Tâm lý học lứa tuổi tiểu học pdf
Show
Phần 1 của cuốn Giáo trình Tâm lý học Tiểu học gồm 8 chương trình bày về tâm lý, hoạt động - giao tiếp - nhân cách, lý luận về sự phát triển tâm lý ở trẻ em, những tiền đề của sự phát triển tâm lý học sinh tiểu học, đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học, các hoạt động của học sinh tiểu học, một số vấn đề tâm lý học dạy học và giáo dục tiểu học, một số vấn đề về nhân cách giáo viên tiểu học.
Tags:
Share This Page
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TẬP BÀI GIẢNG TÂM LÍ HỌC TIỂU HỌC (Lưu hành nội bộ) HÀ NỘI - NĂM 201 7 TẬP BÀI GIẢNG TÂM LÍ HỌC TIỂU HỌC ( Tài liệu dùng cho hệ cử nhân Giáo dục Tiểu học) HÀ NỘI - NĂM 201 7
2 TÂM LÍ HỌC TIỂU HỌCMỤC TIÊU MÔN HỌC
GIỚI THIỆU MÔN HỌC TT Tên chương học Số tiết trên lớp (LT/TH) Số tiết tự học 1 Khái quát về Tâm lí học tiểu học 6 (2/4) 12 2 Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học 9 (3/6) 18 3 Các hoạt động cơ vản của học sinh tiểu học 8 (3/5) 16 4 Tâm lí học dạy học tiểu học 7 (2/5) 14 5 Tâm lí học giáo dục tiểu học 7 (2/5) 14 6 Tâm lí học người giáo viên tiểu học 8 (3/5) 16 Tổng cộng 45 (15/30) 90 ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN MÔN HỌCSinh viên đã học xong học phần Tâm lí học đại cương, Sinh lí học lứa tuổi học sinh tiểu học. 3 CHƯƠNG 1KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÍ HỌC TIỂU HỌCHọc phần Tâm lí học tiểu học được tích hợp từ hai chuyên ngành Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm tiểu học. 1 Đối tượng và nhiệm vụ của Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm là hai lĩnh vực tâm lí học gắn bó chặt chẽ với nhau trong hoạt động sư phạm, hoạt động giáo dục. Đây là hai chuyên ngành cơ bản, phát triển sớm nhất của Tâm lí học. 1.1. Đối tượng của Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm Đối tượng của Tâm lí học lứa tuổi tiểu học Tâm lí học lứa tuổi tiểu học là một ngành Tâm lí học nghiên cứu những đặc điểm tâm lí, các quy luật, các điều kiện, động lực phát triển tâm lí ở lứa tuổi tiểu học. Tâm lí học lứa tuổi tiểu học không chỉ chú ý nghiên cứu đặc điểm tâm lí của cá nhân ở lứa tuổi này, các đặc điểm khác biệt về tâm lí trẻ em trong pham vi cùng một lứa tuổi tiểu học mà còn nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của việc lĩnh hội tri thức, phương thức hành động, các dạng hoạt động khác nhau của cá nhân đang được phát triển. Các dấu hiệu đặc trưng cho sự phát triển tâm lí của trẻ từ việc nảy sinh cái mới, sự chuyển biến từ những phản ứng đơn giản đến những hành động phức tạp; từ việc nắm ngôn ngữ đến việc hình thành ý thức, tự ý thức nhân cách của trẻ là những cứ liệu để từ đó rút ra những đặc điểm tâm lí của trẻ em ở các giai đoạn lứa tuổi này và rút ra những quy luật cơ bản về sự phát triển tâm lí học sinh tiểu học. Đối tượng của Tâm lí học sư phạm Tâm lí học sư phạm nghiên cứu các đặc điểm tâm lí, các qui luật tâm lí của việc dạy học và giáo dục, nghiên cứu cơ sở tâm lí của quá trinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các phẩm chất trí tuệ và nhân cách người học, đồng thời Tâm lí học sư phạm cũng nghiên cứu các yếu tố tâm lí về phía người làm công tác giáo dục, những vấn đề tâm lí của mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng như mối quan hệ qua lại giữa học sinh với nhau. Việc vạch ra nội dung tâm lí, cơ sở tâm lí của quá trình dạy học và giáo dục tạo ra cơ sở khoa học cho việc xác định nguyên tắc, hệ thống phương pháp, biện pháp tiến hành điều khiển quá trình dạy học, giáo dục nhằm hình thành và phát triển trí tuệ, nhân cách người học tới mức cao nhất, đem lại hiệu quả trong dạy học và giáo dục. Trong các nội dung về tâm lí học sư phạm có các nội dung về tâm lí học của việc dạy học và giáo dục học sinh tiểu học. 1.1. Nhiệm vụ của Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm Nhiệm vụ của Tâm lí học lứa tuổi tiểu học: 5 này tạo thành một thể thống nhất khó tách bạch. Việc phân ranh giới giữa hai chuyên nghành này có tính tương đối, trong mối quan hệ đó Tâm lí học lứa tuổi là cơ sở không thể thiếu của Tâm lí học sư phạm. 1.1. Ý nghĩa của Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm tiểu học Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm tiểu học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lí luận, góp phần tích cực vào việc đấu tranh chống lại những quan điểm duy tâm, phản khoa học về sự nảy sinh phát triển tâm lí con người, về nguồn gốc, động lực, các điều kiện hình thành phát triển tâm lí, khẳng định quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về phát triển tâm lí con người.
1.1. Phương pháp nghiên cứu Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm tiểu học Để nghiên cứu các đặc điểm tâm lí, sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học, trong dạy học và giáo dục cần phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau của khoa học tâm lí. Các phương pháp trong Tâm lí học lứa tuổi tiểu học và Tâm lí học sư phạm tiểu học không nằm ngoài các phương pháp nghiên cứu nói chung của tâm lí học, trong đó có các phương pháp cơ bản sau:
6 Song hai phương pháp cơ bản nhất trong tâm lí học lứa tuổi và sư phạm là quan sát và thực nghiệm. + Phương pháp quan sát Xuất phát từ thực tiễn biểu hiện tâm lí của con người qua lời nói, cử chỉ, hành vi, hoạt động vì thế trong Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm, quan sát là phương pháp nghiên cứu cơ bản, đầu tiên trong nghiên cứu. Quan sát là quá trình tri giác, theo dõi có mục đích, có kế hoạch sự nảy sinh, diễn biến và thể hiện tâm lí của trẻ qua hành vi bên ngoài trong điều kiện tự nhiên, nhà nghiên cứu cần ghi lại một cách nghiêm túc, khách quan những sự kiện thu được, kết quả quan sát tùy thuộc vào việc xác định rõ ràng mục đích, nội dung quan sát và chuần bị chu đáo về mọi mặt cho sự quan sát. Người nghiên cứu cần tổ chức việc quan sát đáp ứng các yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản sau đây:
8 Trên đây là một phương pháp nghiên cứu tâm lí cơ bản, thường được sử dụng trong Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm, các phương pháp nghiên cứu tâm lí bằng điều tra phỏng vấn, đàm thoại, nghiên cứu tâm lí qua sản phẩm hoạt động, qua tiểu sử cá nhân đã được trình bày trong phần Tâm lí học đại cương. Tóm lại, các phương pháp nghiên cứu tâm lí người trong Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm khá phong phú đa dạng. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Muốn nghiên cứu một chức năng tâm lí nào đó một cách khoa học, khách quan và chính xác đòi hỏi phải:
1. Lí luận về sự phát triển tâm lí trẻ 1.2.1 niệm về trẻ em Có nhiều cách quan niệm về trẻ em, có nhiều khoa học nghiên cứu về trẻ em theo các khía cạnh riêng và theo cách riêng của mình. Tâm li học lứa tuổi, Tâm lí học phát triển quan tâm tới bản chất, các qui luật, trình độ phát triển, các yếu tố chi phối sự phát triển tâm lí, nhân cách của trẻ em như thế nào.
9 mỗi thời kì lịch sử có trẻ em của riêng nó. Toàn bộ những điều kiện xã hội - lịch sử của một thời đại tạo ra trẻ em của riêng mình. Có thể nói trẻ em là kết tinh của lịch sử cho đến lúc đó. Mỗi đứa trẻ (cùng với thế hệ của mình) đi qua một lần duy nhất chặng đường lịch sử nối tiếp nhau nằm trên một đường thẳng thời gian, theo qui luật riêng của nó trong sự phụ thuộc vào những điều kiện xã hội - lịch sử đương thời. Vì vậy, không những phải hiểu trẻ em phát triển theo những qui luật khác nhau mà còn phải hiểu ở mỗi thời đại kinh tế xã hội khác nhau, trẻ em lại phát triển theo những qui luật khác nhau. Đó là lí do chẳng những giải thích tại sao không thể đem những gì thuộc qui luật phát triển của người lớn áp đặt cho trẻ em, mà đồng thời không thể dùng phương pháp giáo dục trẻ em của thời kì trước, để giáo dục trẻ em của thời kì sau.
1.2. Sự phát triển tâm lí trẻ em 1.2.2. Một số quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lí trẻ em Quan điểm duy tâm nói chung coi sự phát triển tâm lí chỉ là sự chín muồi trưởng thành của các yếu tố sinh vật định sẵn từ trước trong gen di truyền. Sự phát triển tâm lí chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt số lượng của các hiện tượng tâm lí như số lượng từ ngữ, khả năng trí nhớ, chú ý, tốc độ hình thành kĩ xảo..., chứ không phải là sự chuyển biến về chất lượng. Sự phát triển tâm lí diễn ra một cách tự phát, không tuân theo qui luật và không thể điều khiển được. Quan điểm sai lầm nói trên thể hiện cụ thể ở một số học thuyết sau: Thuyết tiền định Học thuyết này cho rằng mọi đặc điểm tâm lí của con người là do những cấu tạo bẩm sinh, do tiềm năng sinh vật gây ra có sẵn trong cấu trúc sinh vật, do cơ chế di truyền qua gen quyết định. Chặng hạn: Sớt cho rằng động lực phát triển tâm lí là các bản năng, J.Điuây cho rằng nhu cầu và các thuộc tính tâm lí được sắp đặt sẵn trong gen. Các yếu tố di truyền quyết định giới hạn của giáo dục. Nhà tâm lí học Mĩ Eđai đã khẳng định: “ Tự nhiên ban cho mỗi con người một vốn nhất định, giáo dục cần làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất”. Tâm lí học hiện đại đã khẳng định: không có một tư chất nào mang sẵn những năng lực và những nét nhân cách nhất định. Sự kế thừa cơ thể khỏe mạnh là tiền đề 11 đoạn như một quá trình, trong đó có những bước nhảy và những đột biến. Sự phát triển tâm lí trong từng giai đoạn lứa tuổi phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo của từng lứa tuổi đó.
Cụ thể hóa ba nguyên lí trên, các nhà tâm lí học Xô viết đã xem xét sự phát triển tâm lí của trẻ như là:
_1.2.2. Điều kiện của phát triển tâm lí trẻ em
- Các điều kiện sống Các điền kiện sống có ảnh hướng đến sự phát triển tâm lí của trẻ, nhưng chúng không quyết định trực tiếp đến sự phát triển tâm lí mà chúng tác động thông qua mối quan hệ qua lại giữa trẻ với hoàn cảnh. Các ảnh hưởng bên ngoài tác động gián tiếp đến sự phát triển tâm lí cá nhân thông qua những điều kiện bên trong của cá nhân, trong đó có kinh nghiệm riêng và vai trò chủ thể của cá nhân. Trong các nhân tố cuộc sống, trước hết phải nói tới vai trò của vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội, các mối quan hệ xã hội. Các Mác đã chỉ rõ: “... Bản chất của con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Điều đó có nghĩa những đặc điểm tâm lí của trẻ được quyết định bởi đặc điểm của các mối quan hệ xã hội mà trẻ gia nhập vào đó với tư cách là thành viên của xã hội. Quá trình phát triển tâm lí là quá trình trẻ lĩnh hội nền văn hóa xã hội, vốn kinh nghiệm xã hội, quá trình trẻ tiếp nhận 12 nền văn hóa xã hội theo con đường tự phát và tự giác. Con đường tự giác được thể hiện qua giáo dục, đó là sự tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất nhân cách, đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Vì thế, giáo dục là nhân tố chủ đạo của sự phát triển tâm lí trẻ, trong đó, dạy học có ý nghĩa đặc biệt. - Hoạt động của trẻ Hoạt động của trẻ là yếu tố quyết định trực tiếp sự phát triển tâm lí. Bởi vì, bằng lao động của mình, con người ghi lại kinh nghiệm, năng lực.. các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày, các sản phẩm văn hóa nghệ thuật..ài người đã tích lũy kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình trong các đối tượng do con người tạo ra và trong các quan hệ giữa con người với con người. Ngay từ khi ra đời, đứa trẻ đã sống trong thế giới đối tượng và những quan hệ đó. Nhưng đứa trẻ không thích nghi với thế giới đồ vật và hiện tượng do con người tạo ra, mà nó phải hoạt động để lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ phải tiến hành những hoạt động căn bản tương ứng với những hoạt động mà trước đó loài người đã thể hiện vào trong đồ vật, hiện tượng. Nhờ tích cực tiến hành những hoạt động như vậy, đứa trẻ lĩnh hội được những kinh nghiệm cho mình. Quá trình đó là quá trình tâm lí trẻ phát triển. Như vậy, sự phát triển tâm lí là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với những đối tượng do loài người tạo ra, chỉ có những yếu tố nào của môi trường trẻ tích cực tác động để tiếp thu nó thì yếu tố đó mới là nguồn gốc trực tiếp của sự phát triển tâm lí trẻ và tính tích cực hoạt động của trẻ quyết định trực tiếp chất lượng phát triển tâm lí. 1.2. Một số quy luật phát triển tâm lí của trẻ em Quy luật không đồng đều Quy luật này nói lên rằng trong tiến trình phát triển của mỗi cá thể, các chức năng tâm lí không “dàn hàng ngang” cùng phát triển mà sự phát triển của chúng diễn ra có thời điểm. Có nghĩa là, tại một thời điểm nào đó trong tiến trình phát triển, sẽ có nhiều ưu thế cho sự phát triển một chức năng tâm lí nhất định. Nếu có những tác động phù hợp thì sự hình thành và phát triển của nó sẽ diễn ra thuận lợi và nhanh chóng. Ngược lại, nếu tại thời điểm ấy, một điều kiện nào đó cản trở sự hình thành và phát triển chức năng đó thì mọi việc làm về sau sẽ khó khăn hơn rất nhiều (tức là sự hình thành và phát triển chức năng tâm lí đó đã bị “lỡ thì”). Quy luật không đồng đều còn nói lên rằng sự phát triển tâm lí của những cá thể khác nhau là không như nhau. Mặc dù, mọi trẻ em đều phải trải qua những giai đoạn phát triển giống nhau theo một trình tự nhất định, nhưng mỗi trẻ lại phát triển theo cách riêng với nhịp độ, tốc độ, khuynh hướng không lặp lại ở trẻ khác. Vì thế, có trẻ phát triển nhanh, có trẻ phát triển chậm hơn so với giai đoạn lứa tuổi. Quy luật về tính toàn vẹn của tâm lí : Quy luật này nói lên rằng trong tiến trình phát triển, tâm lí con người ngày càng có tính trọn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lí là sự chuyển biến dần 14 độ phát triển nhất định, có ý nghĩa đối với sự phát triển chung của con người. Vưgôtxki căn cứ vào những thời điểm mà sự phát triển tâm lí có những đột biến để xác định thời kì phát triển tâm lí theo quan điểm xã hội - lịch sử. Lứa tuổi chỉ có ý nghĩ như là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ. Tuổi không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Những đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung, đặc trưng, điển hình cho lứa tuổi đó, nói lên xu hướng phát triển chung. Lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến. Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuổi có thể phù hợp với sự phát triển của trẻ hoặc có thể đi trước hoặc chậm hơn sự phát triển. Đặc điểm tâm lí ở mỗi giai đoạn lứa tuổi được quyết định bởi một tổ hợp nhiều yếu tố: các đặc điểm của hoàn cảnh sống, các đặc điểm cơ thể, đặc điểm của các yêu cầu đề ra cho đứa trẻ ở giai đoạn đó, mối quan hệ của đứa trẻ với thế giới xung quanh, trình độ tâm lí mà trẻ đã đạt được ở các giai đoạn trước đó. 1.2.4. Các giai đoạn phát triển tâm lí theo lứa tuổi Có nhiều cách phân chia giai đoạn phát triển tâm lí của con người
15 D.Bônhin đã làm rõ hơn đối tượng hoạt động của trẻ em từ lúc mới sinh đến lúc trưởng thành khi ông phân chia chúng ra hai lớp A và B. Trong đó, lớp A gồm những quan hệ của trẻ với người lớn, với xã hội; lớp B gồm những quan hệ của trẻ với thiên nhiên, với thế giới đồ vật do loài người sáng tạo ra hay phát hiện ra. Mỗi loại đối tượng này xác định một kiểu hoạt động và mỗi đối tượng xác định một hoạt động. Trong thực tiễn hai lớp quan hệ này là hai dòng hoạt động quện chặt lấy nhau tạo nên nội dung cuộc sống và gắn liền vào đó là sự phát triển tâm lí của trẻ. Tuy nhiên, tùy theo mỗi giai đoạn lứa tuổi mà một hoạt động nào đó thuộc lớp A hay lớp B nổi lên hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo. Dựa vào hoạt động chủ đạo, ông đã phân chia sự phát triển tâm lí trẻ em thành các giai đoạn lứa tuổi sau:
1. Khái niệm học sinh tiểu học và tiền đề của sự phát triển tâm lí học sinh tiểu học 1.3. Khái niệm học sinh tiểu học Học sinh tiểu học là một giai đoạn phát triển của trẻ em. Hiện nay học sinh tiểu học là những trẻ em từ 6 đến 11-12 tuổi, một trình độ phát triển có những đặc trưng riêng và có thể chủ động tổ chức từ phía nhà trường trên cơ sở những thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục |