứ tuần ” nhưng vẫn ăn mặc bảnh bao, mày râu thì nhẵn nhụi không tương thích với lứa tuổi của hắn :“ Quá niên trạc ngoại tứ tuầnMày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. ”Về hành vi, cử chỉ lại càng thể hiện thực chất của một tên thiếu tri thức, vô phép tắc :“ Ghế trên ngồi tót sỗ sàng ”Chỉ với từ “ tót ”, Nguyễn Du như giáng một đòn chí mạng vào cái mặt giả danh tri thức của hắn. về thực chất của hắn lại càng xấu xa, để hắn lộ mặt con buôn bằng hình ảnh :“ Cò kè bớt một thêm hai ”Gặp mái ấm gia đình đang cơn tai biến cần trợ giúp, đáng lẽ một “ sinh viên ” như hắn phải biết đồng cảm, xót thương, ra tay giúp sức nhưng hắn đã không làm thế. Bộ mặt của kẻ buôn người đã được Nguyễn Du lột tả một cách khá đầy đủ nhất. Miêu tả nhân vật Mã Giám Sinh cũng là để nói lên thái độ ghét bỏ của tác giả so với kẻ kẻ là đại diện thay mặt cho xã hội đồng xu tiền, đồng xu tiền đã chà đạp lên mọi giá trị tốt đẹp ở đời – ” Trong ta đã sẵn đồng xu tiền ; Dễ dàng đổi trắng thay đen khó gì ” .

Với “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã cất lên tiếng nói cảm thông, xót xa cho thân phận người phụ nữ, tiếng nói ngợi ca vẻ đẹp của con người và tiếng nói lên án tố cáo xã hội xấu xa tàn bạo, toàn lừa lọc xảo trá mà các đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều là những điển hình cho tư tưởng nhân đạo của tác giả. Qua đó chúng ta cũng thấy được trái tim nhân đạo bao la của tác giả. Nguyễn Du và “Truyện  Kiều” sẽ trường tồn mãi với thời gian.

Tham khảo: Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều

Bài văn mẫu 2:

Truyện Kiều – tác phẩm mang đậm tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du

Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỷ XIX. “Truyện Kiều” của ông là đỉnh cao chói lọi và niềm tự hào lớn của nền văn học cổ Việt Nam.

” Trải qua một cuộc Bể dâuNhững điều trông thấy mà đau đớn lòng “Áng thơ tự sự – trữ tình này không chỉ là tiếng nói lên án những thế lực đen tối, tàn khốc trong xã hội phong kiến thối nát mà còn ” biểu lộ tinh thần nhân đạo cao quý của thi hào Nguyễn Du ” .

Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ “Truyện Kiều“. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng thương yêu con người bị áp bức, chà đạp.

Tinh thần nhân đạo trong ‘Truyện Kiều’, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân cùa cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Kiều không chỉ đẹp “nghiêng nước, nghiêng thành” mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:

” Thông minh vốn sẵn tính trời ,Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm ” .Kim Trọng, một văn nhân, tài tử ” vào trong phong nhã ra ngoài hào hoà “. Là một ” thiên tài ” quy tụ của tinh hoa thời đại ” văn chương nết đất, mưu trí tính trời “. Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu :” Hài văn lần bước dặm xanh ,Một vùng như thể cây quỳnh cành dao ” .Mối tình Kim Trọng – Thúy Kiều là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lể giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của ” người quốc sắc, kẻ thiên tài ” .Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gập tai biến, gia tài bị bọn sai nha ” sạch sành vét cho đầy túi tham “, cha bị tù tội. Kiều đã quyết hi sinh mối tình riêng để cứu cha và mái ấm gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thuý Kiều bộc lộ đức hi sinh và thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động :” Hạt mưa sá nghĩ phận hèn ,Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân “hay :” Thà rằng liều một thân con ,Hoà dù rã cánh, lá còn xanh cây ” .

Đọc “Truyện Kiều“, lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:

” Xót người tựa cửa hôm mai ,Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ … “

Tình tiết “trao duyên” trong “Truyện Kiều” cũng là một nét rất đẹp cùa tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời ‘Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai’, Kiều đã ‘cậy em’ và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa ‘nước non’ với chàng Kim:

” Ngày xuân em hãy còn dài ,Xót tình máu mủ thay lời nước non .Chị dù thịt nát xương mòn ,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây .Chiếc thoa với bức tờ mây ,Duyên này thì giữ vật này của chung. “

Tinh thần nhân dạo trong “Truyện Kiều” còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lí, những khát vọng về tự do.

Từ Hải là một hình tượng mang sắc tố sử thi, một anh hùng xuất chúng có kĩ năng đích thực và sức mạnh khác thường. Một ngoại hình siêu phàm ” Râu hùm hàm én mày ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao “. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng ” Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam “. Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí ” Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ! “. Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực thi :” Anh hùng tiếng đã gọi rằngGiữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ” .Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều ” báo ân háo oán “. Hình tượng Từ Hải là một thành công xuất sắc kiệt xuất của Nguyễn Du trong thẩm mỹ và nghệ thuật thiết kế xây dựng nhân vật, là một biểu lộ thâm thúy về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy, tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hy vọng và niềm tin :” Rằng : Từ là đấng anh hùng .Dọc ngang trời rộng vẫy vùng hiển khơi ” .Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bát ngát của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương thâm thúy .Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã ” Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần “. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan, … uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ : ‘ thương thay ’, ‘ hại thay ’, ‘ làm chi ’, ‘ còn gì là thân ’ tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường :” Thương thay cũng một kiếp người ,Hại thay mang lấy sắc tài làm chiNhững là oan khổ lưu liChờ cho hết kiếp còn gì là thân ! ” .Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh so với mọi người. Người kĩ nữ ” nổi danh tài sắc một thì ” nhưng mệnh bạc đau đớn ” Sống làm vợ khắp người ta. Hại thay thác xuống làm ma không chồng “. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm thê thiết ! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ !” Đau đớn thay phận đàn hà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Xem thêm: To hợp môn A01 gồm những ngành nào? – Angkoo

Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm – Thúy Kiều – đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác “Đoạn trường tân thanh” cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.

Tinh thần nhân đạo cao quý là nội dung tư tưởng rực rỡ tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này, Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn tinh xảo cảm nhận vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư nguyện vọng và số phận của con người, một kĩ năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học Nước Ta .

Nguyễn Du và “Truyện Kiều” sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:

” Nghìn năm sau nhớ Nguyễn DuTiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày … “

Bài văn mẫu 3: 

Vẻ đẹp nhân văn, nhân đạo cao cả của Truyện Kiều

Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trưóc vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du thấm nhuần trong trang thơ Truyện Kiều.

Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện qua sự trân trọng vẻ đẹp của con người, thương xót cho số phận đau thương của con người, tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người và thấu hiểu ước mơ của con người.

Nguyễn Du rất trân trọng vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã dành nhiều ưu tiên khi kiến thiết xây dựng chân dung nhân vật. Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, cụ thể để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa sang trọng và quý phái, sang trọng và quý phái :“ Vân xem sang trọng và quý phái khác vờiKhuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nangHoa cười ngọc thốt đoan trangMây thua nước tóc tuyết nhường màu da ”Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “ tả mây tô trăng ”, “ điểm nhãn ” để dựng nên bức chân dung tinh tế, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn đạt hết :“ Kiều càng tinh tế mặn màSo về tài sắc lại là phần hơnLàn thu thủy, nét xuân sơnHoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ”Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để thiết kế xây dựng chân dung nhân vật, nhưng so với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với vạn vật thiên nhiên, mà thậm chí còn vượt qua vạn vật thiên nhiên, khiến vạn vật thiên nhiên phải “ thua, nhường ”, “ ghen, hờn ” trước vẻ đẹp con người .Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực :“ Phong lưu rất mực hồng quầnXuân xanh xê dịch đến tuần cập kêÊm đềm trướng rủ màn cheTường đông ong bướm đi về mặc ai ”Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu :“ Xót người tựa cửa hôm maiQuạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ ?Sân Lai cách mấy nắng mưaCó khi gốc tử đã vừa người ôm ”Và đức tính thủy chung :“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờChân trời góc bể bơ vơTấm son gột rửa khi nào cho phai ”Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ơn nghĩa :“ Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòngTại ai há dám phụ lòng cố nhân ”Và một tấm lòng bao dung, độ lượng :“ Tha ra thì cũng may đờiLàm ra thì cũng ra người nhỏ nhenĐã lòng tri quá thì nên ”Tiến bộ hơn những nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn tôn vinh người phụ nữ ở phương diện năng lực, ông đã thiết kế xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh công phu :“ Thông minh vốn sẵn tính trờiPha nghề thi họa đủ mùi ca ngâmCung thương làu bậc ngũ âmNghề riêng ăn đứt hồ cầm một trươngKhúc nhà tay lựa nên chươngMột thiên Bạc mệnh lại càng não nhân ”Thương xót cho số phận đau thương của con người. Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm :“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhàThềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàngNgại ngùng dợn gió e sươngNgừng hoa bóng thẹn trông khuôn mặt dày. ”Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “ máu chảy trên đầu ngọn bút ”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều không an tâm của Kiều nơi lầu Ngưng Bích :“ Buồn trông cửa bể chiều hômThuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xaBuồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâuBuồn trông nội cỏ rầu rầuChân mây mặt đất một màu xanh xanh .Buồn trông gió cuốn mặt duềnhẦm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi ”Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần thực chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “ buôn thịt bán người ”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu vượt trội là Mã Giám Sinh .Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “ giám sinh ” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn – một kẻ không biết ” thương hoa tiếc ngọc ” :“ Gần miền có một mụ nàoĐưa người viễn khách tìm vào vấn danhHỏi tên, rằng : Mã Giám SinhHỏi quê, rằng : Huyện Lâm Thanh cũng gầnQuá niên trạc ngoại tứ tuầnMày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh baoTrước thầy sau tớ lao xaoNhà băng đưa lối rước vào lầu trangGhế trên ngồi tót sỗ sàng ”Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước thực chất con buôn của họ Mã :“ Đắn đo cân sắc cân tàiÉp cung cầm nguyệt thử tài quạt thơMặn nồng một vẻ một ưa ,Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu .Rằng : Mua ngọc đến Lam KiềuSính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường ? ”“ Cò kè bớt một thêm hai ”

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả, đó cũng chính là tinh thần nhân đạo của tác phẩm, ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương, tình người, lòng tự tôn.

Xem thêm: Đầu Số 02499 là mạng gì? Tìm Hiểu Chi Tiết Nhất

Tham khảo thêm:

————————–

    Phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều có rất nhiều bài văn mẫu hay mà các bạn có thể tìm đọc để tham khảo. Trên đây chỉ là 3 bài văn hay mà Đọc Tài Liệu sưu tầm được với chủ đề về tính nhân đạo trong Truyện Kiều. Các bạn có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu 9 khác tại doctailieu.com, chúc các bạn học tốt và đạt điểm cao !