Thực trạng kỹ năng tự học của sinh viên hiện nay

11
360 KB
0
263

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 11 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI Nguyễn Thị Thu Trang1 TÓM TẮT Ở đại học hình thức học chủ yếu của sinh viên là tự học, tự nghiên cứu. Đặc biệt khi các trường đại học thực hiện phương thức đào tạo tín chỉ, hoạt động tự học lại càng quan trọng và cần thiết đối với sinh viên. Để có được kết quả tốt trong quá trình học tập, sinh viên phải biết cách tự học, rèn luyện được kỹ năng tự học. Bài viết này chỉ ra tầm quan trọng của kỹ năng tự học đối với sinh viên sư phạm và mức độ thực hiện các nhóm kỹ năng tự học của sinh viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai. Kỹ năng tự học là một trong những kỹ năng sống, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của sinh viên sư phạm. Trong bài báo, tác giả nêu thực trạng bốn nhóm kỹ năng tự học cơ bản của sinh viên, đồng thời chỉ ra năm nguyên nhân chủ quan và bảy nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến quá trình tự học của sinh viên theo phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ với mong muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, giảng dạy ở trường đại học. Từ khóa: Tự học, kỹ năng tự học, sinh viên, sinh viên sư phạm, tín chỉ chỉ” [2] đã làm rõ sự khác biệt của đào 1. Đặt vấn đề tạo tín chỉ so với niên chế và những yêu Trong những năm gần đây, theo chỉ cầu thay đổi trong dạy và học ở hình đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục thức đào tạo mới. Hình thức này đòi hỏi và Đào tạo, các trường đại học trong cả sinh viên không những phải tự học nước có lộ trình, xu hướng chung: nhiều hơn mà phải có kỹ năng tự học chuyển từ hình thức đào tạo theo niên mới đem lại kết quả học tập cao “tự học chế sang hình thức đào tạo theo học chế không thể hiệu quả khi bị ép buộc hay tín chỉ. Điều này mở ra một loạt các học không có mục đích và động cơ rõ nghiên cứu nhằm thúc đẩy mạnh mẽ ràng” [3]. Trong hoạt động học tập, kỹ hoạt động học tập của sinh viên đáp ứng năng tự học có vai trò hết sức quan sự thay đổi đó. Điển hình như tác giả trọng; giúp sinh viên hình thành và rèn Hoàng Thảo Nguyên, Nguyễn Thị luyện được tính tích cực, chủ động, tự Phương Thanh với “Rèn luyện kỹ năng giác trong học tập; hiểu sâu, mở rộng, tự học cho sinh viên trong đào tạo theo củng cố và ghi nhớ bài học một cách học chế tín chỉ” [1], tác giả Nguyễn Thị vững chắc, vận dụng các tri thức đã học Xuân Thủy với nghiên cứu “Rèn luyện vào việc giải quyết những nhiệm vụ học kỹ năng tự học tập cho sinh viên đáp tập mới linh hoạt, sáng tạo, từ đó quyết ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín định sự phát triển các phẩm chất nhân 1 Trường Đại học Đồng Nai Email: 49 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 cách và chất lượng học tập của sinh viên. Đối với sinh viên nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng việc tự học không chỉ để hoàn thành nhiệm vụ học tập trên giảng đường mà còn phải tự học trong suốt những năm giảng dạy sau này. Đặc biệt đối với sinh viên sư phạm, biết cách học vừa là phương tiện để họ tự học, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vừa là phương tiện để dạy cách học, dạy kỹ năng học cho học sinh đáp ứng tinh thần đổi mới giáo dục hiện nay [4]. Do vậy, việc tìm hiểu kỹ năng tự học trong phương thức đào tạo mới là việc làm cần thiết góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và giảng dạy ở đại học giai đoạn hiện nay. ISSN 2354-1482 động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [2, tr. 131]. Trên cơ sở đó, kỹ năng tự học được tác giả quan niệm: là phương thức hành động trên cơ sở lựa chọn và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện có kết quả mục tiêu học tập đã đặt ra, phù hợp với những điều kiện cho phép. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng cách phân loại của tác giả Phạm Văn Cường [5] và lựa chọn bốn nhóm kỹ năng tự học cơ bản: 1] Kỹ năng lập kế hoạch hoạt động tự học, gồm: kỹ năng xác định đầy đủ các công việc cần làm; kỹ năng xác định yêu cầu của từng công việc thực hiện theo kế hoạch của bản thân; kỹ năng phân phối thời gian hợp lý cho từng công việc; kỹ năng sắp xếp các công việc một cách hợp lý; kỹ năng nắm được yêu cầu của kế hoạch. 2] Kỹ năng làm việc với sách, gồm: kỹ năng chọn đúng sách cần đọc; kỹ năng lập danh mục tài liệu cần đọc; kỹ năng chọn cách đọc đọc phù hợp với mục đích đề ra; kỹ năng ghi theo phiếu tư liệu; kỹ năng ghi theo đề cương chi tiết; kỹ năng tóm tắt nội dung chính những điều đã đọc; kỹ năng lưu trữ những điều đã đọc. 3] Kỹ năng trả lời câu hỏi - bài tập, gồm: kỹ năng xác định yêu cầu của bài tập; kỹ năng xác định dạng câu hỏi, bài tập; kỹ năng xác định các hướng giải bài tập; kỹ năng lập chương trình giải; kỹ năng trình bày lời giải rõ ràng, ngắn gọn; kỹ năng kiểm tra lời giải. 4] Kỹ năng tự kiểm tra đánh giá, gồm: kỹ 2. Nội dung 2.1. Khái niệm Hiện nay khái niệm kỹ năng được khá nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học trên thế giới cũng như trong nước đưa ra và hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tựu trung, khái niệm này thường được hiểu theo hai hướng. Hướng thứ nhất: coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác, hành động hay hoạt động. Hướng thứ hai: coi kỹ năng không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện về năng lực của con người. Tác giả đồng tình với hướng nghiên cứu thứ hai và lấy khái niệm về kỹ năng trong Từ điển Tâm lý học của tác giả Vũ Dũng [chủ biên] làm khái niệm công cụ: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành 50 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 năng xác định mục đích nội dung kiểm tra; kỹ năng xác định tiêu chuẩn đánh giá; kỹ năng đối chiếu kết quả với tiêu chuẩn; kỹ năng xác định mức độ phù hợp giữa kết quả với tiêu chuẩn… ISSN 2354-1482 cứu bổ trợ là 20 giảng viên đang giảng dạy tại khoa, lớp được điều tra. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: nghiên cứu tài liệu, điều tra viết, quan sát, toán thống kê... Trong đó, phương pháp điều tra viết là phương pháp cơ bản nhất, được sử dụng với mục đích khảo sát các mặt, các khía cạnh khác nhau trong hoạt động tự học của sinh viên. Hiện nay, ở nước ta cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu kỹ năng tự học của sinh viên trong phương thức đào tạo mới và đưa ra các giải pháp cụ thể cho vấn đề này [6]. Tuy nhiên tại trường Đại học Đồng Nai thì chưa có công trình nào nghiên cứu về kỹ năng tự học của sinh viên trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao kỹ năng này cho sinh viên. Do đó nghiên cứu “Kỹ năng tự học của sinh viên trường Đại học Đồng Nai” là một trong những yêu cầu cấp thiết cho Nhà trường. Kết quả tổng hợp được xử lý trên bảng tính điện tử Microsoft Excel. Nghiên cứu này chỉ rõ mức độ kỹ năng tự học của sinh viên và các nguyên nhân ảnh hưởng đến kỹ năng tự học của sinh viên. 2.3. Kết quả nghiên cứu 2.3.1. Nhận thức của sinh viên về vai trò của việc rèn luyện kỹ năng tự học 2.2. Khách thể và phương pháp nghiên cứu Qua nghiên cứu, sinh viên đã nhận thức được ý nghĩa quan trọng và cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng tự học. Kết quả được thể hiện ở bảng 1. Khách thể nghiên cứu chính là 200 sinh viên sư phạm năm thứ nhất khoa Sư phạm Tiểu học - Mầm non trường Đại học Đồng Nai. Khách thể nghiên Bảng 1: Nhận thức của sinh viên về vai trò của việc rèn luyện kỹ năng tự học STT Tổng số Mức độ cần thiết Số lượng Tỷ lệ [%] 1 Rất cần thiết 115 57,5 2 Cần thiết 85 42,5 3 Ít cần thiết 0 0 4 Không cần thiết 0 0 [Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của tác giả] Kết quả ở bảng 1 cho thấy, tất cả và sự cần thiết của kỹ năng tự học. sinh viên đều nhận thức tầm quan trọng Trong đó 57,5% sinh viên cho rằng việc 51 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 rèn luyện kỹ năng tự học là rất cần thiết, 42,5% sinh viên cho rằng đó là việc cần thiết. Qua trao đổi, sinh viên Nguyễn Văn T. cho biết: “Kỹ năng này rất cần thiết với em, vì nếu em có được kỹ năng này thì em có thể tiếp thu được những lượng tri thức nhiều và khó ở trường đại học.” Còn sinh viên Nguyễn Thi Thu L. cho rằng: “Sau này trở thành một giáo viên, kỹ năng tự học sẽ giúp giáo viên có thể tự chiếm lĩnh kiến thức để giảng bài hay hơn và sâu hơn.” Như vậy kỹ năng tự học không chỉ cần thiết cho ISSN 2354-1482 hoạt động tự học mà còn giúp cho hoạt động giảng dạy sau khi ra trường của sinh viên. 2.3.2. Mức độ kỹ năng tự học của sinh viên trước khi rèn luyện Ở nội dung này, tác giả cho sinh viên tự đánh giá mức độ về kỹ năng tự học của bản thân. Ngoài sự tự đánh giá của sinh viên, giáo viên đánh giá kỹ năng tự học qua sản phẩm của sinh viên với các tiêu chí được thể hiện ở bảng 2. Bảng 2: Nội dung, tiêu chí đánh giá sản phẩm STT Nội dung, tiêu chí đánh giá sản phẩm 1 Động cơ học tập đúng đắn [các động cơ hứng thú nhận thức và các động cơ trách nhiệm trong học tập] Xây dựng kế hoạch tự học cụ thể, rõ ràng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn và từ những hoạt động khác nhau - Xử lý thông tin trong quá trình tự học, có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh… - Vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lý các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… Trao đổi, phổ biến thông tin theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận… Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập: thẩm định mình hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc phục hay phát huy Tổng điểm 2 3 4 5 52 Điểm tối đa 10 25 30 25 10 100 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 Kết quả tự đánh giá của sinh viên học được thể hiện ở bảng 3. và đánh giá của giáo viên về kỹ năng tự Bảng 3: Mức độ kỹ năng tự học của sinh viên trước khi rèn luyện STT Mức độ kỹ năng tự học của sinh viên trước khi rèn luyện Sinh viên tự đánh giá Đánh giá của giảng viên Số lượng Tỷ lệ [%] Số lượng Tỷ lệ [%] 1 Rất tốt 0 0,0 0 0,0 2 Tốt 4 2,0 0 0,0 3 Khá 45 22,5 30 15,0 4 Trung bình 54 27,0 48 24,0 5 Yếu 97 48,5 122 61,0 [Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của tác giả] như: mục đích - động cơ học tập, xây dựng kế hoạch tự học, đọc giáo trình - tài liệu tham khảo, trao đổi - chia sẻ thông tin và tự kiểm tra đánh giá. Kết quả tổng hợp được xử lý trên bảng tính điện tử Kết quả ở bảng 3 cho thấy nhìn chung kỹ năng tự học của sinh viên chưa cao [chủ yếu ở mức trung bình và yếu]. Đánh giá ở mức “tốt” thì sinh viên tự đánh giá là 2,0%. Ở mức “khá”, sinh viên tự đánh giá là 22,5%, trong khi đó giáo viên đánh giá là 15,0%. Đạt mức “trung bình” thì sinh viên tự đánh giá là 27,0%, giáo viên đánh giá là 24,0%. Ở mức “yếu”, sinh viên tự đánh giá là 48,5%, trong khi đó tỷ lệ này ở giáo viên khá cao [61%]. Qua đó cho thấy, kỹ năng này của các em còn rất hạn chế. Microsoft Excel. Để đánh giá về bốn nhóm kỹ năng tự học của sinh viên, tác giả phân ra bốn mức độ như sau: 2.3.3. Mức độ biểu hiện các kỹ năng tự học của sinh viên 2,41 đến 2,63]. - Kỹ năng tự học tốt [X từ 2,82 đến 3,0]. - Kỹ năng tự học khá [X từ 2,63 đến 2,82]. - Kỹ năng tự học trung bình [X từ - Kỹ năng tự học yếu, kém [X từ 2,38 đến 2,41]. 2.3.3.1. Mức độ đạt được các tiêu chí trong kỹ năng tự học của sinh viên Kết quả khảo sát chi tiết được thể hiện ở bảng 4. Ở nội dung này, tác giả đánh giá mức độ đạt được các tiêu chí về kỹ năng tự học của sinh viên theo những tiêu chí 53 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 Bảng 4: Mức độ đạt được các tiêu chí trong kỹ năng tự học của sinh viên STT 1 2 Các tiêu chí Mức độ Trung bình Thứ bậc Kỹ năng lập kế hoạch Kỹ năng làm việc với sách 2,63 2,82 2 1 3 Kỹ năng trả lời câu hỏi - bài tập 2,41 3 4 Kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập 2,38 4 [Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của tác giả] kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học Kết quả ở bảng 4 cho thấy, mức độ tập với điểm trung bình = 2,38. đạt được các tiêu chí trong kỹ năng tự học của sinh viên chỉ ở mức trung bình, xếp vị trí thứ nhất là kỹ năng làm việc với sách [điểm trung bình = 2,82], tiếp đó đến kỹ năng lập kế hoạch [điểm trung bình = 2,63], xếp ở vị trí thứ ba là kỹ năng trả lời câu hỏi - bài tập với điểm trung bình = 2,41 và cuối cùng là 2.3.3.2. Mức độ biểu hiện các tiêu chí trong kỹ năng tự học của sinh viên Ở nội dung này, tác giả đánh giá các mức độ biểu hiện về kỹ năng tự học trong từng tiêu chí. Kết quả được thể hiện ở bảng 5. Bảng 5: Mức độ biểu hiện các tiêu chí trong kỹ năng tự học của sinh viên Mức độ [%] A B C Kỹ năng tự học Kỹ năng lập kế hoạch 1. Xác định đầy đủ các công ciệc cần làm 2. Xác định yêu cầu của từng công việc 3. Phân phối thời gian hợp lý cho từng công việc 4. Sắp xếp các công việc một cách hợp lý 5. Nắm được yêu cầu của kế hoạch Kỹ năng làm việc với sách 1. Biết chọn đúng sách cần đọc 2. Biết lập danh mục tài liệu cần đọc 3. Biết chọn cách đọc phù hợp với mục đích đề ra 4. Biết ghi theo phiếu tư liệu 5. Biết ghi theo đề cương chi tiết 6. Biết tóm tắt nội dung chính những điều đã đọc 7. Biết lưu trữ những điều đã đọc theo vấn đề Kỹ năng trả lời câu hỏi, bài tập 54 52,2 27,2 13,9 17,6 26,4 39,7 70,5 65,4 65,4 60,3 8,1 2,2 20,6 16,9 13,2 47,8 19,1 24,2 13,9 11,7 25,7 13,9 50,0 52,2 58,8 29,4 50,0 52,2 52,2 2,2 28,6 16,9 56,6 38,2 22,1 33,8 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 1. Xác định yêu cầu của bài tập 2. Xác định dạng câu hỏi, bài tập 3. Xác định các hướng giải bài tập 4. Lập chương trình giải 5. Trình bày lời giải rõ ràng, ngắn gọn 6. Kiểm tra lời giải Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá 1. Xác định mục đích, nội dung kiểm tra 2. Xác định tiêu chuẩn đánh giá 3. Đối chiếu kết quả với tiêu chuẩn 4. Xác định mức độ phù hợp giữa kết quả với chuẩn ISSN 2354-1482 63,9 46,3 19,1 8,8 11,8 41,1 34,5 52,2 77,2 60,3 83,1 48,5 1,5 1,2 3,6 30,8 5,1 17,6 39,7 19,1 22,1 15,4 41,2 52,2 58,8 47,8 19,1 28,6 19,1 36,7 [Trong đó, A: thực hiện thành thạo, B: thực hiện chưa thành thạo, C: chưa biết làm] [Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của tác giả] hoạt động trên lớp và cả những hoạt Về kỹ năng lập kế hoạch tự học, chỉ động của sinh viên ngoài lớp. có 52,2% sinh viên cho rằng mình biết xác định các công việc cần thiết trong tự học một cách thành thạo. Các việc làm khác rất quan trọng đối với việc tổ Về kỹ năng đọc sách, mức độ thực hiện thành thạo tất cả các công việc cần thiết để đảm bảo đọc sách có hiệu quả và chức hợp lý hoạt động tự học và lao trí óc của sinh viên được các em đánh giá là làm chưa thành thạo, đó là: xác định yêu cầu của từng công việc [70,5%]; phân phối thời gian hợp lý cho từng công việc [65,4%]; sắp xếp công việc một cách hợp lý [65,4%]; nắm được yêu cầu của kế hoạch [60,3%]. sử dụng những điều đã đọc một cách hữu ích đều được sinh viên đánh giá với tỷ lệ rất thấp. Đáng chú ý có những kỹ năng có tỷ lệ sinh viên chưa biết làm khá cao như: ghi theo phiếu tư liệu [56,6%], ghi theo kiểu đề cương chi tiết [38,2%], lưu giữ những điều đọc được [33,8%]. Kết quả cho thấy việc đọc sách của sinh viên chưa có chất lượng và hiệu Kết quả ở bảng 5 cho thấy, về việc lập kế hoạch tự học đối với sinh viên là rất khó [chỉ có 52,2% biết xác định các công việc cần thiết trong tự học], đa phần sinh viên chưa định ra các công quả, không theo một quy trình và không lưu giữ được những thông tin cần thiết. Đọc sách nghiêm túc là đọc có suy nghĩ [yêu cầu sinh viên phải trả lời các câu hỏi: Đọc sách này để làm gì? Giải quyết việc mình sẽ làm trong thời gian bao lâu và làm như thế nào cho những kế hoạch vấn đề gì? Phục vụ cho việc gì trong công việc và đời sống?]; đọc có hệ thống [đọc lướt nhanh toàn bộ phần 55 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 tổng quát của sách và đọc kỹ để trả lời cho từng câu hỏi, mà giáo viên hay công việc yêu cầu]; đọc có chọn lọc [đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý tưởng hay nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán, làm tiền đề cho năng lực giải quyết vấn đề sau này]; đọc có ghi nhớ [cần kèm theo việc ghi chép kỹ năng tự học của sinh viên như: sinh viên chưa có kỹ năng tự học, chán ghét việc tự học và nghề nghiệp đã chọn, chưa tìm thấy động cơ học tập, ý thức vượt khó trong hoạt động tự học chưa cao, thiếu tính tích cực, chủ động, tự giác trong hoạt động tự học. Một số em tuy biết được tầm quan trọng của kỹ năng tự học nhưng chưa có ý thức và để nhớ lâu và đồng thời đánh dấu để tra cứu khu cần thiết]. tích cực trong quá trình rèn luyện. Mặc dù có cơ hội được rèn luyện nhưng các Về kỹ năng trả lời câu hỏi và bài tập, thực chất đây là kỹ năng giải quyết vấn đề có tính chất lý thuyết và thực hành đặt ra trong hoạt động tự học. Chỉ có 63,9% sinh viên cho rằng biết xác định đúng yêu cầu của câu hỏi và bài tập một cách thành thạo. Những kỹ em thiếu sự chủ động trong hoạt động của mình. Nhiều em thường đánh giá kỹ năng tự học là đơn giản, nhưng khi bắt đầu vào thực hiện mới thấy khó khăn của kỹ năng này. Nhiều em cũng tham gia luyện tập nhưng chưa thực sự cố gắng. năng khác được đánh giá thực hiện chưa thành thạo, gồm: kỹ năng xác định dạng câu hỏi, bài tập [52,2%]; kỹ năng xác định hướng giải [77,2%]; kỹ năng lập chương trình giải [60,3%]; kỹ năng trình bày lời giải rõ ràng, ngắn gọn [81,3%]. Bên cạnh những yếu tố chủ quan còn có những yếu tố khách quan như: Nội dung dạy học nhiều và khó, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho tự học còn hạn chế, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá ở đại học và phổ thông, sự quan tâm, gần gũi giữa giảng viên và sinh viên còn hạn chế, không có sự Về kỹ năng kiểm tra, đánh giá, số sinh viên cho rằng mình biết làm thành thạo các kỹ năng thành phần có tỷ lệ rất thấp. quan tâm của gia đình, mức độ gắn bó, hợp tác, giúp đỡ của bạn bè trong lớp chưa cao, thời gian dành cho các hoạt động khác khá nhiều. Kết quả khảo sát được thể hiện ở bảng 6. 2.3.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự học của sinh viên Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy có những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến 56 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 Bảng 6: Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự học của sinh viên Các yếu tố ảnh hưởng 1. Sinh viên chưa có kỹ năng tự học 2. Chán ghét việc tự học và nghề CHỦ nghiệp đã chọn QUAN 3. Chưa tìm thấy động cơ học tập 4. Ý thức vượt khó trong hoạt động tự học chưa cao 5. Thiếu tính tích cực, chủ động tự giác trong hoạt động tự học 1. Nội dung dạy học nhiều và khó 2. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho tự học còn hạn chế 3. Phương pháp dạy học và kiểm tra KHÁCH đánh giá ở đại học và phổ thông QUAN 4. Sự quan tâm, gần gũi giữa giảng viên và sinh viên còn hạn chế 5. Không có sự quan tâm của gia đình 6. Mức độ gắn bó, hợp tác, giúp đỡ của bạn bè trong lớp chưa cao 7. Thời gian dành cho các hoạt động khác khá nhiều Số lượng 72 40 Tỷ lệ [%] 86,7 48,2 Hạng 1 3 20 38 24,1 45,8 5 4 69 83,1 2 78 5 93,9 6,0 1 6 70 84,3 2 55 66,3 3 48 57,8 4 70 84,3 2 20 24,1 6 [Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của tác giả] Với nhóm nguyên nhân chủ quan, Với nhóm nguyên nhân khách kết quả điều tra cho thấy, nguyên nhân quan, nguyên nhân quan trọng nhất ảnh quan trọng nhất là “sinh viên chưa có hưởng đến sự thích ứng qua kết quả kỹ năng tự học” [86,7%], sau đó là các điều tra là: “khối lượng tri thức phải nguyên nhân: “thiếu tính tích cực, chủ tiếp thu nhiều và khó” [93,9%], tiếp động, tự giác trong hoạt động tự học” theo là những nguyên nhân: “sự khác [83,1%], “chán ghét việc tự học và nghề biệt về phương pháp dạy học ở Đại học nghiệp đã chọn” [48,2%], “ý thức vượt và phổ thông”, và “mức độ gắn bó, hợp khó trong hoạt động tự học chưa cao” tác, giúp đỡ của bạn bè trong lớp chưa [45,8%] và “chưa tìm thấy động cơ học cao” [84,3%], “sự quan tâm, gần gũi tập” [24,1%]. giữa giảng viên và sinh viên còn hạn 57 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 chế” [66,3%], “không có sự quan tâm của gia đình” [57,8%], “thời gian dành cho các hoạt động khác khá nhiều” [24,1%] và cuối cùng là nguyên nhân “điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho tự học còn hạn chế ” chiếm 6,0%. ISSN 2354-1482 một quy trình và không lưu giữ được những thông tin cần thiết. Kỹ năng trả lời câu hỏi và bài tập của sinh viên sư phạm về cơ bản là biết xác định đúng yêu cầu của câu hỏi và bài tập một cách thành thạo, tuy nhiên mức độ chưa cao. 3. Kết luận Kỹ năng kiểm tra, đánh giá đa số sinh viên sư phạm cho rằng mình biết làm thành thạo tuy nhiên các kỹ năng thành phần có tỷ lệ rất thấp. Tóm lại, kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng tự học của sư viên sư phạm trường Đại học Đồng Nai cho thấy tất cả sinh viên đều nhận thức tầm quan trọng và sự cần thiết của kỹ năng tự học. Chất lượng đào tạo là một trong những nhân tố cơ bản quyết định số lượng sinh viên theo học của mỗi trường đại học và việc nâng cao chất lượng đào tạo là một chiến lược phát triển bền vững, sống còn trong giai đoạn phát triển trước mắt. Tác giả hy vọng những kết quả nghiên cứu bước đầu sẽ góp phần xây dựng biện pháp tác động hợp lý đến sinh viên, đồng thời nâng cao chất lượng quản lý và đào tạo ở các trường đại học. Kỹ năng lập kế hoạch tự học ở sinh viên sư phạm khá tốt, tuy nhiên vẫn còn một số sinh viên thực hiện chưa tốt, chưa định ra các công việc mình sẽ làm trong thời gian bao lâu và làm như thế nào cho những kế hoạch hoạt động trên lớp và cả những hoạt động ngoài lớp. Kỹ năng đọc sách của sinh viên sư phạm thực hiện ở mức độ rất thấp, chưa có chất lượng và hiệu quả, không theo TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Thảo Nguyên, Nguyễn Thị Phương Thanh [2012], “Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ”, Tạp chí Giáo dục [số đặc biệt 3/2012], tr. 7-10 2. Nguyễn Thị Xuân Thủy [2012], “Rèn luyện kỹ năng học tập cho sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ”, Tạp chí Giáo dục [số đặc biệt tháng 3], tr. 101-108 3. Nguyễn Thanh Bình [2011], Giáo trình Rèn luyện kỹ năng sống cho sinh viên và hướng dẫn giáo dục kỹ năng sống ở trường học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội 58

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Chủ Đề