Phân tích những yếu tố thúc đẩy sự ra đời NHÀ nước Văn Lang Âu Lạc

Sự giải thể của công xã thị tộc và sự ra đời của công xã nông thôn. Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá độ sang xã hội có giai cấp. Căn cứ vào các di tích khảo cổ thời Hùng Vương từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn ta thấy không những về mặt không gian có sự mở rộng dần và tập trung ở những vùng đồng bằng ven các con sông lớn Bắc bộ, Bắc Trung bộ mà các khu cư trú thường rộng lớn từ hàng nghìn mét vuông cho đến một vài vạn mét vuông và tầng văn hóa khá dày, nhất là giai đoạn Đông Sơn, khu cư trú được mở rộng hơn, có những khu cư trú rộng tới 250.000 m2. Những khu vực cư trú rộng lớn đó là những xóm làng định cư trong đó có một dòng họ chính và còn có một số dòng họ khác cùng sinh sống. Những xóm làng đó dựa trên cơ sở công xã nông thôn (bấy giờ gọi là kẻ, chiềng, chạ). Một công xã bao gồm một số gia đình sống trên cùng một khu vực, trong đó quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn trong công xã bên cạnh quan hệ địa vực (láng giềng). Sự ra đời của công xã nông thôn là một trong những tiền đề cho sự hình thành quốc gia và nhà nước. Nhân tố thuỷ lợi và tự vệ cũng đã đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn. Từ trong cuộc đấu tranh để khắc phục những trở ngại của thiên nhiên (mưa nguồn, nước lũ, bão tố, phong ba, hạn hán) đòi hỏi mọi thành viên không phải chỉ có trong từng công xã, mà nhiều công xã phải liên kết với nhau để tiến hành các công trình tưới, tiêu nước, đảm bảo cho sự phát triển một nền kinh tế mà nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo. Nước ta lại ở vào vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, nằm trên các đầu mối giao thông thuỷ bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây như một đầu cầu từ biển cả tiến vào đất liền. Đây cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và cũng là nơi xảy ra nhiều đụng độ và nhiều mối đe doạ ngoại xâm. Yêu cầu liên kết, thống nhất lực lượng để tự vệ cũng không kém phần cấp thiết như yêu cầu liên kết để đấu tranh chống những trở ngại của thiên nhiên. Sự tăng nhanh về tỷ lệ vũ khí so với hiện vật trong các di tích từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, đã chứng tỏ một hiện tượng nổi lên ở cuối thời Hùng Vương là xã hội có nhiều mối đe doạ và xung đột. Trong hoàn cảnh như vậy, những yêu cầu nói trên đã có tác động đẩy mạnh sự quần tụ thống nhất cư dân sống trong các địa vực khác nhau có cùng tiếng nói và phong tục thành một cộng đồng cư dân thống nhất. Từ thực tế lịch sử đó, trải qua các thế hệ nối tiếp, ý thức xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó họ hàng, làng, nước được tăng cường. Điều đó, đã đưa đến sự liên minh giữa nhiều bộ lạc lớn với nhau (mà sử cũ gọi là 15 bộ) thành một lãnh thổ chung do bộ lạc Văn Lang làm trung tâm. Liên minh bộ lạc Văn Lang là ngưỡng cửa của một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Căn cứ vào phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn, chúng ta thấy trùng khớp với cương vực của Văn Lang thời Hùng Vương. Cương vực đó có 15 bộ lạc lớn, bên cạnh những bộ lạc nhỏ khác sinh sống, có mối quan hệ láng giềng chặt chẽ do có quá trình cùng chung sống bên nhau, có chung một số phận lịch sử, một nhu cầu để tồn tại và phát triển, đã dần dần tạo nên cho cả cộng đồng cư dân một lối sống chung, văn hóa chung. Và như vậy, từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thuỷ, bộ lạc đã hình thành các đơn vị hành chính (bộ) của một quốc gia cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội.

Nhà nước Văn Lang ra đời

Dựa vào tài liệu khảo cổ học, tài liệu thành văn (sử cũ của Trung Quốc và của nước ta) có thể sơ bộ phác hoạ cấu trúc của nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp của bộ máy cai trị tương ứng với 3 cấp quan chức. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, bố tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính (có nghĩa là già làng). Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn. Mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng. Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nghĩ rằng, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều hành xã hội. Sách Hậu Hán thư viết “luật Việt” khác luật Hán hơn mười việc”. Có lẽ “luật Việt” mà Mã Viện dùng là một thứ luật tục. Sử sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt. Đại việt sử lược ghi rằng: Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 tr.CN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505-462 tr.CN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo. Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI tr.CN (ở giai đoạn Đông Sơn). Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã hội phân hóa chưa sâu sắc (như do tác động mạnh mẽ của yêu cầu thuỷ lợi và chống ngoại xâm thúc đẩy cho sự ra đời sớm) nhưng đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam- mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.

(Còn tiếp)

(Last Updated On: 27/08/2021)

Lịch sử Việt Nam thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc.

Những chuyển biến về kinh tế – xã hội

* Về kinh tế: Thời hùng Vương, kỹ thuật luyện kim ngày càng phát triển, công cụ lao động bằng đồng thau ngày càng chiếm ưu thế. Sự tiến  bộ  của công cụ bằng sắt đã  thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển.

Nông nghiệp lúa nước đóng vai trò chủ đạo, phổ biến từ trung du đến đồng bằng. Với việc chế tạo ra lưỡi cày, nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho  nông nghiệp dùng  cuốc trước đó, đánh dấu bước tiến trong nông nghiệp. Sự xuất hiện của các công cụ bằng đồng còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân Việt cổ lúc bấy giờ.

Sự phát triển của kinh  tế nông nghiệp lúa nước đòi hỏi ngày càng bức thiết công  tác trị thủy, thủy lợi, khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác. Đã có một số tài liệu cho thấy, cư dân lúc bấy giờ đã biết sử dụng biện pháp tưới tiêu “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”4. Họ còn biết trồng lúa trên các loại ruộng nước, bãi và nương rẫy với những hình thức canh tác phù hợp. Ngoài trồng lúa là chính, cư dân lúc bấy giờ còn biết nghề làm vườn, trồng rau củ, cây ăn quả.

Cùng với nông nghiệp còn có chăn nuôi, đánh cá và thủ công nghiệp cũng phát triển. Để phục vụ nông nghiệp, cư dân lúc bấy giờ đã biết chăn nuôi trâu bò. Nhiều di tích văn hóa Đông Sơn có nhiều xương trâu bò5. Các gia súc, gia cầm được nhân dân chăn nuôi rộng rãi. Nghề thủ công cũng có những bước tiến quan trọng. Trong đó,  kĩ thuật luyện kim đạt đến trình độ điêu luyện khiến các học giả nước ngoài  kinh ngạc và phủ  nhận tính bản địa của nó. Trống đồng, thạp đồng là những hiện vật tiêu biểu cho trí tuệ, thẩm mĩ và tài năng của người thợ thủ công lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, nghề làm đồ gốm cũng phát triển thêm một bước. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến, chất lượng gốm ngày càng tăng. Hình thức trang trí ngày càng phong phú, đa dạng như: nồi (đáy tròn, đáy bằng, đáy lồi), hoa văn (hình chữ S, dấu thừng, hình ô van)…

Chính sự phát triển của kinh tế trên nhiều lĩnh vực đã tạo điều kiện mở rộng trao  đổi hàng hóa với nước ngoài, chủ yếu với các nước trong khu vực. Hiện tượng một số  trống đồng loại 1 Hegơ của nước Văn Lang ở Thái Lan, Malaixia đã chứng tỏ điều đó.

* Về xã hội: sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện tăng thêm nhiều của cải, sản phẩm dư thừa ngày càng nhiều, tạo nên cơ sở cho sự phân hóa xã hội. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển, xã hội phân hóa giàu nghèo. Ngay từ thời Phùng Nguyên, hiện tượng phân hóa xã hội đã xuất hiện. Trong số 12 ngôi mộ khai quật ở Lũng Hòa (Vĩnh Phú) có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có  tới 20 hiện vật  và 14 hiện vật, một số mộ còn lại có phổ biến từ 3 – 13 hiện vật. Đồ tùy táng giống nhau gồm: công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm6. Điều đó chứng tỏ ở thời kỳ này xã hội đã có sự phân hóa. Sự phân hóa đó diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét  và trải qua quá trình lâu  dài.  Tuy nhiên, sự phân hóa chưa sâu sắc và gắn  liền với phân hóa tài sản, trong xã hội lúc   bấy giờ đã xuất hiện các tầng lớp xã hội khác nhau:

  • Quý tộc: gồm các Tộc trưởng, Tù trưởng bộ lạc, Thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu có khác.
  • Dân tự do: là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội, giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu.
  • Nô tì: là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội.

Sự hình thành nhà nước đầu tiên – Nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương

– Địa bàn, cư dân và niên đại

Căn cứ vào các thư tịch cổ của Việt Nam (Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái, Dư địa chí…); căn cứ vào quá trình chuyển hóa lịch sử từ nước Văn Lang thời Hùng Vương sang nước Âu Lạc thời An Dương Vương, rồi đến hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân  thời  thuộc Triệu, Hán; căn cứ vào các di tích khảo cổ học thuộc văn hóa  Đông Sơn đã phát hiện, có thể khẳng định: Địa bàn cư trú của cư dân Việt cổ thời Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ của nước ta ngày nay và một phần phía Nam Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc).

Cư dân thời Hùng Vương là Lạc Việt, một bộ tộc trong Bách Việt7. Các nhà khảo  cổ học gọi cư dân Bách Việt là giống “Mông Cổ phương Nam”, bao gồm giống người Anhđônêdiêng (Indonêsien) hỗn chủng với người Mông Cổ (Mônggôlôit) tạo ra người Mông Cổ phương Nam.

Dựa vào thành tựu của các ngành khoa học, chủ yếu là khảo  cổ  học, ngày nay  phần lớn các nhà khoa học đều cho rằng thời đại Hùng Vương tương ứng với thời đại kim khí (thời đại đồng thau và sơ kỳ đồ sắt), phát triển qua các giai đoạn:

  • Giai đoạn Phùng Nguyên (có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 – 3.500 năm), thuộc sơ kỳ đồng
  • Giai đoạn Đồng Đậu (có niên đại cách ngày nay khoảng 3.500 – 3.100 năm), thuộc trung kỳ đồng
  • Giai đoạn Gò Mun (có niên đại cách ngày nay khoảng 3.100 – 2.700 năm), thuộc hậu kỳ đồng
  • Giai đoạn Đông Sơn (có niên đại cách ngày nay khoảng 2.700 – 1.900 năm), thuộc thời kỳ đồng thau phát triển và sơ kỳ sắt.

Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển đỉnh cao của đồ đồng sang sơ kỳ đồ sắt. Giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn kéo dài đến một vài thế kỷ sau công nguyên. Tuy nhiên, thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc chỉ tương ứng với giai đoạn từ khoảng thế kỷ VII TCN đến năm 179 TCN.

– Tổ chức nhà nước

Dựa vào  tài liệu khảo cổ học, thư tịch cổ  Việt Nam và Trung Quốc có thể phác  họa cấu trúc của nhà nước thời Hùng Vương theo hệ thống 3 cấp: Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương, có tính chất cha truyền con nối. Hùng Vương vừa là người chỉ huy quân sự, vừa chủ trì các lễ nghi tôn giáo.

Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các Lạc hầu, Lạc tướng. Lạc hầu là những tướng lĩnh to nhỏ, trong tay có quân đội có thể trấn áp  các địa phương  không chịu thuần phục. Lạc tướng trực tiếp cai quản công việc  của các bộ. Nước Văn  Lang được chia thành các bộ (bộ lạc). Đứng đầu bộ là các Lạc tướng (còn gọi là Phụ đạo, Bộ tướng), cũng được đời đời cha truyền con nối. Lạc tướng thực chất  là tù  trưởng hay thủ lĩnh đứng đầu một vùng.

Dưới bộ là các công xã nông thôn (còn gọi là kẻ, chiềng, chạ).  Đứng đầu  công xã là Bồ chính (già làng). Bồ chính lúc đầu là người đại diện cho công xã nhưng sau đó lại nghiêng dần về phía quý tộc. Bên cạnh nhà nước có lẽ còn có một nhóm người có chức năng như một Hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc. Mỗi công xã có nơi trung tâm để hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.

Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán “Luật Việt khác với luật Hán hơn mười điều”8, có thể nghĩ rằng lúc bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều  hành xã hội. Pháp luật thời Văn Lang có lẽ là một thứ luật tục (tập quán pháp) chứ chưa phải luật pháp thành văn.

Như vậy, nhà nước thời Hùng Vương là một hình thái nhà nước phôi thai còn in đậm dấu ấn chế độ bộ lạc – công xã trong quá trình chuyển từ xã hội nguyên thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ mang đặc trưng riêng của phương Đông. Tuy còn  sơ  khai song nó đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Tần và sự hình thành nhà nước Âu Lạc

– Kháng chiến chống Tần

Năm 221 TCN, nước Tần tiêu diệt 6 nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, kết thúc cục diện “thất hùng” thời Chiến Quốc, thống nhất Trung Quốc.

Để thực hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ, nước Tần đã mở rộng những cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô lên phía Bắc, xuống phía Nam, lập ra một đế chế rộng lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.

Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng đã sai Hiệu úy Đồ Thư chỉ huy 50 vạn quân xâm lược đất đai của Bách Việt phía Nam sông Trường Giang. Hàng vạn quân Tần tràn vào lãnh thổ phía Bắc và Đông Bắc nước ta lúc đó.

Lúc bấy giờ, hai tộc người Lạc Việt và Tây Âu vốn gần gũi về dòng máu, địa vực cư trú, văn hóa và kinh tế đã không chịu khuất phục, sát cánh cùng nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Theo sách Hoài Nam Tử của Lưu  An (? –  122 TCN), “người  Việt đều vào rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt” và “họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần”9.

Cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân Lạc Việt và Tây Âu (214 – 208 TCN) đã làm cho quân Tần lâm vào tình thế khốn quẫn “lương thực bị tuyệt và thiếu”, “thây phơi, máu chảy đến hàng chục vạn người”10. Trên đà thắng lợi, người Việt đã tổ chức đánh lớn, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, buộc Tần Nhị Thế phải ra lệnh bãi binh ở đất Việt vào năm 208 TCN.

– Nước Âu Lạc thời An Dương Vương

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần, liên minh Tây Âu – Lạc Việt hình thành và ngày càng mạnh lên. Uy tín của Thục Phán – thủ lĩnh của bộ lạc Tây Âu ngày càng được củng cố. Việc Thục Phán thay thế Hùng Vương có lẽ được thực hiện sau khi cuộc kháng chiến  thành công (năm 208 TCN). Thục Phán lên làm vua, lập  ra nước  Âu Lạc và xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Sự thành lập nước Âu Lạc  không phải là kết quả của một cuộc chiến tranh thôn tính mà là sự hợp  nhất cư dân, đất  đai của Lạc Việt và Tây Âu. Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, khoảng từ năm 208 – 179 TCN.

Tuy vậy, nước Âu Lạc ra đời là một bước kế tục và phát triển cao hơn nước Văn Lang. Kinh tế, chính trị, văn hóa thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ  sở những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang. Đặc biệt, do yêu cầu của cuộc  chiến  đấu  chống ngoại xâm nên kỹ thuật quân sự thời Âu Lạc có những tiến bộ vượt bậc.

  • Sáng chế ra nỏ bắn một lần nhiều phát tên thường gọi là nỏ liễu hay nỏ liên châu. Loại vũ khí lợi hại này được thần thánh hóa thành “nỏ thần”. Năm 1957, khảo cổ học đã phát hiện ở Cầu Vực (phía Nam thành Cổ Loa) một kho mũi tên đồng gồm hàng vạn  chiếc.
  • Kiến trúc quân sự nổi tiếng thể hiện sức mạnh của nước Âu Lạc là thành Cổ Loa. Dấu tích còn lại ngày nay của thành Cổ Loa là 3 vòng thành. Thành ngoài dài hơn 8.000 m, cao 4 – 8 m, vây quanh một khu đất (nay là xã Cổ Loa và một phần các  xã Dục Tú,  Dục Nội thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội)). Thành giữa dài 6.500 m, cao từ 12 – 16 m. Thành trong dài 1.600 m, độ cao trung bình 5m. Chân thành dày từ  20 – 30 m, mặt trên của thành rộng từ 6 – 12 Quanh thành đều có hào sâu và rộng từ 10 – 30 m.

Thành Cổ Loa là công trình lao động quy mô lớn của nhân dân Âu Lạc. Số lượng đất đá đào đắp (ít nhất là 2.168.200 m3) đòi hỏi phải có hàng vạn nhân công. Thành được thiết kế hợp lý và sáng tạo: dùng sông làm hào, dùng gò cao, dải đất cao làm lũy. Xây thành giữa vùng đầm lầy, úng nên nhân dân đã biết phát huy kỹ thuật kè đá tảng để chân thành thêm vững chãi.

Thành Cổ Loa còn thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo của nhân dân Âu Lạc. Đây là một công trình phòng ngự kiên cố và lợi hại, một căn cứ bộ binh gồm nhiều công trình phòng thủ (hào, lũy, ụ công sự, lũy tiền vệ) liên tiếp nhau. Cổ Loa vừa là một căn cứ bộ binh, vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Thuyền chiến có thể vận động khắp 3 vòng thành phối hợp với bộ binh, vừa có thể từ Cổ Loa ra Hoàng Giang, ngược sông Hồng, xuôi sông Cầu, thông ra cả hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình để đi đến mọi miền đất nước.

Chú thích:

4 Dẫn lại theo Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 28.

5 Ở di tích Làng Vạc tìm thấy 13 chiếc răng trâu bò. Ở Đình Chàng tìm thấy sừng trâu bò. Trên trống đồng Đồi Ro có hình bò. Ở di chỉ Gò Mun, xương trâu bò nhà chiếm tỉ lệ 38,7%. Ở Đình Chàng tăng lên 68,7% so với tổng số xương các động vật (Số liệu trích từ Lịch sử Việt Nam, tập 1, Sđd, tr 72).

6 Lịch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến ngày nay), Sđd, tr 32.

7 Bách Việt là tên người Hán gọi cư dân ở phía Nam sông Dương Tử, khác người Hán, bao gồm: U Việt ở Triết Giang, Điền Việt ở Vân Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông (Trung Quốc) và Âu Việt, Lạc Việt (Việt Nam).

8 “Hậu Hán thư ghi: Mã Viện đi qua xứ nào (đất đai Âu Lạc) liền đặt thành quận, huyện; xây thành, quách. Có điều trần về luật của người Việt, so sánh với luật Hán hơn 10 điều, rồi ban bố rõ phép cũ cho người Việt biết để bó buộc dân Việt” trích từ Vũ Văn Mậu, Cổ luật Việt Nam lược khảo, Q1, NXB Sài Gòn, 1969. tr 61 – 62.

9,10 Theo Lưu An viết trong Hoài Nam Tử (Trích theo Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội, 1971, tr 129).

(Tài liệu tham khảo: Đặng Như Thường, Giáo trình tiến trình lịch sử Việt Nam)