Tại sao nói thời kỳ nhà Đường là giai đoạn phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến Trung Quốc

Mục lục

Từ nguyênSửa đổi

“Đường” [唐] là tên cũ của nước Tấn, nằm ở khu vực trung tâm của tỉnh Sơn Tây ngày nay, nguyên là đất phong của Cơ Ngu, con trai thứ của Chu Vũ Vương. Thời Nam–Bắc triều, Lý Hổ — một trong Bát Trụ Quốc của triều Tây Ngụy — được phong là Lũng Tây quận công [隴西郡公].[6] Sau khi mất, Lý Hổ được nhà Bắc Chu truy hiệu là Đường quốc công [唐國公], được con là Lý Bính thừa kế. Năm 582, con của Lý Bính là Lý Uyên kế thừa tước vị Đường quốc công, về sau được thăng tước là Đường vương [唐王]. Sau khi Lý Uyên soán ngôi Tùy Cung Đế, ông đã sử dụng quốc hiệu là “Đường”.[7]

Lịch sửSửa đổi

Thành lậpSửa đổi

Bài chi tiết: Tùy mạt Đường sơ
Triều đại của Đường Thái Tông [trị.626–649] thường được xem là kiểu mẫu để các bậc quân vương Đông Á đời sau noi theo.

Lũng Tây Lý thị [隴西李氏] là một gia tộc thuộc tầng lớp quý tộc quân sự, cát cứ ở vùng tây bắc vào thời nhà Tùy.[8][9] Họ tự xưng là dòng dõi phụ hệ của thủy tổ Đạo giáo Lão Tử, tướng Lý Quảng thời nhà Hán và Vũ Vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc.[10][11][12] Các hoàng đế nhà Đường cũng mang dòng dõi Tiên Ti theo mẫu hệ, vì mẹ của Đường Cao Tổ, Độc Cô thị, là người Tiên Ti.[13][14]

Lưu thủ Thái Nguyên Lý Uyên vốn là con dì con già của Tùy Dạng Đế, có thanh thế và rất giàu kinh nghiệm trận mạc.[15] Sau thất bại trong ba lần xâm lược Cao Câu Ly đầy tốn kém của Dạng Đế, quốc lực nhà Tùy suy yếu trầm trọng, dẫn đến sự bùng nổ của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân trên khắp cả nước.[8][16] Năm 617, Lý Uyên cùng các con khởi binh tạo phản ở Thái Nguyên. Mùa đông cùng năm, sau khi chiếm được kinh đô Đại Hưng, ông lập Thái tử Dương Hựu làm hoàng đế, tôn Tùy Dạng Đế làm thái thượng hoàng, đồng thời giữ vai trò nhiếp chính cho hoàng đế bù nhìn.[17] Ngày 18 tháng 6 năm 618, sau khi nhận được tin Dạng Đế bị Vũ Văn Hóa Cập sát hại, Lý Uyên phế Dương Hựu, tự lập làm hoàng đế, đổi quốc hiệu là “Đường”.[17][18]

Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, tại vị đến năm 626 thì bị Tần vương Lý Thế Dân ép nhường ngôi. Lý Thế Dân bắt đầu cầm quân từ năm 18 tuổi, cung kiếm, đao thương đều rất giỏi, nổi danh với nhiều trận đột kích kỵ binh hiệu quả.[15][19] Trong trận Hổ Lao diễn ra vào ngày 28 tháng 5 năm 621, Lý Thế Dân đã giành chiến thắng ngay cả khi phải đối mặt với lực lượng áp đảo quân số của Đậu Kiến Đức [573–621].[20][21] Ngày 2 tháng 7 năm 626, trong chính biến Huyền Vũ Môn, vì lo ngại bị ám sát, Lý Thế Dân phục kích và giết chết em trai là Lý Nguyên Cát [sinh 603] cùng huynh trưởng là Thái tử Lý Kiến Thành [sinh 589].[22] Ngay sau đó, Đường Cao Tổ thoái vị, Lý Thế Dân lên ngôi, tức Hoàng đế Đường Thái Tông.[15]

Bất chấp việc hạ bệ cha và giết anh em ruột đi ngược lại với quan điểm về lòng hiếu thảo của Nho giáo,[22] Đường Thái Tông đã chứng tỏ được năng lực của bản thân, biết lắng nghe ý kiến từ những thành viên tài trí nhất trong bộ sậu của mình.[15] Năm 628, ông cho cử hành đại lễ Phật giáo tưởng niệm thương vong chiến tranh. Một năm sau, Đường Thái Tông cho xây dựng tu viện Phật giáo tại những địa điểm từng diễn ra các trận đánh lớn để các nhà sư có thể tụng kinh siêu độ vong linh cho những người đã ngã xuống, mà trong đó có cả kẻ thù của ông.[23]

Mở rộng lãnh thổSửa đổi

Lãnh thổ Đại Đường được mở rộng tối đa dưới thời Đường Cao Tông

Sau khi ổn định tình hình trong nước, Đường Thái Tông theo đuổi chính sách bành trướng lãnh thổ. Năm 630, nhân lúc Đông Đột Quyết xảy ra nội loạn, tướng Lý Tĩnh [571–649] dẫn quân Bắc phạt, bắt sống Khả hãn Hiệt Lợi và tiêu diệt nhà nước này. Sau chiến thắng này, các bộ lạc thảo nguyên lần lượt quy phục nhà Đường, tôn Đường Thái Tông là “Thiên Khả Hãn”.[24][25] Trong những năm cuối đời, Thái Tông tiếp tục thực hiện các chiến dịch lớn về phía Tây nhằm vào các tiểu quốc ốc đảo nằm dọc theo Con đường tơ lụa tại Lòng chảo Tarim như Cao Xương vào năm 640, Yên Kỳ vào năm 644 và 648, và Quy Từ vào năm 648. Sau khi Thái Tông qua đời vào năm 649, Đường Cao Tông tiếp tục khuếch trương thế lực về phía Tây. Năm 657, sau khi tướng Tô Định Phương đánh bại được Khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ, Hãn quốc Tây Đột Quyết chính thức bị Đại Đường thôn tính.[26]

Tại khu vực Đông Bắc, Thái Tông phát động một cuộc xâm lược quy mô lớn nhằm vào Cao Câu Ly vào năm 644. Tuy giành được những thắng lợi sơ khởi song quân Đường phải rút lui do không thể xuyên thủng phòng tuyến của Uyên Cái Tô Văn [603–666].[27] Năm 660, dưới thời Cao Tông, quân Đường với sự trợ giúp của Tân La đã thành công đánh bại Bách Tế.[28] Tàn quân Bách Tế cầu viện đồng minh là Yamato [Nhật Bản], song liên quân hai nước này bị quân Đường và Tân La dưới sự chỉ huy của Tô Định Phương và Kim Dữu Tín [595–673] tiêu diệt trong Trận Bạch Giang vào tháng 8 năm 663.[29] Về phần Cao Câu Ly, nước này đã bị suy yếu trầm trọng bởi những xung đột nội bộ và việc để mất nhiều thành trì trọng yếu ở biên ải vào tay quân Đường trong năm 645.[30] Năm 668, Cao Câu Ly thất thủ trước liên quân Đường – Tân La do Lý Thế Tích [594–669] chỉ huy.[31]

Võ hậu cướp ngôiSửa đổi

Bài chi tiết: Võ Chu
Võ Tắc Thiên là nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc. Bà điều khiển chính sự dưới triều đại của chồng và hai con trước khi đích thân trở thành hoàng đế.

Tuy nhập cung với danh phận tài nhân thấp kém, Võ Tắc Thiên vươn lên nắm giữ quyền lực tối thượng vào năm 690 và thành lập triều đại Võ Chu tồn tại trong một thời gian ngắn.[32] Võ hậu giành được đại quyền bằng những thủ đoạn tàn nhẫn và đầy toan tính. Một trong những thuyết âm mưu nổi tiếng nhất cho rằng chính bà đã giết con gái và đổ lỗi cho Vương Hoàng hậu, khiến bà ta bị Đường Cao Tông thất sủng và phế truất.[33] Năm 655, Cao Tông bị đột quỵ, Võ hậu buông rèm nhiếp chính, đích thân xử lý quốc sự với các đại thần.[34] Nhiều người nghi ngờ chính bà là người ra tay sát hại con ruột là Thái tử Lý Hoằng khi ông đột ngột qua đời năm 675. Nguyên nhân có thể là do ông đã dần chứng tỏ thực lực bản thân và thường xuyên ra mặt ủng hộ những chính sách mà Võ hậu phản đối. Thái tử kế tiếp, Lý Hiền, tuy cam chịu thủ phận, nhưng vẫn bị mẹ khép vào tội mưu phản và đày đến biên ải, ít lâu sau thì bị bức tử.[35]

Năm 683, Đường Cao Tông băng hà và được nối ngôi bởi người con lớn tuổi nhất còn sống của Võ hậu là Đường Trung Tông. Trung Tông cố gắng bổ nhiệm quốc cữu[a] làm tể tướng, nhưng đã bị Võ hậu phế truất và thay thế bởi em trai là Duệ Tông chỉ sau sáu tuần tại vị.[35] Sự việc đã kích động một nhóm tông thất nổi dậy vào năm 684, nhưng họ bị triều đình đàn áp chỉ trong vòng hai tháng.[35] Ngày 16 tháng 10 năm 690, Võ hậu cải nguyên niên hiệu thành Thiên Thuận, quốc hiệu thành Chu [周], chính thức lên ngôi đại thống, trở thành nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.[36] Đường Duệ Tông bị giáng xuống làm thái tử và bị buộc phải đổi sang họ Võ của mẹ.[37]

Trong khoảng thời gian tại vị, về mặt đối nội, Võ Tắc Thiên tập trung phát triển kinh tế xã hội, tiến hành cải cách chữ viết, duy trì sự ổn định trong nước.[38] Về mặt đối ngoại, bà tiến hành các cuộc chiến ở Nội Á, giành lại quyền kiểm soát lãnh thổ An Tây độ hộ phủ từng rơi vào tay người Thổ Phồn.[38] Là một người sùng đạo, Võ Tắc Thiên khuyến khích phát triển Phật giáo, hạ lệnh trong nước tích cực xây dựng chùa chiền, tăng cường biên dịch kinh Phật.[39] Sau 15 năm tại vị, Võ Tắc Thiên bị ép phải thoái vị vào này 22 tháng 2 năm 705 trong một cuộc chính biến cung đình. Đường Trung Tông phục vị, khôi phục quốc tính thành họ Lý và quốc hiệu “Đường” như cũ. Vài tháng sau, Võ hậu qua đời.[40]

Trước khi lên ngôi, nhằm hợp pháp hóa quyền cai trị của mình, Võ hậu đã cho một nhóm nhà sư biên soạn Đại Vân kinh [大雲經] ca ngợi bà là Phật Di Lặc hóa thân xuống trần gian để trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương[b] làm chủ thiên hạ, phổ độ chúng sinh.[41][42] Phần lớn các cải cách của Võ Tắc Thiên đều bị những người kế nhiệm hủy bỏ sau khi bà qua đời.[43] Tuy nhiên, có thể nói, thành tựu lớn nhất của Võ Tắc Thiên là hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc Tây Bắc, tạo điều kiện cho những người đến từ các gia tộc khác hay khu vực khác của Trung Quốc có cơ hội thể hiện tiếng nói trong triều đình.[44][45]

Triều đại của Đường Huyền TôngSửa đổi

Xem thêm: Đường Huyền Tông
Trong thời gian Đường Huyền Tông nắm quyền, nhà Đường bước vào thời thịnh trị kéo dài 40 năm, gọi là Khai Nguyên thịnh thế [開元盛世]

Dưới và sau triều đại của Võ Tắc Thiên, chốn cung đình xuất hiện nhiều nữ nhân nổi bật, bao gồm Thượng Quan Uyển Nhi [664–710], một nhà thơ, nhà văn và nội quan thân cận của Võ hậu, giữ nhiệm vụ xử lý tấu chương.[46] Năm 706, Vi Hoàng hậu [mất 710] thuyết phục Đường Trung Tông cho phép mình cùng các chị em ruột và con gái của bà tham dự triều chính. Năm 709, bà yêu cầu hoàng đế trao cho nữ giới quyền mẹ truyền con nối [mà trước đây vốn chỉ là cha truyền con nối].[47] Năm 710, Vi Hoàng hậu hạ độc sát hại Trung Tông, đưa Thái tử Lý Trọng Mậu mới 15 tuổi lên ngôi.[48] Hai tuần sau, Lý Long Cơ cùng thủ hạ vào cung giết Vi Hoàng hậu, phục hồi đế vị cho cha là Duệ Tông.[49] Tương tự như Trung Tông trước đó, Duệ Tông hoàn toàn không có thực quyền khi ông bị Thái Bình công chúa khống chế.[50] Tình trạng nữ nhi tham chính chỉ kết thúc khi Duệ Tông truyền ngôi cho Lý Long Cơ, tức Đường Huyền Tông và âm mưu chính biến của Thái Bình công chúa bị dập tắt vào năm 712.[49][47][51]

Nhà Đường bước vào giai đoạn đỉnh cao dưới triều đại kéo dài 44 năm của Đường Huyền Tông, một thời kỳ hoàng kim được đánh dấu bởi tỷ lệ lạm phát kinh tế thấp cùng lối sống cung đình không quá phô trương.[52][45] Được xem là một nhà lãnh đạo cấp tiến và nhân từ, Huyền Tông thậm chí đã bãi bỏ án tử hình vào năm 747. Tất cả các án tử hình đều phải do đích thân hoàng đế phê chuẩn [số lượng tương đối ít, ví dụ năm 730 chỉ có tổng cộng 24 vụ hành quyết được thông qua].[53] Huyền Tông cố gắng giữ cân bằng chính trị bằng cách bổ nhiệm các phe phái vào các vị trí trong lục bộ một cách công bằng.[50] Là một người thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, Thượng thư hữu thừa tướng Trương Cửu Linh [673–740] thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu lạm phát và gia tăng nguồn cung tiền bằng cách duy trì sự lưu thông của tiền đúc tư nhân. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ của nhà Đường đã thay đổi dưới nhiệm kỳ của người kế nhiệm Lý Lâm Phủ. Là một người trưởng giả, kỹ trị, ông ủng hộ sự độc quyền của triều đình đối với việc phát hành tiền đúc. Kể sau năm 737, Huyền Tông đặt sự tin tưởng vào Lý Lâm Phủ, người ủng hộ chính sách đối ngoại bành trướng sử dụng các tướng lĩnh phi Hán. Tuy nhiên, chính sách này rốt cuộc đã tạo điều kiện cho một cuộc nổi dậy quy mô lớn chống lại nhà Đường.[54]

Loạn An Sử và thiên taiSửa đổi

Bài chi tiết: Loạn An Sử
Bản đồ 10 phiên trấn và binh lực của họ dưới thời Đường Huyền Tông

Nhà Đường đang trong thời kỳ hoàng kim vào giữa thế kỷ 8 khi loạn An Sử bùng nổ phá hủy sự thịnh vượng của đế quốc. An Lộc Sơn, một viên tướng gốc Túc Đặc–Đột Quyết, được giao nhiệm vụ trấn giữ biên giới phía bắc trước người Khiết Đan kể từ năm 744, song các chiến dịch của ông ta đa phần đều không mang lại kết quả nào.[55][56] Tuy nhiên, nhờ được lòng của hoàng đế, An Lộc Sơn trở thành Tiết độ sứ Hà Đông, Bình Lô, Phạm Dương, nắm giữ trong tay toàn bộ khu vực Đông Bắc và 1/3 binh mã triều đình, cho phép ông có thể nổi dậy với một đội quân trên 10 vạn người.[55] Sau khi chiếm được Lạc Dương, An Lộc Sơn xưng đế và tuyên bố thành lập nước Yên.[56] Tuy giành được một số thắng lợi sơ khởi song quân đội triều đình, vốn chủ yếu là dân binh, dưới trướng Quách Tử Nghi [697–781] không thể chống cự lâu trước một đội quân dày dặn kinh nghiệm trận mạc nơi biên ải của An Lộc Sơn.[55] Trước sự áp sát của quân nổi dậy, triều đình nhà Đường bị buộc phải triệt thoái khỏi Trường An. Trong lúc Thái tử Lý Hanh chạy tới Sơn Tây để mộ binh còn Huyền Tông chạy vào đất Thục, nhà Đường đã phải cầu viện Hãn quốc Hồi Cốt.[57] Khả hãn Bayanchur khi hay tin đã rất phấn khích, ngay lập tức gả con gái cho sứ giả nhà Đường khi ông ta vừa tới nơi, đổi lại, vị khả hãn trở thành phò mã nhà Đường.[57] Người Hồi Cốt giúp nhà Đường chiếm lại kinh đô Trường An, nhưng không chịu rút lui cho đến khi nhà Đường chịu trả một khoản cống nạp khổng lồ bằng lụa.[55][57] Ngoài Hồi Cốt, nhà Đường còn nhận được sự hỗ trợ từ nhà Abbas của người Ả Rập Hồi giáo. Cũng trong thời gian này, người Thổ Phồn lợi dụng chiến loạn ở Trung Nguyên để đánh phá nhiều khu vực nằm dưới sự kiểm soát của người Hán ở Trung Á.[57][58] Ngay cả sau khi Thổ Phồn sụp đổ vào năm 842 [tiếp đó là người Hồi Cốt], nhà Đường không còn đủ sức để giành lại lãnh thổ Trung Á đã mất sau năm 763.[55][59] Những tổn thất mà loạn An Sử gây ra nghiêm trọng tới mức nửa thế kỷ sau, các thí sinh tham gia kỳ thi tiến sĩ được yêu cầu viết bài luận về nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của nhà Đường.[60] Dù An Lộc Sơn đã bị một hoạn quan hạ sát vào năm 757,[57] song chiến loạn chỉ kết thúc khi thủ lĩnh quân nổi dậy là Sử Tư Minh bị chính con trai ruột sát hại vào năm 763.[57]

Lạc Sơn Đại Phật, cao 71m [233ft]; khởi công năm 713, hoàn thành năm 803

Một trong những di sản mà chính quyền nhà Đường để lại sau năm 710 là sự trỗi dậy của các tiết độ sứ, những người dần dần thách thức chính quyền trung ương.[61] Sau loạn An Sử, quyền lực và sự tự trị mà các tiết độ sứ Hà Bắc có được đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính quyền trung ương. Sau hàng loạt các cuộc nổi dậy giữa năm 781 và 784 tại các vùng đất thuộc Hà Bắc, Sơn Đông, Hồ Bắc và Hà Nam ngày nay, triều đình nhà Đường đã phải chính thức công nhận tính chất thế tập cha truyền con nối đối với chức vị tiết độ sứ. Chính quyền nhà Đường phải dựa vào những tiết độ sứ để đề phòng xâm lược hoặc nội phản. Đổi lại, triều đình phải thừa nhận quyền duy trì quân đội riêng, thu thuế của các tiết độ sứ và thậm chí là cho phép con cái họ thừa hưởng tước vị của cha.[55][62] Theo thời gian, những võ quan này dần dần làm phai mờ sự ảnh hưởng của các quan văn được tuyển chọn thông qua hình thức khảo thí.[55] Sự cai trị của các tiết độ sứ hùng mạnh này chỉ kết thúc vào năm 960 khi nhà Tống tiến hành cải cách hành chính.[55] Bên cạnh đó, chế độ Quân điền bị bãi bỏ tạo điều kiện cho mọi người có thể tự do mua bán đất. Nhiều người nghèo lâm vào cảnh nợ nần, buộc phải bán đất làm thuê cho các gia đình địa chủ, dẫn đến sự hình thành và phát triển nhanh chóng của hàng loạt điền trang lớn.[55] Cùng với sự sụp đổ của chế độ quân điền sau năm 755, chính quyền trung ương gần như đánh mất vai trò quản lý nông nghiệp, chỉ còn đơn thuần là người thu sưu thuế trong khoảng một thiên niên kỷ, với một vài ngoại lệ như công cuộc quốc hữu hóa đất đai thất bại của nhà Tống trong cuộc chiến với người Mông Cổ ở thế kỷ 13.[63]

Nam Thiền tự trên Ngũ Đài sơn, xây dựng vào thế kỷ 8

Với việc chính quyền trung ương đánh mất quyền kiểm soát đối với nhiều khu vực khác nhau, ghi chép cho thấy vào năm 845, có những nhóm thảo khấu, thủy tặc quy mô hàng trăm người thường xuyên cướp bóc các khu dân cư dọc theo sông Trường Giang mà không gặp phải sự chống cự nào.[64] Năm 858, một trận lụt lớn dọc Đại Vận Hà đã làm ngập nhiều vùng đất và địa hình rộng lớn của Bình nguyên Hoa Bắc, khiến hàng vạn người chết đuối. Hàng loạt thiên tai ập đến khiến nhiều người dân tin rằng nhà Đường đã đánh mất thiên mệnh. Năm 873, mùa màng thất bát đã làm lung lay đế quốc Đại Đường, với sản lượng lương thực tại một số khu vực chỉ đạt một nửa, dẫn đến hàng vạn người phải đối mặt với nạn đói.[64] Vào thời Sơ Đường, triều đình đủ khả năng để có thể ứng phó hiểu quả trước những nguy cơ mất mùa. Ví dụ trong khoảng thời gian 714–719, chính quyền nhà Đường đã ứng phó thiên tai một cách hiệu quả bằng cách mở rộng hệ thống Thường Bình thương [常平倉] điều tiết giá cả lương thực cả nước. Thông qua đó, chính phủ có thể xây dựng kho dự trữ lương thực, ngăn chặn nạn đói tiềm ẩn và tăng năng suất nông nghiệp thông qua khai hoang.[52][64] Tuy nhiên, sang thế kỷ thứ 9, triều đình gần như bất lực trong việc đối phó với thiên tai.[65]

Tái thiết và phục hồiSửa đổi

Tháp Tu Di ở Chính Định, Hà Bắc, xây dựng năm 636

Mặc dù các cuộc thiên tai và nổi loạn cản trở chính quyền trung ương hoạt động một cách hiệu quả, nửa đầu thế kỷ 9 vẫn được xem là giai đoạn phục hồi của nhà Đường.[66] Việc chính phủ rút khỏi vai trò quản lý kinh tế đã vô tình kích thích thương mại, khi ngày càng nhiều thị trường với ít hạn chế quan liêu xuất hiện.[67][68] Năm 780, các loại thuế đinh, thuế hộ và thuế ruộng [tô dung điệu] được thay thế bằng thuế nửa năm trả bằng tiền mặt [lưỡng thuế pháp], đánh dấu sự chuyển dịch sang nền kinh tế tiền tệ được tầng lớp thương nhân thúc đẩy.[58] Các thành phố vùng Giang Nam như Dương Châu, Tô Châu và Hàng Châu phát triển mạnh mẽ về mặt kinh tế vào thời Vãn Đường.[67] Nền độc quyền muối của chính phủ đã suy yếu sau loạn An Sử, nay được đặt dưới sự kiểm soát của một cơ quan quản lý muối. Cơ quan này theo thời gian dần trở thành một trong những cơ quan nhà nước quyền lực nhất, được điều hành bởi các vị quan năng lực có chuyên môn. Quan phủ tiến hành bán muối độc quyền cho thương nhân, sau đó thương nhân sẽ vận chuyển và bán cho người dân tại các thị trường địa phương với giá cao. Năm 799, lợi nhuận từ muối chiếm một nửa doanh thu chính phủ.[55] S.A.M. Adshead cho rằng hình thức thuế muối thời nhà Đường là “lần đầu tiên [trong lịch sử], thuế gián thu, thay vì thuế đánh trực tiếp vào đất đai hoặc con người, hay lợi nhuận từ các doanh nghiệp nhà nước như hầm mỏ, trở thành nguồn thu chính của một nước lớn.”[69] Ngay cả khi quyền lực chính quyền trung ương bị lung lay trong nửa sau thế kỷ thứ 8, triều đình vẫn có thể hoạt động và ban hành chính lệnh trên quy mô lớn. Cựu Đường thư, biên soạn vào năm 945, ghi lại rằng vào năm 828, triều đình đã ban hành sắc lệnh tiêu chuẩn hóa máy bơm xích vận hành thủ công bằng chân [翻車] dùng cho tưới tiêu trên phạm vi toàn quốc:

Thái Hòa năm thứ hai [828], tháng hai […] triều đình xuống chiếu [áp dụng] một kiểu mẩu máy bơm xích [牙車] tiêu chuẩn, dân chúng Kinh Triệu phủ được lệnh chế tạo số lượng lớn máy móc nhằm phân phát cho người dân dọc theo kênh Trịnh Bạch [鄭白渠], phục vụ cho mục đích tưới tiêu.[70]

Vị hoàng đế đầy tham vọng cuối cùng của nhà Đường là Đường Hiến Tông [trị.805–820].[71] Triều đại của ông được hỗ trợ bởi các cải cách tài khóa thi hành vào những năm 780. Hoàng đế sở hữu trong tay lực lượng Thần Sách quân tinh nhuệ đóng tại phủ Kinh Triệu, với số lượng binh lính lên tới 24 vạn người vào năm 798.[72] Giữa các năm 806 và 819, Hiến Tông thực hiện tổng cộng bảy chiến dịch quân sự lớn nhằm bình định các phiên trấn không quy phục triều đình. Ngoại trừ hai trấn, toàn bộ các phiên trấn đều lần lượt quy thuận triều đình.[73][74] Dưới triều đại của mình, Hiến Tông tạm thời chấm dứt chế độ cha truyền con nối ở các phiên trấn bằng cách bổ nhiệm những tướng lĩnh thân cận và biên chế các quan văn vào các cơ quan hành chính địa phương.[73][74] Tuy nhiên, các vị hoàng đế kế nhiệm ông tỏ ra kém năng lực, thường xuyên dành nhiều thời gian tiêu kiển, săn bắn, yến tiệc hay chơi các môn thể thao ngoài trời. Điều này cho phép hoạn quan thâu tóm quyền lực, trong khi quan viên lại chia bè đảng, tranh quyền lẫn nhau.[74] Nhằm diệt trừ nạn hoạn quan tham chính, Đường Văn Tông âm mưu thực hiện một cuộc chính biến cung đình nhưng không thành công. Thay vào đó, các đại thần ủng hộ ông bị hoạn quan hành quyết công khai ở khu chợ Tây thành Trường An. Sau sự kiện này, cục diện hoạn quan lộng quyền tiếp tục cho đến tận những năm cuối triều Đường.[67]

Bích họa thời Vãn Đường miêu tả Trương Nghị Triều thống quân đẩy lui Thổ Phồn. Hang số 156 trong quần thể hang Mạc Cao.

Nhà Đường khôi phục quyền kiểm soát gián tiếp đối với một số lãnh thổ cũ ở phía tây như Hành lang Hà Tây và Đôn Hoàng ở Cam Túc. Năm 848, một viên tướng người Hán là Trương Nghĩa Triều từ Sa Châu đã nhân khi Thổ Phồn có nội loạn, nổi dậy giành quyền kiểm soát khu vực rồi đem lãnh thổ quy phục triều Đường.[75] Trương Nghĩa Triều sau đó được Đường Tuyên Tông phong làm Sa Châu phòng ngự sử và Quy Nghĩa quân tiết độ sứ.[76]

Sụp đổSửa đổi

Bên cạnh thiên tai cũng như nạn phiên trấn cát cứ, khởi nghĩa Hoàng Sào nổ ra vào năm 874 khiến triều đình nhà Đường phải mất cả thập kỷ để đàn áp.[77] Hai thành Trường An và Lạc Dương bị cướp phá, quốc lực nhà Đường ngày càng suy thoái và vĩnh viễn không thể phục hồi sau cuộc nổi dậy này, tạo điều kiện cho các thế lực quân sự trỗi dậy và thay thế. Các băng đảng thổ phỉ lớn hoành hành ở các vùng nông thôn vào những năm cuối triều Đường, tổ chức buôn lậu muối bất hợp pháp, phục kích cướp bóc các đoàn thương nhân hay thậm chí là vây hãm nhiều thành trì.[78] Trong bối cảnh nạn cướp bóc hoành hành và xung đột phe phái trong triều đình giữa hoạn quan và quan lại, các gia đình thuộc tầng lớp quý tộc, vốn tích lũy được nhiều đất đai và chức vụ, phần lớn đều mất tài sản hoặc bị cho ra rìa.[79][80]

Vào hai thập kỷ cuối cùng của nhà Đường, sự sụp đổ từ từ của chính quyền trung ương dẫn đến sự trỗi dậy của hai nhân vật quân sự hùng mạnh đối địch nhau, tranh giành quyền kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, là Chu Ôn và Lý Khắc Dụng.[81] Quân đội nhà Đường đánh bại Hoàng Sào với sự giúp đỡ từ bộ tộc Sa Đà dân tộc Đột Quyết ở Sơn Tây. Với những chiến công của mình, Lý Khắc Dụng được phong làm tiết độ sứ, tước vị Tấn Vương và được ban quốc tính.[82] Chu Ôn vốn là một tay buôn lậu muối, sau trở thành một tướng lĩnh trong đội quân nổi dậy của Hoàng Sào, nhưng đã quy thuận triều đình. Nhờ có công trong cuộc chiến chống Hoàng Sào, Chu Ôn được ban tên “Toàn Trung” và được bổ nhiệm làm Tuyên Vũ tiết độ sứ.[83][84]

Năm 901, từ cơ sở quyền lực tại thành Đại Lương [Khai Phong ngày nay], Chu Toàn Trung giành quyền kiểm soát kinh đô Trường An, khống chế thiên tử.[85] Năm 903, ông ép Đường Chiêu Tông phải dời đô đến Lạc Dương, chuẩn bị cho âm mưu soán vị. Năm 904, ông sát hại Đường Chiêu Tông, tôn hoàng tử Lý Chúc mới 12 tuổi làm hoàng đế mới, tức Đường Ai Đế. Để ngăn ngừa sự phản kháng, trong hai năm 905 và 906, Chu Toàn Trung sát hại toàn bộ anh em cũng như mẹ của Đường Ai Đế là Hà Thái hậu và hàng chục quan lại trong triều. Năm 907, Chu Toàn Trung soán ngôi nhà Đường, thành lập nhà Hậu Lương, mở đầu thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Năm 908, Chu Toàn Trung hạ độc giết Đường Ai Đế.[83]

Đại kình địch của Chu Toàn Trung là Lý Khắc Dụng qua đời vào năm 908, nhưng vì lòng trung thành với nhà Đường, ông không bao giờ xưng đế. Con trai của ông là Lý Tồn Úc [tức Hậu Đường Trang Tông] thừa hưởng tước vị Tấn vương và chức vụ Hà Đông tiết độ sứ của cha, tiếp tục cuộc chiến trường kỳ chống lại Hậu Lương. Năm 923, Lý Tồn Úc xưng đế, khôi phục quốc hiệu “Đường”. Cuối năm đó, ông tiêu diệt nhà Hậu Lương, thống nhất miền Bắc Trung Quốc.[86] Miền Nam Trung Quốc sẽ vẫn bị chia cắt thành nhiều vương quốc nhỏ khác nhau cho đến khi phần lớn Trung Quốc được thống nhất dưới thời nhà Tống [960–1279].[87] Giai đoạn này cũng chứng kiến sự trỗi dậy của nhà Liêu của người Khiết Đan, trở thành thế lực kiểm soát khu vực Đông Bắc Trung Quốc và Mãn Châu. Mặc dù thủ lĩnh người Khiết Đan là Gia Luật A Bảo Cơ từng liên minh cùng Lý Khắc Dụng để chống Chu Toàn Trung, nhưng chính nhà Liêu cuối cùng đã hỗ trợ một thủ lĩnh Sa Đà khác là Thạch Kính Đường lật đổ Hậu Đường và thành lập nhà Hậu Tấn vào năm 936.[88]

Answers [ ]

  1. Bạn tham khảo nhé

  2. Thời kì nhà Đường phần lớn là một giai đoạn tiến bộ và ổn định, nhưng vào giữa triều đại thì xảy ra loạn An Sử, từ đó nhà Đường ngày càng đi xuống. Giống với nhà Tùy, nhà Đường duy trì bộ máy các quan lại trong triều đình từ các sĩ đại phu thông qua các cuộc thi khoa cử và tiến cử. Trật tự này đã bị suy yếu khi các thống đốc quân sự khu vực được gọi là tiết độ sứ nổi lên trong thế kỷ IX. Văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh mẽ và cường thịnh trong thời kì nhà Đường, đây được coi là thời kì đỉnh cao của thi ca, hay thơ Trung Quốc.[7] Hai thi sĩ nổi tiếng nhất Trung Hoa là Lý Bạch và Đỗ Phủ, thuộc về thời kì của Triều đại này, cùng với các họa sĩ nổi tiếng như Hàn Cán, Chương Tuyển và Chu Phương. Có một số lượng lớn các công trình văn học lịch sử, toàn thư và các nghiên cứu về địa lý được hoàn thành trong thời kỳ nhà Đường.

    Có nhiều đổi mới đáng được công nhận và chú ý dưới thời nhà Đường, trong đó bao gồm sự phát triển của ngành in mộc bản. Trong thời nhà Đường, Phật giáo có tác động chủ yếu đến văn hóa Trung Quốc, và nhiều giáo phái bản địa trở nên nổi bật. Tuy nhiên, về sau triều đình đã ngược đãi Phật giáo và tôn giáo này đã suy giảm tầm ảnh hưởng. Mặc dù chính phủ và triều đình nhà Đường suy sụp trong thế kỷ IX, song nghệ thuật và văn hóa vẫn tiếp tục phát triển. Triều đình trung ương mục nát nên đã không thể quản lý được nền kinh tế, song việc mậu dịch vẫn không bị ảnh hưởng và thương mại vẫn tiếp tục thịnh vượng.

Sự phát triển chế độ phong kiến dưới thời Đường

Mục a

- Sau khi nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào thời kì loạn lạc kéo dài.

- Lý Uyên dẹp tan được phe đối lập, đàn áp khởi nghĩa nông dân, lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Đường [618 - 907].

Bản đồ Trung Quốc thời nhà Đường

a] Kinh tế:

- Phát triển tương đối toàn diện.

- Nông nghiệp:Thực hiện chế độ quân điền. Nông dân nhận ruộng đất công và phải thực hiện nghĩa vụ với nhà nước theo chế độ tô, dung, điệu. Áp dụng những kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất như chọn giống, xác định thời vụ. Nhờ vậy, sản lượng tăng nhiều hơn trước.

- Thủ công nghiệp:Xưởng thủ công [gọi là tác phường] luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc.

- Thương nghiệp:hai “con đường tơ lụa" trên đất liền và trên biển cũng được thiết lập, mở rộng.

Con đường tơ lụa

Mục b

b] Chính trị:

- Bộ máy cai trị phong kiến hoàn chỉnh: cử người thân tín cai quản địa phương;cử người trong họ hay công thần giữ chức Tiết độ sứ, trấn ải biên cương mở khoa thi chọn người ra làm quan.

=> Chế độ phong kiến tạo điều kiện cho quý tộc, địa chủ được tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương đồng thời nâng cao quyền lực tuyệt đối của hoàng đế.

- Các hoàng đế nhà Đường tiếp tục chính sách xâm lược mở rộng lãnh thổ: lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam [lãnh thổ Việt Nam hồi đó], ép Tây Tạng phải thần phục.

=> Nhờ vậy, Trung Quốc dưới thời Đường trở thành một đế quốc phong kiến phát triển nhất.

Mục c

c] Đến cuối thời Đường:

- Mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân sống trong cảnh cùng cực do tô thuế quá nặng nề, sưu dịch liên miên. Nạn đói thường xuyên diễn ra.

- Nông dân lại nổi dậy chống chính quyền, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Hoàng Sào lãnh đạo nổ ra vào năm 874.

- Nhà Đường bị lật đổ, Trung Quốc rơi vào thời kì Ngũ đại - Thập quốc nhưng Triệu Khuông Dẫn lại tiêu diệt được các thế lực phong kiến khác, lập ra nhà Tống vào năm 960. Sau đó, miền Bắc Tống lại bị nước Kim đánh chiếm. Đến cuối thế kỉ XIII, cả hai nước Kim và Nam Tống lần lượt bị Mông Cổ tiêu diệt.

ND chính

Sự phát triển chế độ phong kiến dưới thời Đường: kinh tế, chính trị,...

Sơ đồ tư duy Trung Quốc thời phong kiến


Loigiaihay.com

  • Trung Quốc thời Minh, Thanh

    Tóm tắt mục 3. Trung Quốc thời Minh, Thanh. Đầu thế kỉ XIII, trên thảo nguyên Mông cổ

  • Văn hoá Trung Quốc thời phong kiến

    Tóm tắt mục 4. Văn hoá Trung Quốc thời phong kiến

  • Vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước thời Tần.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 30 SGK Lịch sử 10

  • Những biểu hiện sự thịnh trị về kinh tế chính trị của xã hội phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường là gì ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 31 SGK Lịch sử 10

  • Những mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới thời Minh đã xuất hiện như thế nào ?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 33 SGK Lịch sử 10

Sự thịnh trị của chế độ phong kiến dưới thời Đường được biểu hiện như thế nào?

Sự thịnh trị của chế độ phong kiến dưới thời Đường được biểu hiện qua nhiều mặt khác nhau.

Kinh tế: phát triển tương đối toàn diện.

Nông nghiệp:

Thủ công nghiệp: nghề dệt, in, gốm sứ phát triển. các xưởng thủ công được hình thành chủ yếu về các lĩnh vực như luyện sắt, đóng thuyền,… Các xưởng thủ công có hàng chục người dân làm việc.

Thương nghiệp: phát triển thịnh đạt, mở rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên thế giới. “Con đường tơ lụa” được hình thành trên đất liền và trên biển.

Chính trị: bộ máy cai trị phong kiến nhà Đường ngày một hoàn chỉnh hơn. Bộ máy nhà nước được phân cấp từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt là tăng cường củng cố chính quyền trung ương. Chính quyền phong kiến thời Đường nhằm nâng cao quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế.

Văn hoá: nhà Đường thực hiện chế độ khoa cử. Mở rộng các trường học ở cả thành thị và nông thôn.

Thơ Đường phản ánh toàn diện bộ mặt xã hội bấy giờ và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Nhiều nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,…

Đối ngoại: nhà Đường tiếp tục chính sách xâm lược các nước nhằm mở rộng lãnh thổ của Trung Quốc.

Sau khi ổn định ở trong nước, nhà Đường đem quân lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược Triều Tiên,…

Trắc nghiệm Lịch Sử 10 Bài 5 có đáp án năm 2021 mới nhất

  • Lý thuyết Lịch Sử 10 Bài 5: Trung quốc thời phong kiến
  • Trắc nghiệm Lịch Sử 10 Bài 5: Trung quốc thời phong kiến [phần 1]
  • Trắc nghiệm Lịch Sử 10 Bài 5: Trung quốc thời phong kiến [phần 2]

Tải xuống

Để giúp học sinh có thêm tài liệu tự luyện môn Lịch Sử lớp 10 năm 2021 đạt kết quả cao, chúng tôi biên soạn Trắc nghiệm Lịch Sử 10 Bài 5 có đáp án mới nhất gồm các câu hỏi trắc nghiệm đầy đủ các mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dung cao.

Bài giảng: Bài 5: Trung Quốc thời phong kiến [Tiết 1] - Cô Triệu Thị Trang [Giáo viên Tôi]

Bài 5. TRUNG QUỐC THỜI PHONG KIẾN

Câu 1:Dưới triều Tần, nông dân được phân hóa thành các bộ phận chính nào?

A.Giai cấp địa chủ, nông dân tự canh, nông dân lĩnh canh

B.Nông dân lĩnh canh, nông dân tự canh, tư sản dân tộc.

C.Phú nông, nông dân tự canh, nông dân lĩnh canh.

D.Phú nông, nông dân lĩnh canh, tiểu tư sản trí thức

Đáp án :Dưới triều Tần, nông dân đã bị phân hóa.Một bộ phận giàu có trở thành giai cấp bóc lột [giai cấp địa chủ]. Một số khác vẫn giữ được ruộng đất để cày cấy trở thành nông dân tự canh. Số nông dân còn lại là những người rất nghèo, không có ruộng, phải nhận ruộng của địa chủ để cày cấy – gọi là nông dân lĩnh canh.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 2:Trung Quốc được thống nhất dưới triều đại nào?

A.Tần

B.Hán

C.Sở

D.Triệu

Đáp án :Đầu thế kỷ IV TCN, Tần lần lượt tiêu diệt các đối thủ, năm 221 TCN nhà Tần thống nhất Trung Quốc dựa vào tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 3:Hai chức quan cao nhất giúp vua trị nước dưới triều Tần bao gồm

A.Thừa tướng và Thái úy

B.Tể tướng và Thái úy

C.Tể tưởng và Thừa tướng

D.Thái úy và Thái thú

Đáp án :Dưới vua có hệ thống quan văn, quan võ. Thừa tướng đứng đầu các quan văn, Thái úy đứng đầu các quan võ. Đây là hai chức quan cao nhất của triều đình để giúp Hoàng đế trị nước.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 4:Hoàng đế Trung Hoa dưới triều Tần chia đất nước thành

A.Phủ, huyện

B.Quận, huyện

C.Tỉnh, huyện

D.Tỉnh đạo

Đáp án :Hoàng đế Trung Hoa dưới triều Tần chia đất nước thành các quận, huyện; đặt các chức quan Thái thú [ở quận] và Huyện lệnh [ở Huyện].

Đáp án cần chọn là: B

Câu 5:Nông dân bị mất ruộng, trở nên nghèo túng, phải nhận ruộng của địa chủ gọi là

A.nông dân tự canh.

B.nông dân lĩnh canh.

C.nông dân làm thuê.

D.nông nô.

Đáp án :Nông dân lĩnh canh là những người bị mất ruộng đất, trở nên nghèo túng, phải nhận ruộng của địa chủ để cày cấy và nộp tô.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 6:Giai cấp địa chủ ở Trung Quốc được hình thành từ

A.Quan lại.

B.Quan lại và một số nông dân giàu có.

C.Quý tộc và tăng lữ.

D.Quan lại, quý tộc và tăng lữ.

Đáp án :Giai cấp địa chủ ở Trung Quốc được hình thành từ quan lại và một số nông dân giàu có.

- Quan lại là những người có nhiều ruộng đất tư trở thành địa chủ.

- Nông dân cũng bị phân hóa thành các bộ phận: một bộ phận giàu có trở thành giai cấp bóc lột [địa chủ]; một số khác giữ được ruộng đất để cày cấy trở thành nông dân tự canh; một bộ phận còn lại nghèo, mất hoặc không có ruộng đất phải nhận ruộng của địa chủ để cày cấy - trở thành nông dân lĩnh canh.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 7:Người nông dân dưới thời Đường nhận ruộng của nhà nước phải có nghĩa vụ

A.nộp tô cho nhà nước

B.thực hiện chế độ tô, dung, điệu

C.đi lao dịch cho nhà nước

D.nộp thuế cho nhà nước

Đáp án :Dưới thời Đường, khi nhận được ruộng đất của nhà nước theo chế độ quân điền thì nông dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ tô, dung, điệu.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 8:Chế độ ruộng đất nổi tiếng dưới thời Đường là

A.Chế độ quân điền

B.Chế độ tỉnh điển

C.Chế độ tô, dung, điệu

D.Chế độ lộc điền

Đáp án :Sau khi nhà Đường được thành lập [618], cùng với biện pháp giảm tô thuế, bớt sưu dịch, nhà Đường lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân gọi là chế độ quân điền.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 9:Trung Quốc trở thành đế quốc phong kiến phát triển nhất dưới triều đại nào?

A.Kim

B.Mông Cổ

C.Đường

D.Thanh

Đáp án :Đến thời nhà Đường, các hoàng đế đứng đầu đất nước tiếp tục chính sách mở rộng lãnh thổ. Nhà Đường đem quân lấn chiếm vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam [lãnh thổ Việt Nam hồi đó], ép Tây Tạng thần phục. Nhờ vậy, Trung Quốc dưới thời Đường trở thành một đế quốc phong kiến phát triển nhất.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 10:Phật giáo ở Trung Quốc thịnh hành nhất vào triều đại nào?

A.Hán

B.Đường

C.Minh

D.Thanh

Đáp án :Phât giáo ở Trung Quốc thịnh hành nhất vào triều đại nhà Đường.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 11:Cuộc khởi nghĩa làm cho nhà Minh sụp đổ do ai lãnh đạo?

A.Trần Thắng - Ngô Quang

B.Chu Nguyên Chương

C.Lý Tự Thành

D.Triệu Khuông Dẫn

Đáp án :Do đời sống của nhân dân khổ cực do sự khủng hoảng cuối triều Minh => Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân lại nổ ra. Cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành làm cho triều Minh sụp đổ.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 12:Ai là người sáng lập ra nhà Minh ở Trung Quốc?

A.Trần Thắng - Ngô Quảng

B.Triệu Khuông Dẫn

C.Chu Nguyên Chương

D.Hoàng Sào

Đáp án :Chu Nguyên Chương là người đã sáng lập ra nhà Minh. Năm 1368, khởi nghĩa nông dân lật đổ được nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế ở Nam Kinh, lập ra nhà Minh [1368 - 1644].

Đáp án cần chọn là: C

Câu 13:Các tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng của Trung Quốc thời kì phong kiến bao gồm

A.Thủy hử, Tây du kí, Tam quốc diễn nghĩa.

B.Cửu chương toán thuật, Tây du kí, Hồng lâu mộng.

C.Thủy hử, Tam quốc diễn nghĩa, Bản thảo cương mục.

D.Tây du kí, Tam quốc diễn nghĩa, A quy chính truyện.

Đáp án :Các tác phẩm tiểu thuyết lớn của văn học Trung quốc thời kì phong kiến bao gồm: Tam quốc diễn nghĩa [La Quán Trung], Thủy hử [Thị Nại Am], Tây du kí [Ngô Thừa Ân], Hồng lâu mộng [Tào Tuyết Cần], …

Đáp án cần chọn là: A

Câu 14:Loại hình văn học nổi bật và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật dưới thời Đường là

A.Thơ

B.Kinh kịch

C.Tiểu thuyết

D.Sử thi

Đáp án :Thơ Đường là một trong những lĩnh vực nổi bật nhất của nền văn học Trung Quốc thời kì phong kiến. Thơ Đường phản ánh toàn diện bộ mặt xã hội bấy giờ và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 15:Một loại hình văn học - nghệ thuật mới rất phát triển dưới thời Minh, Thanh là

A.Thơ

B.Kịch nói

C.Kinh kịch

D.Tiểu thuyết

Đáp án :Tiểu thuyết là một hình thức văn học mới phát triển ở thời Minh, Thanh. Với nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung; Thủy Hử của Thị Nại Am; Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân; Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần,…

Đáp án cần chọn là: D

Câu 16:Bốn phát minh kĩ thuật quan trọng nhất của người Trung Quốc bao gồm

A.Phương pháp luyện sắt, làm men gốm, la bàn, thuốc súng

B.Phương pháp luyện sắt, đúc súng, thuốc súng, làm men gốm

C.Giấy, kĩ thuật in, la bàn, thuốc súng.

D.Giấy, kĩ thuật in, phương pháp luyện sắt, thuốc súng

Đáp án :Về mặt kĩ thuật, Trung Quốc có bốn phát minh quan trọng nhất là: Giấy, kĩ thuật in, la bàn, thuốc súng. Đó là những cống hiến rất lớn của nhân dân Trung Quốc đối với nền văn minh thế giới.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 17:Việc tăng cường chính quyền phong kiến dưới thời Đường nhằm mục đích gì?

A.với tay đến tận các địa phương.

B.nâng cao quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế.

C.tăng cường quyền lực của bộ máy nhà nước.

D.đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân.

Đáp án :Dưới thời Đường, bộ máy cai trị phong kiến hoàn chỉnh: cử người thân tín cai quản địa phương; cử người trong họ hay công thần giữ chức Tiết độ sứ, trấn ải biên cương mở khoa thi chọn người ra làm quan.

=> Chế độ phong kiến tạo điều kiện cho quý tộc, địa chủ được tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương đồng thời nâng cao quyền lực tuyệt đối của hoàng đế.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 18:Chế độ tuyển chọn quan lại dưới thời Đường dựa theo hình thức nào?

A.dòng dõi và tiến cử.

B.dòng dõi.

C.khoa cử.

D.tiến cử.

Đáp án :Thời nhà Đường, các khoa thi được mở để tuyển chọn quan lại [không chỉ trong giới quý tộc mà cả con em địa chủ] những người đỗ đạt ra làm quan.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 19:Thời nhà Minh bỏ các chức Thừa tướng, Thái uý và thay vào đó bằng chức gì?

A.Các quan thượng thư phụ trách các bộ

B.Tiết độ sứ

C.Quan văn, quan võ

D.Không thay thế chức nào

Đáp án :Năm 1380, nhà Minh bãi bỏ chức Thừa tướng, Thái úy thay vào đó là các Thượng Thư phụ trách các bộ [6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công] và hoàn chỉnh bộ máy quan lại.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 20:“Con đường tơ lụa” ở Trung Quốc được hình thành dưới triều đại nào?

A.Tần - Hán.

B.Đường.

C.Minh.

D.Thanh.

Đáp án :Vào thời Đường, các tuyến Đường giao thông đã được hình thành trong các thế kỉ trước, hai “con đường tơ lụa” trên đất liền và trên biển cũng được thiết lập.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 21:Chức quan Tiết độ sứ được giao cho những công thần và thân tộc đi caiquản vùng biên cương của Trung Quốc dưới thời

A.Tần - Hán.

B.Đường

C.Thanh.

D.Minh

Đáp án :Các Hoàng đế thời Đường cử người thân tín đi cai quản các địa phương, đặc biệt giao cho các công thần hoặc người thân tộc giữ chức Tiết độ sứ, trấn ải các miền biên cương.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 22:Trong lĩnh vực tư tưởng, người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng Nho giáo là

A.Mạnh Tử.

B.Khổng Tử.

C.Lão Tử.

D.Tuân Tử.

Đáp án :Khổng Tử là người khai sáng, người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng Nho giáo, đồng thời là triết gia lỗi lạc bậc nhất của Á Đông.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 23:Yếu tố nào tạo nên sự khác biệt giữa nông dân tự canh và nông dân lĩnh canh dưới thời Tần?

A.Tài sản nói chung

B.Ruộng đất

C.Vàng bạc

D.Công cụ sở hữu

Đáp án :Yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa nông dân tự canh và nông dân lĩnh canh thời Tần là yếu tố ruộng đất.

- Nông dân tự canh: có ruộng đất để cày cấy.
- Nông dân lĩnh canh: nhận ruộng đất từ địa chủ để cày cấy.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 24:Những tiến bộ trong sản xuất đã tác động và làm cho xã hội Trung Quốc thay đổi như thế nào?

A.Nông dân phải nộp tô thuế, hoa lợi cho địa chủ.

B.Giai cấp địa chủ bị phân hóa thành nhiều bộ phận.

C.Quan hệ bóc lột của địa chủ với nông dân công xã xuất hiện.

D.Quan hệ bóc lột giữa địa chủ với nông dân lĩnh canh xuất hiện.

Đáp án :- Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, nhờ sự xuất hiện của công cụ bằng sắt mà năng xuất lao động tăng lên. Một số quan lại và nông dân giàu có chiếm nhiều ruộng đất, lại có quyền lực trở thành giai cấp địa chủ. => Giai cấp địa chủ xuất hiện.

- Nông dân bị phân hóa:

+ Một bộ phận nông dân giàu có, có nhiều ruộng đất trở thành giai cấp bóc lột.

+ Một số khác vẫn giữ được ruộng đất để cày cấy gọi là nông dân tự canh, có nghĩa vụ nộp thuế và đi lao dịch cho nhà nước.

+ Bộ phận còn lại là nông dân nghèo, không có hoặc bị mất hết ruộng đất phải nhận ruộng của địa chủ để cày cấy và nộp một phần hoa lợi cho địa chủ, gọi là nông dân lĩnh canh.

=> Quan hệ bóc lột bằng địa tô giữa địa chủ và nông dân lĩnh canh xuất hiện, đánh dấu xã hội phong kiến Trung Quốc hình thành.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 25:Ý nào sau đây không phản ánh đúng sự phát triển thịnh đạt của thủ công nghiệp và thương nghiệp dưới thời Đường?

A.Các tác phường luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc

B.Các tuyến giao thông được mở mang phục vụ nhu cầu sản xuất

C.“Con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển được thiết lập và mở mang phục vụ nhu cầu sản xuất

D.Đã thành lập các phường hội và thương hội chuyên sản xuất và buôn bán sản phẩm thủ công

Đáp án :Thời Đường, người dân đã áp dụng những kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất như chọn giống xác định thời vụ. => Sản lượng tăng nhiều hơn trước. Thủ công nghiệp và thương nghiệp bước vào giai đoạn phát triển thịnh đạt. Xưởng thủ công [gọi là tác phường] luyện sắt, đóng thuyền và hàng chục người làm việc. “Con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển được thiết lập và mở mang phục vụ sản xuất.

Đáp án D:Sự thành lập các phường hội và thương hội là biểu hiện của sự phát triển kinh tế ở các trong các thành thị trung đại Tây Âu.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 26:Ý nào sau đây phản ánh đúng sự phát triển thịnh đạt của thương nghiệpdưới thời Đường?

A.Các tác phường luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc.

B.Sản xuất được lụa in hoa và thêu kim tuyến, xuất hiện trung tâm dệt nổi tiếng như Hàng Châu.

C.“Con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển được thiết lập và mở mang phục vụ nhu cầu sản xuất.

D.Thành lập các phường hội và thương hội chuyên sản xuất và buôn bán sản phẩm thủ công.

Đáp án :Dưới thời Đường, thương nghiệp phát triển thịnh đạt. Con đường tơ lụa trên đất liền và trên biển được thiết lập và mở rộng.

Trung Quốc có mối quan hệ buôn bán với hầu hết các nước châu Á. Lái buôn nước ngoài hoặc bằng đường biển, hoặc dùng lạc đà vượt sa mạc [“con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển] chở hàng quý như ngà voi, sừng tê, thủy tinh,… đến Trung Quốc bán rồi chở về nước họ vàng, bạc và các sản phẩm nổi tiếng như lụa, đồ sứ, giấy bút,…

Các đáp án A, B, D nói về lĩnh vực thủ công nghiệp.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 27:Ý nào sau đây không phản ánh đúng chính sách xây dựng chế độ quân chủchuyên chế tập quyền của Minh Thái Tổ?

A.Chia đất nước thành các tỉnh

B.Bỏ các chức Thừa tướng, Thái úy, thay thế là các quan Thượng thư đứng đầu các bộ; thành lập 6 bộ [Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công]

C.Ban hành chế độ thi cử chặt chẽ, quy củ để tuyển chọn quan lại

D.Hoàng đế tập trung quyền hành, trực tiếp nắm quân đội

Đáp án :Các chính sách của Minh Thái Tổ nhằm xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền là

- Bỏ các chức Thừa tướng, Thái úy, thay thế là các quan Thượng thư đứng đầu các bộ; thành lập 6 bộ [Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công], hoàn chỉnh bộ máy quan lại.

- Tăng cường phong tước và ban cấp đất đai cho con cháu trong hoàng tộc, công thần thân tín để làm chỗ dựa cho triều đình.

- Chia đất nước thành các tỉnh chịu sự chỉ đạo của các bộ ở triều đình.

- Hoàng đế tập trung mọi quyền hành trong tay, trực tiếp nắm quân đội.

Thời Minh không có chính sách ban hành chế độ thi cử chặt chẽ, quy củ để tuyển chọn quan lại.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 28:Chính sách đối nội của các vua thời Tần - Hán có tác động như thế nàođến xã hội phong kiến Trung Quốc?

A.Xã hội phong kiến phát triển, đạt đến đỉnh cao.

B.Gia tăng mâu thuẫn giữa các dân tộc trong xã hội.

C.Xã hội ổn định, thế nước vững vàng.

D.Khởi nghĩa nông dân nổ ra ở khắp nơi.

Đáp án :- Các chính sách đối nội thời Tần:

+ Chia đất nước thành các quận, huyện và trực tiếp cử quan lại đến cai trị.

+ Ban hành một chế độ đo lường và tiền tệ thống nhất cho cả nước.

- Các chính sách đối nội thời Hán:

+ Xóa bỏ chế độ pháp luật hà khắc của nhà Tần.

+ Giảm nhẹ tô thuế và sưu dịch cho nông dân.

+ Khuyến khích sản xuất nông nghiệp.

=> Tác động: Kinh tế phát triển, xã hội ổn định, thế nước vững vàng.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 29:Ý nào sau đây không thuộc nội dung cơ bản của Nho giáo?

A.Quan niệm về quan hệ giữa vua - tôi, cha - con, vợ - chồng.

B.Đề cao quyền bình đẳng của phụ nữ

C.Đề xướng con người phải tu nhân, rèn luyện đạo đức

D.Giáo dục con người phải thực hiện đúng bổn phận với quốc gia, với gia đình

Đáp án :Nho giáo là tư tưởng đề cao vai trò của người đàn ông, đối với gia đình con cái phải giữ chữ hiếu và phục tùng cha. Nho giáo không đề cao quyền bình đẳng của phụ nữ, hay nói cách khác là Nho giáo “Trọng nam khinh nữ”.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 30:Sắp xếp theo thứ tự cho đúng với thuyết “ngũ thường” của Nho giáo

A.Nhân - Nghĩa - Lễ - Tín - Trí

B.Nhân - Nghĩa - Tín - Trí - Lễ

C.Nhân - Trí - Lễ - Nghĩa - Tín

D.Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín

Đáp án :Thuyết “ngũ thường” hay còn gọi là 5 đức tính hằng có của con người. Theo quan niệm của Nho giáo, 5 điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 31:Nhà Thanh ở Trung Quốc được xem là

A.Triều đại ngoại tộc

B.Triều đại phong kiến dân tộc

C.Triều đại đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao

D.Triều đại được thành lập sau phong trào khởi nghĩa nông dân rộng lớn

Đáp án :- Sau cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành làm cho triều đình Mãn Thanh sụp đổ, một bộ tộc ở Đông Bắc Trung Quốc là Mãn Thanh đã đánh bại Lý Tự Thành, lập ra nhà Thanh [1644 – 1911].

- Dân tộc Hán dưới các triều đại phong kiến coi ngưởi Mông Cổ và Mãn Thanh là ngoại tộc đã đánh chiếm và thống trị đất nước to lớn này qua nhiều thế kỷ và gây ra họa đồng hóa lớn lao, nghiêm trọng, làm thay đổi nền văn hóa cố cựu và tư tưởng Hán tộc. Đối với Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ cả ngàn năm và sau đó lại xâm lăng ở từng triều đại nữa, trong đó có Mông Cổ và Mãn Thanh.

=> Triều Thanh là triều đại ngoại tộc.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 32:Ý nào không phải biểu hiện sự suy yếu của xã hội phong kiến Trung Quốccuối thời Minh - Thanh?

A.Bao chiếm và tập trung ruộng đất vào tay giai cấp quý tộc.

B.Nông dân phải chịu nhiều loại tô thuế cao, lao dịch nặng nề.

C.Các công xưởng thủ công xuất hiện trong thủ công nghiệp.

D.Nông dân đứng lên khởi nghĩa ở nhiều nơi.

Đáp án :Những biểu hiện về sự suy yếu của xã hội phong kiến Trung Quốc cuối thời Minh - Thanh:

- Bao chiếm và tập trung ruộng đất vào tay giai cấp quý tộc, địa chủ diễn ra nghiêm trọng: vương công có nhiều “hoàng trang” và địa chủ có hàng nghìn mẫu ruộng.

- Vua quan chỉ biết đục khoét nhân dân để sống xa hoa, trụy lạc.

- Những người nông dân và thợ thủ công ngày càng cực khổ phải chịu tô thuế cao, lao dịch nặng nề.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra, chính quyền phong kiến suy yếu.

- Chính sách “bế quan tỏa cảng” của nhà Thanh gây nên xung đột kịch liệt dẫn đến sự sụp đổ của chế độ phong kiến Trung Quốc.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 33:Tại sao Nho giáo lại trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội phongkiến Trung Quốc và một số nước phương Đông khác, trong đó có Việt Nam?

A.Là công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền

B.Phù hợp với tư tưởng đạo đức truyền thống của người phương Đông

C.Nội dung tư tưởng có tính tiến bộ, nhân văn hơn hẳn

D.Có tác dụng giáo dục con người phải thực hiện bổn phận

Đáp án :Các triều đại phong kiến Trung Quốc đều chú trọng củng cố quyền lực tối cao của nhà vua và dòng họ. Đồng thời củng cố bộ máy chính quyền làm sao với tay xuống tận các địa phương. Đi liền với những chính sách này, các triều đại phong kiến cần có một hệ tư tưởng đi kèm. Nho giáo bao gồm các quan niệm về quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng vợ là giường mối, kỉ cương đạo đức phong kiến. Nho giáo mặc dù sau này có ít nhều thay đổi qua các thời đại nhưng vẫn là công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến… => Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội phong kiến Trung Quốc bởi nó là công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến tập quyền.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 34:Nhà Đường sau khi thành lập đã thực hiện nhiều biện pháp tăng cường bộ máy cai trị, ngoại trừ việc

A.củng cố bộ máy triều đình, với quyền lực tuyệt đối của hoàng đế

B.cử người thân tín cai quản các địa phương

C.cử những người thân tộc và các công thần giữ chức Tiết độ sứ cai trị các vùng biên cương

D.xóa bỏ chế độ tiến cử quan lại

Đáp án :Các biện pháp tăng cường bộ máy cai trị của chính quyền nhà Đường:

- Cử những người thân tộc và các công thần giữ chức Tiết độ sứ cai trị các vùng biên cương.

- Cử người thân tín cai quản các địa phương, tạo điều kiện cho quý tộc, địa chủ được tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương.

- Củng cố bộ máy triều đình, với quyền lực tuyệt đối của hoàng đế.

Nhà Đường có mở thêm các khoa thi để tuyển chọn quan lại nhưng không xóa bỏ chế độ tuyển chọn quan lại.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 35:Công cuộc thống nhất đất nước của nhà Tần mang ý nghĩa gì quan trọng?

A.chấm dứt thời kỳ chiến tranh loạn lạc kéo dài ở Trung Quốc.

B.tạo điều kiện cho Tần Doanh Chính lập triều đại nhà Tần.

C.tạo điều kiện cho chế độ phong kiến được xác lập ở Trung Quốc.

D.chấm dứt chiến tranh, xác lập chế độ phong kiến Trung Quốc.

Đáp án :Trước thời Tần, cục diện Xuân Thu – Chiến Quốc diễn ra, đây là các cuộc thôn tính và xâu xé lẫn nhau giữa các quốc gia nhỏ ở Trung Quốc trên lưu vực sông Hoàng Hà và Trường Giang. Cho đến thế ki IV TCN, Tần trở thành nước có tiềm lực về kinh tế và quân sự mạnh hơn cả. Dựa vào ưu thế đó, nhà Tần đã lần lượt tiêu diệt các đối thủ, chấm dứt tình trạng chiến tranh, chia cắt lãnh thổ. Năm 221 TCN, Tần đã thống nhất được Trung Quốc, xác lập chế độ phong kiến ở Trung Quốc.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 36:Quan hệ sản xuất chính được thiết lập dưới thời Tần - Hán là

A.Quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã.

B.Quan hệ bóc lột của chủ nô đối với nô lệ.

C.Quan hệ bóc lột của lãnh chúa đối với nông nô.

D.Quan hệ bóc lột của địa chủ đối với nông dân lĩnh canh.

Đáp án :- Quan hệ sản xuất phong kiến Trung Quốc được thiết lập dưới thời Tần - Hán, đó là quan hệ bóc lột bằng địa tô giữa địa chủ vớinông dân lĩnh canh.

- Giai cấp địa chủ xuất hiện khi: một số quan lại và nông dân giàu có chiếm nhiều ruộng đất, lại có quyền lực trở thành giai cấp địa chủ.

- Nông dân bị phân hóa:

+ Một bộ phận nông dân giàu có, có nhiều ruộng đất trở thành giai cấp bóc lột.

+ Một số khác vẫn giữ được ruộng đất để cày cấy gọi là nông dân tự canh, có nghĩa vụ nộp thuế và đi lao dịch cho nhà nước.

+ Bộ phận còn lại là nông dân nghèo, không có hoặc bị mất hết ruộng đất phải nhận ruộng của địa chủ để cày cấy và nộp một phần hoa lợi cho địa chủ, gọi là nông dân lĩnh canh.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 37:Các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ vào cuối mỗi triều đại phong kiếnTrung Quốc đều xuất phát từ nguyên nhân nào?

A.Triều đại phong kiến suy sụp, mâu thuẫn xã hội sâu sắc, đời sống của người nông dân quá cực khổ

B.Sự tranh giành quyền lực giữa các thế lực phong kiến, đời sống người nông dân quá khổ cực

C.Mâu thuẫn xã hội sâu sắc, các thế lực ngoại bang xâm lược, đời sống người dân quá khổ cực

D.Nhà nước không chăm lo đến đời sống của nông dân, các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực.

Đáp án :Các triều đại phong kiến Trung Quốc cũng giống như các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó ở cuối mỗi triều đại hầu hết đều rơi vào khủng hoảng trầm trọng => đời sống nhân dân cực khổ => mâu thuẫn xã hội gay gắt => bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân. Xét từng triều đại phong kiến Trung Quốc có thể minh chứng cho điều này:

- Triều Tần: Do các cuộc chiến tranh liên miên hao người tốn của => mâu thuẫn giai cấp gay gắt => Nông dân khắp nơi vùng dậy, các thế lực cát cứ cũng tranh giành lẫn nhau => nhà Hán sụp đổ rồi Lý Uyên lập ra nhà Đường.

- Triều Đường: Cuối thời Đường, mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân sống trong cảnh cùng cực do to thuế nặng nề, sưu dịch liên miên, nạn đói thường xuyên diễn ra = > Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân diễn ra. Đến sau đó, cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1368 lật đổ được nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, lập ra nhà Minh [1368 – 1644].

- Triều Minh: cũng rơi và khủng hoảng như hai triều đại trước => Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân lại nổ ra, trong đó cuộc nổi dậy của Lý Tự Thành làm cho triều Minh sụp đổ.

- Triều Thanh: giữa lúc triều Thanh sụp đổ như vậy, một bộ tộc ở Đông Bắc Trung Quốc là Mãn Thanh đã đánh bại Lý Tự Thành, lập ra nhà Thanh.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 38:Ý nào sau đây không phải nguyên nhân đưa đến nền kinh tế tư bản chủnghĩa vẫn không phát triển được ở nước này?

A.Do Trung Quốc không phát triển theo đúng mô hình của các nước phương Tây và Nhật Bản

B.Quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời vẫn được duy trì chặt chẽ ở Trung Quốc

C.Chế độ cai trị độc đoán của chính quyền phong kiến chuyên chế

D.Những mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành yếu ớt

Đáp án :Kinh tế công thương nghiệp ở Trung Quốc sớm phát triển nhưng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn không phát tiển được ở nước này do:

- Quan hệ sản xuất phong kiễn lối thời vẫn được duy trì ở Trung Quốc đó là quan hệ bóc lột của địa chủ với nông dân. Trải qua các triều đại phong kiến lâu đời ở Trung Quốc, quan hệ sản xuất này vẫn tiếp tục được duy trì bền vừng và chưa có biểu hiện bị phá vỡ.

- Chế độ cai trị độc đoán của chính quyền chuyên chế, các triều đại phong kiến Trung Quốc đều thực hiện các biện pháp có thể để củng cố quyền lực của nhà vua và dòng họ. Đặc biệt là dưới thời Đường dù kinh tế công thương nghiệp phát triển nhưng không đủ điều kiện để hình thành kinh tế tư bản chủ nghĩa khi quyền lợi có quý tộc và dòng họ vẫn được đặt lên trên hết, quý tộc và địa chủ được tạo điều kiện tham gia vào bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương.

- Những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành yếu ớt, nhà nước vẫn củng cố chế độ ruộng đất quân điền, buộc nhân dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ tô, dung điệu.

Trung Quốc không phát triển theo đúng mô hình của các nước phương Tây và Nhật Bản không phi là nguyên nhân giải thích đúng tại sao kinh tế công thương nghiệp ở Trung Quốc sớm phát triển nhưng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn không phát triển được ở nước này.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 39:Đâu không phải là biểu hiện mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủnghĩa xuất hiện ở Trung Quốc dưới thời Minh?

A.Các hình thức công xưởng thủ công xuất hiện.

B.Các ông chủ bỏ vốn cho nông dân trồng mía và thu lại bằng đường.

C.Các thương nhân châu Âu đến buôn bán, thành thị mọc lên nhiều và phồn thịnh.

D.Nhà nước lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân.

Đáp án :Dưới thời Minh, những mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện ở Trung Quốc. Biểu hiện:

- Trong thủ công nghiệp:

+ Hình thức công xưởng thủ công đã xuất hiện trong các nghề dệt, làm giấy, đồ sứ. Ở Giang Tây có những trung tâm làm đồ gốm lớn như Cảnh Đức có tới 3000 lò gốm sứ.

+ Có lao động làm thuê, quan hệ giữa chủ và người làm thuê là chủ xuất vốn, thợ xuất sức: Có những chủ xưởng dệt nắm trong tay hàng vạn lạng bạc tiền vốn, hàng chục khung cửi và hàng chục thợ. Những người thợ này làm thuê để lấy tiền công. => Đáp án A đúng.

- Trong nông nghiệp: có hình thức bỏ vốn liếng và thu sản phẩm gọi là hình thức bao mua, mùa xuân họ xuất vốn cho nông dân trồng mía, mùa đông thu lại bằng đường. => Đáp án B đúng.

- Trong thương nghiệp: Từ thế kỉ XVI, đã có một số thương nhân châu Âu đến Trung Quốc buôn bán. Các thành thị ở thời Minh mọc lên nhiều và rất phồn thịnh. Bắc Kinh, Nam Kinh không chỉ là trung tâm chính trị mà còn là trung tâm kinh tế lớn. => Đáp án C đúng.

- Đáp án D. Nhà nước lấy đất công và ruộng bỏ hoang chia cho nông dân - là biểu hiện của kinh tế Trung Quốc dưới thời Đường.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 40:Chế độ phong kiến Trung Quốc được xác lập khi

A.Quan hệ vua – tôi được xác lập

B.Quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã được xác lập

C.Quan hệ bóc lột địa tô của địa chủ đối với nông dân lĩnh canh được xác lập

D.Vua Tần xưng là Hoàng đế

Đáp án :Chế độ phong kiến được xác lập khi hình thành được quan hệ bóc lột địa tô của địa chủ với nông dân lĩnh canh. Khi triều Tần được thành lập, các giai cấp mới đã hình thành.

- Quan lại có nhiểu ruộng đất tư trở thành địa chủ.

- Nông dân phân hóa thành:

+ Nông dân tự canh: vẫn giữ được ruộng đất để cày cấy.

+ Nông dân lĩnh canh: không có ruộng, phải nhận ruộng của địa chủ đề cày cấy và nộp một phần hoa lợi cho địa chủ, gọi là tô ruộng đất.

=> Quan hệ bóc lột địa tô của đại chủ đã thay thế cho quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã.

Đáp án cần chọn là: C

Câu 41:Giai cấp địa chủ và nông dân tá điền được hình thành ở Trung Quốc phảnánh điều gì?

A.Xã hội phong kiến Trung Quốc được hình thành.

B.Sự biến đổi giai cấp trong xã hội phong kiến Trung Quốc.

C.Mâu thuẫn xã hội gay gắt giữa địa chủ và nông dân tá điền.

D.Hình thành quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã.

Đáp án :- Giai cấp địa chủ: Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, nhờ sự xuất hiện của công cụ bằng sắt mà tăng năng xuất lao động. Một số quan lại và nông dân giàu có chiếm nhiều ruộng đất, lại có quyền lực trở thành giai cấp địa chủ.

- Nông dân bị mất ruộng đất, nghèo túng phải nhận ruộng đất của địa chủ để cày cấy hình thành nên giai cấp nông dân tá điền.

=> Xã hội phong kiến Trung Quốc được hình thành.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 42:Chế độ tuyển chọn quan lại dưới thời Đường có điểm gì tiến bộ hơn so với các triều đại trước?

A.Tuyển chọn quan lại từ con em của quý tộc

B.Tuyển chọn cả con em địa chủ thông qua khoa cử

C.Bãi bỏ chế độ tiến cử, tất cả đều phải trải qua thi cử

D.Thông qua thi cử tự do cho mọi đối tượng

Đáp án :- Các triều đại trước, hệ thống quan lại triều đình đều thuộc giới quý tộc, nếu có địa chủ thì sẽ thông qua hình thức tiến cử chứ chưa có khoa cử.

- Triều Đường có tuyển chọn thêm con em của địa chủ thông qua khoa cử, những người đỗ đạt có thể làm quan => không chỉ quý tộc mà địa chủ cũng có thể tham gia vào bộ máy chính quyền từ Trung ương đến Địa phương.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 43:Điểm khác trong chính sách cai trị của nhà Nguyên so với nhà Tống là gì? Vì sao có sự khác nhau đó?

A.Nhà Nguyên thực hiện chính sách áp bức dân tộc, phân biệt đối xử hà khắc. Do nhà Nguyên là vương triều ngoại tộc

B.Nhà Nguyên thực hiện khuyến khích phát triển nông nghiệp và thương nghiệp. Do nhà Nguyên có những vị vua anh minh.

C.Nhà Nguyên thực hiện áp bức dân tộc đối với người Mãn. Do nhà Nguyên xuất thân từ tộc người Mông Cổ.

D.Nhà Nguyên thực hiện miễn giảm các thứ thuế và sưu dịch nặng nề. Do nhà Nguyên xuất thân từ tộc người Mông Cổ.

Đáp án :- Sự khác nhau trong chính sách cai trị của nhà Nguyên so với nhà Tống:

+ Chính sách của nhà Tống là xóa bỏ hoặc miễn giảm các thứ thuế và sưu dịch nặng nề của triều đại trước, khuyến khích phát triển nông ngiệp và thủ công nghiệp…

+ Chính sách của Nhà Nguyên: Chính sách phân biệt, đối xử giữa các dân tộc, trong đó: Người Mông Cổ có địa vị cao nhất, hưởng mọi đặc quyền, người Hán thì bị cấm đoán đủ thứ.

- Giải thích sự khác nhau:

Do nhà Tống là của người Trung Quốc thành lập. Còn nhà Nguyên là triều đại bên ngoài được lập nên bởi chính sách xâm lược của người Mông Cổ. Nên họ thực hiện những chính sách áp bức dân tộc, phân biệt đối xử hà khắc đối với nhân dân bản xứ.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 44:Nền kinh tế Trung Quốc dưới thời Minh có đặc điểm gì nổi bật?

A.Xuất hiện nhiều xưởng thủ công lớn

B.Thành thị mọc lên rất nhiều và rất phồn thịnh

C.Xây dựng hoàn chỉnh bộ máy quân chủ chuyên chế tập quyền

D.Kinh tế hàng hóa phát triển, mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện

Đáp án :Đặc điểm nổi bật nhất của Trung Quốc thời Minh là kinh tế hàng hóa phát triển, mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển.

- Một số nghề đã có những xưởng thủ công lớn.

- Các nhà buôn xuất hiện và hoạt động tích cực.

- Các thành thị mọc lên nhiều và rất phồn thịnh. Bắc Kinh vừa là trung tâm chính trị vừa là trung tâm kinh tế lớn.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 45:Đặc điểm nổi bật nhất của chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường là gì?

A.Chính quyền phong kiến được củng cố và hoàn thiện hơn.

B.Kinh tế phát triển tương đối toàn diện.

C.Mở rộng lãnh thổ thông qua xâm lấn, xâm lược các lãnh thổ bên ngoài.

D.Chế độ phong kiến Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao.

Đáp án :Đặc điểm nổi bật nhất của chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường là chế độ phong kiến phát triển đến đỉnh cao:

- Kinh tế phát triển tương đối toàn diện:

+ Nhà nước thực hiện chế độ quân điền, áp dụng kĩ thuật canh tác mới vào sản xuất như chọn giống, định thời vụ. => Sản lượng tăng nhiều hơn trước.

+ Thủ công nghiệp bước vào giai đoạn thịnh đạt, xưởng thủ công luyện sắt, đóng thuyền có hàng chục người làm việc.

+ Hai “con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển được hình thành.

Đáp án cần chọn là: D

Câu 46:Chính sách của các triều đại phong kiến Tần, Hán, Đường có điểm gì chung?

A.Giữ quan hệ hữu hảo, thân thiên với các nước láng giềng

B.Luôn thực hiện chính sách “Đại Hán”, đẩy mạnh xâm lược để mở rộng lãnh thổ

C.Chinh phục thế giới thông qua “con đường tơ lụa”

D.Liên kết với các nước lớn, chinh phục các nước nhỏ, yếu

Đáp án :Các triều đại phong kiến Trung Quốc đều thực hiện chính sách đối ngoại quan trọng là xâm lược mở rộng lãnh thổ - chính sách “Đại hán”.

- Nhà Tần, Hán: từ đất gốc của Trung Hoa ở vùng trung lưu sông Hoàng Hà, nhà Tần và nhà Hán đã lần lượt đoạt lấy vùng thượng lưu sông Hoàng [Cam Túc], thôn tính vùng Trường Giang cho đến lưu vực sông Châu, lấn dần phía Đông Thiên Sơn, xâm lược Triều Tiên và đất đai của người Việt Cổ.

- Nhà Đường:đem quân lấn chiến vùng Nội Mông, chinh phục Tây Vực, xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ đô hộ ở An Nam, ép Tây Tạng phải thần phục. => đế quốc phong kiến phát triển nhất.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 47:Mỗi nội dung ở cột bên trái gắn với triều đại phong kiến Trung Quốc nào ở cột bên phải?

1. Chế độ phong kiến Trung Quốc

2. Chế độ phong kiến Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao

3. Mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện Trung Quốc

4. Chế đồ phong kiến Trung Quốc suy vong

a] Đường

b] Tần, Hán

c] Thanh

d] Minh


A.1 – b; 2 – a; 3 – d; 4 – c.

B.1 – a; 2 – b; 3 – c; 4 – d.

C.1 – c; 2 – d; 3 – a; 4 – b.

D.1 – b; 2 – a; 3 – c; 4 – d.

Đáp án :

Đáp án cần chọn là: A


Câu 48:Dưới thời Đường, “con đường tơ lụa” có ý nghĩa là

A.Tăng cường giao lưu hàng hóa và văn hóa giữa Trung Quốc với thế giới.

B.Làm cho nghề dệt lụa của Trung Quốc phát triển mạnh hơn.

C.Thúc đẩy thương nghiệp Trung Quốc phát triển.

D.Tăng cường sự liên hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia kề cận.

Đáp án :Trung Quốc là quê hương của tơ lụa. Từ rất sớm, tơ tằm cùng các sản phẩm dệt nổi tiếng của Trung Quốc đã được vận chuyển ra nước ngoài. Sự ưa chuộng ngày càng phổ biến cùng những chuyến hàng mang sản phẩm tơ lụa sang phương Tây đã dần hình thành nên tuyết đường giao thương quốc tế mà về sau nó được mang tên là con đường tơ lụa. “Con đường tơ lụa” trên bộ và trên biển và trên bộ của Trung Quốc dưới thời Đường có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy giao lưu hàng hóa và văn hóa giữa Trung Quốc và thế giới.

- Văn hóa: việc khai thông con đường tơ lụa đã mở ra một kỷ nguyên mới trong vấn đề giao thông, trao đổi thương mại và giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và phương Tây. Trung Quốc là nước nuôi tằm ươm tơ sớm nhất thế giới và hàng dệt ra tơ lụa ra đời rất được sự ưa chuộng của người dân, nên ngay từ đầu thời Tây Hán trong xã hội Trung Hoa đã xuất hiện những thương nhân dũng cảm muốn mang tơ lụa đến bán cho các quốc gia láng giềng gần biên giới nhà Hán để kiếm lời. Có quá trình giao thương đi liên với đó sẽ có sự giao lưu về văn hóa.

- Giao lưu hàng hóa:tuy không đặt mục đích thương mại lên đầu, nhưng trên thực tế, sau khi hình thành tuyến đường biển phía Nam, hoạt động thương mại cũng ngày một phát triển, tuyến đường này vươn tới đâu là ở đó diễn ra hoạt động buôn bán tơ lụa và hàng tơ lụa Trung Quốc được chuyển tới đó. Đây là mặt hàng hấp dẫn nên trong hoạt động buôn bán giữa các nước cũng xảy ra một số tranh chấp.

Đáp án cần chọn là: A

Câu 49:Ai được mệnh danh là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất thời Đường?

A.Lý Bạch.

B.Đỗ Phủ.

C.Bạch Cư Dị.

D.Vương Bột.

Đáp án :Đỗ Phủ được mệnh danh là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất thời Đường. Với một đời phải sống trong cảnh nghèo nàn, lận đận, đã giúp ông thấu hiểu cuộc sống khổ cực của nhân dân. Do đó, phần lớn thơ của Đỗ Phủ đều tập trung miêu tả những cảnh bất công trong xã hội, miêu tả cảnh nghèo khổ và những nỗi oan khuất của nhân dân lao động, vạch trần sự áp bức bóc lột và xa xỉ của giai cấp thống trị.

Ví dụ, trong bài thơ Từ kinh đô về huyện Phụng Tiên, ông đã miêu tả tỉ mỉ với dụng ý tố cáo cảnh xa hoa phè phỡn của Đường Huyền Tông, Dương Quý Phi và cả tập đoàn quý tộc ở Li Sơn với những câu thơ:

“Bóng đèn ngọc chập chờn sáng rực,

Quan Vũ lâm chầu chực đông sao!

Vua tôi sung sướng xiết bao,

Kẻ ra bàn tắm người vào bàn ăn.”

Tiếp sau đó, ông nêu lên cảnh trái ngược trong xã hội:

“Cửa son rượu thịt ôi,

Ngoài đường xương chết buốt.”

Đáp án cần chọn là: B

Câu 50:Lịch Sử Việt Nam chịu ảnh hưởng như thế nào bởi chính sách đối ngoạicủa các triều đại phong kiến Trung Quốc?

A.Có quan hệ bang giao hữu nghị, cùng phát triển

B.Trở thành đối tượng xâm lược của tất cả các triều đại phong kiến ở Trung Quốc

C.Trở thành đối tượng xâm lược của một số các triều đại phong kiến ở Trung Quốc

D.Đất nước không phát triển được.

Đáp án :Lịch Sử Việt Nam suốt thời gian tồn tại đều chịu ảnh hưởng của chính sách đối ngoại của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đó là chính sách xâm lược và bành trướng lãnh thổ. Việt Nam đã trở thành đối tượng xâm lược của tất cả các triều đại phong kiến ở Trung Quốc.

Đáp án cần chọn là: B

Câu 51:Đâu là chính sách đối ngoại xuyên suốt của Trung Quốc thời phong kiếnvới Việt Nam?

A.Bành trướng, xâm lược.

B.Bế quan tỏa cảng.

C.Hòa hảo, mềm dẻo.

D.Lúc hòa hiếu, lúc chiến tranh.

Đáp án :Chính sách đối ngoại xuyên suốt của Trung Quốc thời phong kiến đối với Việt Nam là bành trướng, xâm lược. Cụ thể:

- Thời Hán: Trung Quốc tiến hành xâm chiếm nước Nam Việt và đặt ách cai trị ở đây. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Việt là: khởi nghĩa Hai Bà Trưng [năm 40]

- Thời Đường: củng cố chế độ thống trị ở An Nam, Khúc Thừa Dụ đứng dậy khởi nghĩa [905 - 907].

- Thời Tống: năm 981 và năm 1076, nhà Tống đem quân xâm chiếm Đại Việt. Nhưng đều thất bại với cuộc kháng chiến do Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt lãnh đạo.

- Nhà Nguyên: đem quân xâm lược Đại Việt và thất bại với cuộc kháng chiến chống Nguyên của nhà Trần [1285, 1287 - 1288].

- Nhà Minh: đặt ách cai trị Đại Việt sau thất bại của nhà Hồ [1400 - 1407]. Khởi nghĩa Lam Sơn [1418 - 1427] đã khiến quân Minh phải đầu hàng rút về nước.

- Nhà Thanh: tiến hành xâm lược thất bại với cuộc kháng chiến của Nguyễn Huệ [1789].

Đáp án cần chọn là: A

Tải xuống

Bài giảng: Bài 5: Trung Quốc thời phong kiến [Tiết 2] - Cô Triệu Thị Trang [Giáo viên Tôi]

Xem thêm bộ câu hỏi trắc nghiệm Lịch Sử lớp 10 chọn lọc, có đáp án mới nhất hay khác:

Giới thiệu kênh Youtube Tôi

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

[ĐCSVN] - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ [Ảnh tư liệu]

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn [như công nghiệp vận tải, ngân hàng…] của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga [1917], đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [Dự án để thảo luận trong Đảng] được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó [địa chủ] mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất [3/1935]. Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” [phê bình và tự phê] với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân [kẻ thù] chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết]. 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công [Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la][10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ [5/1936]. Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt minh]. Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” [1927] và cương lĩnh cách mạng đầu tiên [chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt] của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 [tháng 5/1941] là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Video liên quan

Chủ Đề