Phương pháp xác định nồng độ của thuốc kháng acid
Có nhiều trường hợp khi bị ợ nóng, đương sự liền nhanh chân chạy đến nhà thuốc tây để "tự phục vụ" bằng những loại thuốc kháng acid (antacids), với một suy nghĩ đơn giản là những loại thuốc kháng acid này sẽ nhanh chóng giải quyết được vấn đề. Vậy điều đó có nên không? Thuốc kháng acid là những loại dược phẩm có nhiệm vụ thực hiện một phản ứng trung hòa hydrochloric acid (HCl) tiết ra trong dịch tiêu hóa ở dạ dày, thuốc kháng acid cũng hoạt động như một chất đệm cho acid dạ dày bằng cách làm tăng độ pH, nhằm làm giảm tính acid ở dạ dày. Khi dạ dày có quá nhiều acid sẽ gây ra hiện tượng đau, lở loét hệ tiêu hóa... Vì vậy, những loại thuốc kháng acid được chỉ định dùng để giảm đau và khó chịu trong các rối loạn về hệ tiêu hóa.
Ảnh minh họa Thực tế, có những trường hợp "trục trặc kỹ thuật" ở hệ tiêu hóa là do lượng acid ở dạ dày thấp, thiếu các loại enzyme tiêu hóa, thức ăn không được nhai kỹ trước khi nuốt, vì vậy, lượng thức ăn này sẽ "đình công" ở bộ máy tiêu hóa và "nằm vạ" ở đấy lâu hơn bình thường. Kết quả là thực phẩm sẽ được lên men và sinh ra khí độc. Nếu khí độc này tràn ra thực quản có thể gây ra những cơn đau ngực dữ dội và bệnh nhân tưởng lầm đấy là một cơn đau tim. Đồng thời acid sẽ tràn vào trong thực quản gây nên một cảm giác nóng rát mà ta thường gọi là ợ nóng, ợ chua. Trong những trường hợp ợ nóng, nếu sử dụng những loại thuốc kháng acid thì có thể tạm thời cải thiện được cảm giác nóng rát, vì như đã nói, những loại thuốc này có tác dụng làm giảm acid dạ dày nhưng sau đó thì lại bị "tổ trát", vì do thiếu acid ở dạ dày nên sự tiêu hóa không đúng đắn sẽ xảy ra, thực phẩm rồi sẽ lại bị lên men, vòng luẩn quẩn cứ tái đi diễn lại. Nếu lại tiếp tục sử dụng thuốc kháng acid thì dạ dày sẽ bị thiếu acid, dẫn đến những khiếm khuyết trong quá trình tiêu hóa thức ăn và hấp thụ các chất dinh dưỡng, nhất là vitamin nhóm B và sắt. Acid trong dịch tiêu hóa còn có thêm chức năng tiêu diệt một số vi khuẩn có trong thức ăn. Nếu cứ bị thuốc kháng acid trung hòa hết acid thì dạ dày sẽ "nổi quạu" và sẽ "trả đũa" bằng cách tiết ra thêm nhiều acid. Vì vậy, nếu sử dụng những loại thuốc kháng acid một cách vô tội vạ thì chẳng khác nào tự chuốc họa vào thân. Ngoài tác hại của cách dùng "lộn tiệm" trên, bản thân những loại thuốc kháng acid còn có những tác dụng phụ đáng lưu ý, cụ thể như sau: Muối nhôm: những muối nhôm sẽ can thiệp vào sự hấp thu của phosphates vì vậy có thể gây táo bón, mệt mỏi, ăn không ngon miệng, gây tổn hại xương. Muối calcium: nếu sử dụng không đúng cách, các muối calcium có thể gây táo bón, gây các bệnh về đường tiểu, nhức đầu, thay đổi tâm trạng, yếu cơ, ói mửa... Sodium bicarbonate: chất này có tác dụng nhuận tràng, làm thay đổi huyết áp, gây phù chân... Magnesium hydroxide: lưu ý khi sử dụng thuốc này ở những bệnh nhân suy thận, bệnh nhân tim mạch và những bệnh nhân bị biến chứng thần kinh. Ngoài những tác dụng phụ nguy hiểm, những thuốc kháng acid còn làm thay đổi tính sinh khả dụng (bioavailability) của một số loại thuốc, đặc biệt là một số thuốc kháng sinh như tetracyclin, thuốc kháng nấm như ketoconazole...
DS. NGUYỄN BÁ HUY CƯỜNG (Khoa Sau ĐH. Dược - ĐH. Murdoch - Úc) Suckhoedoisong.vn
Những loại thuốc này (cimetidin, ranitidin, famotidine có sẵn để dùng theo đường tĩnh mạch và đường uống; và nizatidine có sẵn để dùng theo đường uống) là thuốc ức chế cạnh tranh với histamin tại thụ thể H2, nhờ đó ngăn chặn quá trình bài tiết axit kích thích gastrin và giảm lượng dịch vị dạ dày tương ứng. Quá trình tiết ra pepsin qua trung gian histamin cũng giảm. Nizatidine, famotidine, cimetidine và ranitidine có sẵn mà không cần kê đơn ở Mỹ.
Thuốc chẹn H2 hấp thu tốt qua đường tiêu hoá, khởi đầu tác dụng từ 30 đến 60 phút sau khi dùng và đạt đỉnh sau từ 1 đến 2 giờ. Dùng theo đường tĩnh mạch cho tác dụng khởi đầu nhanh hơn. Thời gian tác dụng tỉ lệ thuận với liều và dao động trong khoảng từ 6 đến 20 giờ. Thường thì nên giảm liều ở bệnh nhân cao tuổi.
Đối với loét tá tràng Bệnh loét dạ dày , dùng cimetidine 800 mg đường uống, một lần mỗi ngày, famotidine 40 mg, hoặc nizatidine 300 mg vào buổi tối hoặc sau bữa tối trong 6 đến 8 tuần có hiệu quả. Loét dạ dày có thể có đáp ứng với các phác đồ tương tự kéo dài trong 8 đến 12 tuần, nhưng vì tiết axit về đêm ít quan trọng hơn, nên dùng thuốc buổi sáng sẽ hiệu quả hơn hoặc tương đương. Trẻ ≥ 40 kg có thể dùng liều người lớn. Dưới trọng lượng đó, liều lượng theo đường uống là cimetidine 10 mg/kg, 12 giờ một lần. Đối với GERD, thuốc chẹn H2 hiện nay được sử dụng chủ yếu để xử trí đau. Những loại thuốc này đã được thay thế bằng thuốc ức chế bơm proton cho hầu hết bệnh nhân bị bệnh loét. Viêm dạ dày Tổng quan về viêm dạ dày liền khi cho dùng famotidine 2 lần mỗi ngày trong 8 đến 12 tuần.
Ranitidine (đường uống, đường tĩnh mạch và không kê đơn) đã bị loại khỏi thị trường ở Hoa Kỳ và ở nhiều quốc gia khác vì nồng độ N-nitrosodimethylamine (NDMA) không thể chấp nhận được, có khả năng sinh ung thư ở người. Cimetidine và famotidine là những thuốc thay thế và không chứa NDMA, cũng không có thuốc ức chế bơm proton.
Cimetidine có tác dụng kháng androgen nhỏ được biểu hiện dưới dạng vú to có thể đảo ngược và, ít phổ biến hơn, rối loạn cương dương khi sử dụng kéo dài. Thay đổi trạng thái tâm thần, tiêu chảy, phát ban, sốt, đau cơ, giảm tiểu cầu, nhịp chậm xoang và hạ huyết áp sau khi tiêm tĩnh mạch nhanh đã được báo cáo với tất cả các thuốc chẹn H2, nói chung tỷ lệ gặp ở < 1% số bệnh nhân được điều trị nhưng phổ biến hơn ở bệnh nhân cao tuổi.
Cimetidin và với phạm vi nhỏ hơn, các khác trong nhóm chẹn H2 tương tác với hệ thống enzyme P-450 và có thể trì hoãn quá trình trao đổi chất của các thuốc khác thải trừ qua hệ thống này (ví dụ: phenytoin, warfarin, theophylline, diazepam, lidocaine).
Các phương pháp bán định lượng xác định nồng độ tối thiểu của thuốc có khả năng ức chế sự phát triển của một vi sinh vật cụ thể trong phòng thí nghiệm. Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) được báo cáo dưới dạng một giá trị số, sau đó có thể dịch thành 1 trong 4 nhóm: S (nhạy cảm), I (trung bình), R (kháng), hoặc đôi khi không nhạy. Xác định MIC được sử dụng chủ yếu cho các vi khuẩn đã phân lập được, bao gồm mycobacteria và kị khí, hoặc nấm, đặc biệt là Candida sp.
Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC) có thể xác định được nhưng kỹ thuật khó khăn và các tiêu chuẩn cho việc phiên giải kết quả vẫn chưa được thống nhất. Giá trị của xét nghiệm MBC là cho biết liệu một loại thuốc có thể là kìm khuẩn hay diệt khuẩn.
Thuốc kháng sinh có thể được pha loãng trong thạch hoặc canh thang, sau đó được tiêm vào vi sinh vật. Pha loãng trong canh thang là tiêu chuẩn vàng nhưng rất tốn công vì mỗi một nồng độ thuốc phải pha trên mỗi ống. Một phương pháp hiệu quả hơn đó là sử dụng một dải phim polyester được ngâm tẩm với kháng sinh trong thang nồng độ dọc theo chiều dài của nó. Dải được đặt trên một tấm thạch chứa chất thử nghiệm và MIC được xác định bởi vị trí trên dải khi bắt đầu ức chế; nhiều kháng sinh có thể được kiểm tra trên một đĩa.
MIC cho phép biết được mối tương quan giữa độ nhạy cảm của vi sinh vật với thuốc và nồng độ thuốc tự do có thể đạt được trong mô (thuốc tự do là thuốc không liên kết với protein). Nếu nồng độ thuốc tự do trong mô cao hơn MIC, điều trị có thể thành công. Các chỉ định của S, I và R được lấy từ nghiên cứu MIC thường tương quan với nồng độ thuốc tự do trong huyết thanh, huyết tương hoặc nước tiểu.
22/10/2020 - 3972
|