Ví dụ phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà nước

I, Đặt vấn đềQuản lý hành chính nhà nước nói chung bao gồm: tổ chức, điều hành kiểm soátcác hoạt động hành chính nhà nước. Để thực hiện được những công việc đó cần phảicó phương pháp, công cụ thống nhất hữu hiệu, để bảo đảm bộ máy hành chính vậnhành thông suốt, trật tự xã hội được giữ vững, quyền và lợi ích của công dân đượcbảo đảm. Hai trong những phương pháp đó phải kể đến phương pháp thuyết phục vàcưỡng chế. Đây là hai phương pháp chủ yếu, hiệu quả trong quá trình quản lý hànhchính nhà nước, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.II, Nội dung vấn đề1, Khái niệm về phương pháp quản lí hành chínhPhương pháp QLHCNN là cách thức thực hiện những chức năng và nhiệm vụcủa bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lí hànhchính nhà nước lên các đối tượng quản lí nhằm đạt đượ hành vi xử sự cần thiết.Thuyết phục và cưỡng chế là công cụ quan trọng, hữu hiệu nhất trong việc quảnlý hành chính nhà nước (QLHCNN). Phương pháp thuyết phục trong QLHCNN làphương pháp làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiệnhoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định. Phương pháp thuyết phục thể hiệntrong việc sử dụng những biện pháp khác nhau như giải thích, nhắc nhở, tổ chức,giáo dục, kêu gọi, cung cấp thông tin, tuyên truyền, phát triển các hình thức tự quảnxã hội, tổ chức thi đua khen thưởng… Phương pháp cưỡng chế trong QLHCNN làphương pháp sử dụng các biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhànước có thẩm quyền đối với những cá nhân hoặc tổ chức nhất định trong các trườnghợp được pháp luật quy định, về mặt vật chất hoặc tinh thần nhằm buộc các cá nhânhay tổ chức đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất địnhhoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định đối với tài sản của cá nhân hay tổchức hoặc tự do thân thể của các cá nhân.2, Mối quan hệ giữa biện pháp thuyết phục và cưỡng chế trong quản líhành chínhThuyết phục và cưỡng chế trong quản lí hành chính nhà nước về bản chất làkhác nhau, xong chúng có mỗi quan hệ với nhau. Nếu không có cưỡng chế nhà nướcthì kỷ luật nhà nước sẽ bị lung lay, pháp chế xã hội chủ nghĩa không được tôn trọng,tạo điều kiện thuận lợi cho tệ nạn xã hội phát triển, kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộchoạt động chống phá cách mạng. Còn nếu như không có thuyết phục thì hoạt động1quản lý nhà nước cũng kém hiệu quả, không động viên được sự tự giác chấp hànhpháp luật của nhân dân, không nâng cao được ý thức pháp luật và tinh thần tự chủ,không đảm bảo tính chất mềm dẻo thực hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc, sẽlàm thay đổi bản chất của nhà nước .Trước hết, mối liên hệ này được hình thành do chúng đều hướng đến một mụcđích - bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ QLHCNN. Một nhiệm vụ QLHCNNđược thực hiện bằng cách ban hành các quyết định quản lý ở các cấp khác nhau. Vàcác phương pháp quản lý được áp dụng ở đây như một biện pháp, một cách thức thihành quyết định đó. Việc sử dụng phương pháp nào tùy vào từng hoàn cảnh, giaiđoạn, thời kỳ và tính chất của quyết định đó.Thứ hai, về trình tự thực hiện, phương pháp cưỡng chế và thuyết phục cũng cómối liên hệ với nhau. V.I.Lê-nin đã chỉ ra rằng: “Trước hết phải thuyết phục và sauđó mới cưỡng bức, dù thế nào đi nữa thì trước hết chúng ta cũng phải thuyết phụcrồi mới cưỡng chế”. Cũng giống như hai quá trình trong một chu trình, việc thựchiện phương pháp thuyết phục hay phương pháp cưỡng chế phải tuần tự trước sau,biện pháp thuyết phục sẽ được thực hiện trước, cưỡng chế thực hiện trong nhữngtrường hợp nhất định, được pháp luật quy định. Để thi hành quyết định quản lý nàođó, có thể sử dụng những phương pháp cưỡng chế tương ứng nhưng trên thực tếkhông phải lúc nào người ta cũng sử dụng chúng. Việc sử dụng phương tiện cưỡngchế không có ý nghĩa khi có khả năng đảm bảo thực hiện quyết định thông quathuyết phục.Ví dụ như, UBND tỉnh ra quyết định thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng.Thì ngay sau khi ra quyết định không thể lập tức cưỡng chế người dân di rời mà Ủyban nhân dân cấp tỉnh thông báo thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấphuyện thông báo thu hồi đất ngay sau khi giới thiệu địa điểm đầu tư, cán bộ UBNDtỉnh, xã về địa phương giải thích, thuyết phục, vận động nhân dân di rời, đền bù giảiphóng mặt bằng, sau đó mới có thể thực hiện phương pháp cưỡng chế thu hồi đấttheo quy định của pháp luật này có hộ dân nào cố tính không chịu di rời.Thứ ba, việc bắt buộc thực hiện quyết định này hay quyết định khác không có ýnghĩa khi không có đối tượng để cưỡng chế. Đó là khi những đối tượng có liên quantự giác thực hiện quyết định đơn phương của chủ thể QLHCNN, quyết định hànhchính và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong tình huống nàykhông cần phải đảm bảo bằng cưỡng chế. Cả hai phương pháp đều nhằm mục đích2đảm bảo thực hiện hoạt động QLHCNN nhằm xây dựng một xã hội mới xã hội xãhội chủ nghĩa. Thông qua phương pháp thuyết phục, Nhà nước tuyên truyền, giáodục, giải thích pháp luật, hướng dẫn thực hiện pháp luật, nêu gương nhằm tạo ra ýthức về lối sống trong cộng đồng, ý thức pháp luật của mỗi công dân, tạo thói quensống và làm việc theo pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn có một bộ phận nhỏ các côngdân vi phạm pháp luật thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế ở đây nhằm bảo vệ lợiích của nhân dân và ngăn chặn những vi phạm pháp luật còn tồn tại do nhiều nguyênnhân khác nhau. Sự cưỡng chế nhà nước nếu được thay thế bằng các biện pháp giáodục, thuyết phục của các đoàn thể xã hội thì phương pháp thuyết phục càng có hiệuquả thì phương pháp cưỡng chế càng hạn chế áp dụng.Thứ tư, trên thực tế, thuyết phục và cưỡng chế không thể hiện một cách độc lập màbổ sung cho nhau. Cưỡng chế ngoài mục đích ngăn chặn vi phạm pháp luật, cao hơnnữa còn là nhằm giữ vững trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, xâydựng xã hội giàu đẹp, văn minh. Nói cách khác, cưỡng chế trong QLHCNN cònthực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân, giúp người dântránh được những vi phạm pháp luật lần sau không tái phạm. Để thực hiện điều đó,không phải là cưỡng chế bừa bãi, tránh những tác động tiêu cực, những phản hồibức xúc của nhân dân. Cưỡng chế cũng phải có phương pháp cách thức hợp lý theonguyên tắc trong cương có nhu.III, Kết thúc vấn đềĐể việc QLHCNN có hiệu quả không phải chỉ áp dụng một phương pháp duynhất để giải quyết một công việc mà cần có sự kết hợp của nhiều phương pháp khácnhau trong đó có phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế. Chính mốiquan hệ giữa phương pháp thuyết phục và cưỡng chế mà trong việc kết hợp khôngthể coi trọng bên này mà lơ là bên kia, phải có sự phối hợp để đạt được hiểu quả caonhất trong quản lí hành chính nhà nước.3DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trường Đại học luật Hà Nội, NXB Côngan nhân dân, năm 20112. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, khoa Luật trường Đại học quốc gia HàNội, NXB Đại học quốc gia, năm 20053. Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính, Học viện hành chính quốcgia, NXB Giáo dục, năm 20054

MỤC LỤCTrangLỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3Chương 1: Khái niệm phương pháp...............................................................4Chương 2: Nội dung phương pháp.................................................................52.1.Cơ sở, nội dung............................................................................52.2.Đặc trưng......................................................................................62.3.Ưu điểm, nhược điểm...................................................................8Chương 3: Thực tiễn áp dụng phương pháp..................................................10PHỤ LỤC......................................................................................................141. Chú thích và danh mục tài liệu............................................................142. Danh sách thành viên..........................................................................153. Bảng phân công công việc..................................................................15PP Giáo dục, thuyết phụcLỜI MỞ ĐẦU“Hành chính là một nghề”(1). Do đó mà trong hành chính, chủ thể hànhchính luôn cần sự nhanh nhẹn, linh hoạt, áp dụng khéo léo các phương pháphành chính để giải quyết hiệu quả các tình huống công việc đưa ra. Đồng thời,chủ thể hành chính cũng cần tích cực tiếp thu, trau dồi những cái mới, xu thếmới xuất hiện trong ngành nghề để phù hợp với thực tiễn.Việc áp dụng khéo léo, nhanh nhẹn các phương pháp hành chính trongthực tiễn công việc hàng ngày được xem như quan trọng nhất vì nó cho thấyhiệu quả công việc đối với từng chủ thể hành chính. Việc nghiên cứu từngphương pháp hành chính để nâng cao hiệu quả của công việc thực sự cần thiếtđối với từng chủ thể hành chính. Các phương pháp hành chính bao gồm phươngpháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp tổ chức, phương pháp kinh tế, phươngpháp hành chính. Gần với cuộc sống thực tiễn, ngoài ra, còn dễ dàng và đượcthường xuyên sử dụng, phương pháp giáo dục thuyết phục được xem như côngcụ hàng ngày của các chủ thể hành chính để thực hiện triệt để. Nghiên cứuphương pháp, ngoài mục đích đi sâu, hiểu sâu phương pháp, chủ thể hành chínhcòn rút ra được kinh nghiệm cho phương pháp từ đó có thể sử dụng phươngpháp một cách linh hoạt và hiệu quả hơn.Bằng việc nghiên cứu giáo trình, sách đọc thêm, tìm hiểu nguồn tài liệutrên mạng và hệ thống các kiến thức, cũng như liên hệ thực tiễn một cách khoahọc nhất, nhóm chúng em mong rằng qua việc nghiên cứu phương pháp này, cácthành viên trong nhóm sẽ tự rút kinh nghiệm, làm phong phú vốn kiến thức, bổtrợ cho những môn học, công việc sau này.2PP Giáo dục, thuyết phụcCHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁPĐể tác động tới các quan hệ xã hội, hành vi của các đối tượng bị quản lý, cáccơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng nhiều biện pháp, cách thứckhác nhau. Việc sử dụng các biện pháp mang tính thuyết phục hay cưỡng chếtuỳ thuộc vào bản chất, tính xã hội của Nhà nước.Trong các kiểu Nhà nước như: chủ nô, phong kiến, tư sản để bảo vệ lợi íchcủa giai cấp thống trị, các Nhà nước đó chủ yếu sử dụng các biện pháp cưỡngchế, biện pháp thuyết phục đặt xuống hàng thứ yếu. Trong điều kiện chủ nghĩaxã hội, Nhà nước là của dân do dân và vì dân, mọi hoạt động của bộ máy Nhànước phục vụ cho lợi ích của nhân dân, không vì bất kì mục đích tự thân nào, dođó giáo dục thuyết phục là phương pháp chủ yếu được sử dụng nhằm thực hiệnnhững nhiệm vụ trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước ở nước ta(2).Phương pháp giáo dục là phương pháp bồi dưỡng con người những phẩmchất đạo đức, những tri thức cần thiết về tự nhiên và xã hội, cũng như những kĩnăng, kĩ xảo cần thiết trong đời sống.Phương pháp thuyết phục là phương pháp làm cho người ta thấy đúng, haymà tin theo, thông qua tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn, nêu gương.Từ đó, ta có thể hiểu rằng phương pháp giáo dục, thuyết phục trong hànhchính là phương pháp do các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội tác động vàonhận thức đối tượng quản lý nhằm tạo ra ý thức về lối sống cộng đồng, ý thứcpháp luật, tạo ra thói quen sống và làm việc theo pháp luật, đồng thời, nâng caotính tự giác, tinh thần trách nhiệm và năng lực trí tuệ của họ(3).Giáo dục, thuyết phục có vai trò rất to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý Nhànước, tăng cường củng cố pháp chế và kỉ luật trong quản lý hành chính Nhànước. Nhà nước vững mạnh chính bởi ý thức giác ngộ của quần chúng, chứkhông chỉ do tăng cường các biện pháp cưỡng chế bắt buộc. Vì vậy, công táctuyên truyền giáo dục trong hành chính Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.CHƯƠNG 2: NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP2.1.CƠ SỞ, NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC, THUYẾT PHỤC3PP Giáo dục, thuyết phụcPhương pháp giáo dục thuyết phục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luậtvề nhận thức của con người và khoa học tâm lý để tác động có hiệu quả đến tưtưởng, tình cảm làm thay đổi hành vi cá nhân theo hướng tích cực(4).Thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà nước và xãhội, phát huy tính tích cực chính trị, sự sáng tạo của quần chúng trong cáchmạng là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Sự quan tâmđó được ghi nhận trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt được ghi nhận trongHiến pháp 1992 (Điều 53)(5). Kế thừa và phát huy quan điểm của V.I. Lênin là“Nhà nước vững mạnh bởi ý thức giác ngộ của quần chúng chứ không phải sựtăng cường đàn áp của bộ máy chuyên chính như quân đội và cảnh sát của Nhànước đó”(6), Đảng ta đã khái quát thành quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp củaquần chúng”(7), “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (8). Do đó, bằng hoạtđộng tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước thương nòi và truyền thốngcách mạng của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,chúng ta đã giành được sự thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến trườngvà gian khổ chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.Đặc biệt, trong tình hình kinh tế – chính trị khá nóng hiện nay, khi các thếlực thù địch luôn nhòm ngó, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh việc xâydựng Nhà nước vững mạnh, Đảng và Nhà nước luôn cố gắng giúp xây dựnglòng dân vững mạnh, một lòng với đất nước, tự nhận thức được điều đúng – sai,tạo quan điểm đúng đắn về tình yêu đất nước, có ý thức tự chống lại những tưtưởng đi lệch hướng Đảng và Nhà nước đề ra.Với vị trí địa lý cửa ngõ thuận lợi cho việc giao lưu về kinh tế cũng nhưvăn hoá, từ xưa đến nay, Việt Nam luôn là điểm sáng của những nước lớn mạnhsang xâm chiếm. Sự kiện biển Đông vào năm 2013 được xem như một hồichuông cảnh báo trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo nói riêng và chủ quyềnđất nước nói chung. Bằng việc đưa dàn khoan HD981 ra địa phận hàng hải ViệtNam, Trung Quốc đã khơi mào trong loạt hành động sai trái mang tính chất xâmphạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. Trái với những hành động ngang ngược củaTrung Quốc ngoài biển Đông, Việt Nam luôn theo tiêu chí Hòa bình – Hữu nghị,4PP Giáo dục, thuyết phụckêu gọi sự đồng thuận, bảo vệ của các nước khác trên toàn thế giới. Mặt khác,Đảng và Nhà nước luôn giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục cho người dân thấynhững điều sai trái mà Trung Quốc đã làm, không nên có bất cứ động thái tiêucực nào nhằm đáp trả hành động gây hấn của Trung Quốc, đồng thời, khơi dậyngọn lửa yêu nước ở mỗi người dân Việt Nam. Rất nhiều những gia đình sau khiđược các cán bộ tuyên truyền, thuyết phục đã tình nguyện ra ngoài đảo sinhsống, bảo vệ chủ quyền hải đảo Việt Nam. Bất chấp những khó khăn thiếu thốn,họ tin và mong muốn được góp một phần công sức để bảo vệ toàn vẹn chủquyền lãnh thổ Việt Nam.Với mục đích dùng phương pháp để tác động vào nhận thức của conngười trong tổ chức, hay công dân trong xã hội nhằm nâng cao tính tự giác, tinhthần trách nhiệm và năng lực trí tuệ của con người, phương pháp luôn đượcđánh giá cao trong hiệu quả áp dụng.2.2.ĐẶC TRƯNG CỦA PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THUYẾT PHỤC.Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là giúp cho conngười phân biệt được phải, trái, đúng, sai để mỗi người nỗ lực cống hiến cho xãhội một cách có trách nhiệm và tự giác sống, làm việc theo pháp luật. Khi sửdụng phương pháp này, các chủ thể hành chính phải xác định đúng địa vị pháplý của mình với đối tượng thuyết phục để bảo đảm kỷ cương chung trong xãhội(9).Chúng ta vừa mới thoát khỏi cuộc chiến tranh lâu dài, bước vào xây dựngcuộc sống mới, cơ chế cũ chưa mất, cơ chế mới chưa hình thành ổn định và pháttriển, đời sống xã hội còn nhiều khó khăn, do đó trong xã hội tồn tại những nhântố xã hội chủ nghĩa và cả những nhân tố chưa phải là xã hội chủ nghĩa, còn cónhiều nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật, cộng với ýthức pháp luật chưa cao trong một bộ phận lớn của dân cư, trình độ, ý thức phápluật của cán bộ viên chức, công chức Nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu đòihỏi ngày càng cao trong quản lý Nhà nước, vì vậy công tác tuyên truyền, giáodục pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng sẽ là sai lầm, nếu cho rằngtrong quản lý Nhà nước và xã hội chỉ cần các biện pháp thuyết phục. Bởi vì5PP Giáo dục, thuyết phụctrong xã hội luôn tồn tại tội phạm, vi phạm pháp luật, còn tồn tại sự chống đối,phá hoại trật tự quản lý Nhà nước và An ninh quốc gia, an toàn xã hội. Vì vậyphải kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế trong quản lý hành chính Nhà nước.V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: “Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới cưỡng bức,dù thế nào đi nữa trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi mới cưỡngchế”(10).Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết đối với những cá nhân, tổchức vi phạm pháp luật, gây rối trật tự trị an, có thái độ chống đối lại chínhquyền nhân dân, không chấp hành đường lối, chủ trương và pháp luật của Nhànước. Trong các trường hợp đó việc áp dụng cưỡng chế không trái với nguyêntắc nhân đạo và dân chủ của Nhà nước ta, trái lại nó được thực hiện vì lợi íchchung của nhân dân, xã hội Nhà nước, trong đó có cả lợi ích cá nhân.Không áp dụng cưỡng chế, hay coi nhẹ nó cũng có nghĩa là buông nhẹ kỷcương dẫn tới tình trạng vô kỷ luật trong xã hội và trong bộ máy Nhà nước.Ngược lại, quá nhấn mạnh đến cưỡng chế sẽ dẫn đến độc đoán, chuyên quyềntrái với bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, kết hợp thuyếtphục và cưỡng chế một cách hợp lý sẽ có tác dụng to lớn đối với việc thực hiệntốt những nhiệm vụ cụ thể trong quản lý Nhà nước. Đây cũng là yêu cầu đối vớikhoa học quản lý.6PP Giáo dục, thuyết phục2.3.ƯU ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC,THUYẾT PHỤC.Theo phương pháp này, các cơ quan hành chính Nhà nước cũng như cácthủ trưởng không phải lúc nào cũng điều chỉnh hành vi chỉ bằng luật pháp, màphải kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế hành chính. Ý thức đúngthì hành động đúng. Do vậy, phải giáo dục đạo đức và tư tưởng để cho mọi đốitượng biết được việc làm nào là tốt, là vinh, là thiện, việc làm nào là xấu, lànhục, là ác. Phải giáo dục ý thức pháp luật, tư tưởng chính trị đúng đắn, kỷ luậtvà trách nhiệm, pháp chế kỷ cương… thì kết quả lao động sẽ cao, việc phạmpháp giảm hoặc không vi phạm pháp luật(11).Mỗi phương pháp luôn tồn tại những ưu nhược điểm song song nhau. Ưuđiểm dễ nhận thấy nhất của phương pháp này là do phương pháp dễ tiếp cận,thực hiện nên đối tượng hành chính dễ tiếp thu, tiếp nhận kiến thức một cách dễdàng. Ngoài ra, chủ thể hành chính còn có thể linh hoạt trong việc lựa chọnkhông gian, thời gian để sử dụng phương pháp. Nếu sử dụng phương pháp nàythành công còn tạo môi trường thân thiện, tích cực giữa chủ thể hành chính vàđối tượng hành chính. Từ đó, ta có thể mong đợi được một tương lai xã hội ViệtNam công bằng, dân chủ, văn minh, vững mạnh, phát triển.Bên cạnh những ưu điểm, ta vẫn luôn nhìn thấy những nhược điểm tồntại song song. Vì với mỗi nhóm đối tượng thì có độ tuổi, trình độ học vấn khácnhau nên cần áp dụng các phương pháp khác nhau. Chúng ta không thể áp dụngđại trà một phương pháp nhất định cho toàn nhóm đối tượng. Vì vậy, phươngpháp đòi hỏi chủ thế hành chính cần bỏ công sức nghiên cứu trước về nhóm đốitượng cần áp dụng phương pháp. Tiếp đó, đề ra những nội dung cơ bản, thiếtthực nhất với nhóm đối tượng sẽ tiếp xúc.Ngoài ra, ta vẫn còn thấy sự giáo dục thủ công, thiên nhiều về lý thuyếttồn tại trong phương pháp này. Chủ thể hành chính vẫn còn chưa đưa ra nhữngkiến thức thực tiễn để đối tượng hành chính có thể nhận thức và áp dụng trongcuộc sống hàng ngày. Đôi lúc, chủ thể hành chính vẫn còn khá bảo thủ trongviệc áp dụng hình thức đổi mới, dẫn đến tình trạng đối tượng hành chính khôngthể hiểu được chủ thể hành chính muốn truyền đạt gì, gây khó khăn cho cả hai7PP Giáo dục, thuyết phụcbên, làm giảm tiến độ công việc. Ta có thể thấy hình ảnh khá quen thuộc là chỉcó chủ thể hành chính đưa ra, tuyên truyền ý kiến của mình mà chưa có sự phảnhồi tích cực từ phía đối tượng hành chính, do vậy, vẫn chưa tạo ra được tươngtác giữa hai bên. Đối tượng hành chính chỉ tiếp thu theo tính thụ động, bắt buộcmà không phải chủ động, tích cực tiếp thu ý kiến, từ đó dễ gây ra hiểu lầm chohai bên.Ngược lại với ưu điểm, nếu áp dụng phương pháp thất bại, sẽ tạo ra môitrường làm việc kém hiệu quả thân thiện, làm tăng thêm khoảng cách giữa chủthể hành chính và đối tượng hành chính.Từ việc tìm hiểu về ưu – nhược điểm của phương pháp, ta có thể tự rútkinh nghiệm được cho chính bản thân mình, đặc biệt là với chủ thể hành chính.Đồng thời, ta còn tìm được con đường ngắn nhất để thực hiện phương phápthành công.8PP Giáo dục, thuyết phụcCHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁPTrong hoạt động hành chính Nhà nước nhiều năm qua, chúng ta không thểphủ nhận được tầm quan trọng của phương pháp giáo dục, thuyết phục. Hiệuquả phương pháp này cũng được thể hiện rõ qua những hoạt động công việchàng ngày của những chủ thể hành chính. Do bản chất của phương pháp này làlàm cho đối tượng quản lý hiểu rõ được sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặctránh thực hiện những hành vi xác định. Thông qua thuyết phục, các chủ thểquản lý hành chính Nhà nước giáo dục cho công dân nhận thức đúng đắn về kỉcương xã hội, kỉ luật Nhà nước, động viện họ tự giác thực hiện nghĩa vụ đối vớiNhà nước và xã hội.Không quá khó để tìm được những ví dụ về phương pháp giáo dục thuyếtphục trong hoạt động hành chính thực tiễn hàng ngày, ngành phát triển đô thị làmột trong những ngành được xem như cần dùng nhiều phương pháp này nhất,bởi vì ngành liên quan nhiều đến các dự án giải toả đền bù cho những hộ dânthuộc diện có đất nằm trong dự án.Hàng năm, với hàng chục những dự án lớn nhỏ khác nhau, nhà quản lýhành chính trong lĩnh vực này đòi hỏi cần kĩ thuật chuyên môn cao kèm theo sựkết hợp khéo léo cùng phương pháp giáo dục thuyết với những hộ dân có đấtnằm trong diện giải toả đền bù. Để làm cho dự án kịp tiến độ, đi theo đúnghướng đã khó nhưng việc đảm bảo cho những hộ dân có đất nằm trong dự ánhợp tác, chấp thuận theo quyết từ người quản lý đưa ra còn khó hơn.Bài học điển hình cho ngành quản lý phát triển đô thị phải nhắc đến là câutruyện Đoàn Văn Vươn tại Tiên Lãng, Hải Phòng, hay vụ cưỡng chế đất ở VănGiang, Hưng Yên,… Người dân Việt Nam vốn luôn “bám đất, bám làng”, khôngdễ dàng để họ có thể đánh đổi chia lìa hoặc bán lại mảnh đất mà họ đã chungsống hơn chục năm mà có khi là nhiều đời thế hệ chung sống trên cùng mộtmảnh đất. Điều đó lại càng khó hơn với những nhà quản lý trong ngành khinhững dự án phát triển đô thi vẫn còn đó và đòi hỏi luôn kịp tiến độ và hiệu quả.Vì thế, việc áp dụng khéo léo hiệu quả phương pháp giáo dục thuyết phụccàng cần thiết hơn nữa. Áp dụng khéo léo thành công phương pháp này nhằmgiúp người dân hiểu rõ được vấn đề, tầm quan trọng của việc di dời nhà ở đối9PP Giáo dục, thuyết phụcvới dự án, một phần giúp đẩy nhanh tiến độ của dự án, một phần giúp tạo môitrường thân thiện, làm việc hiệu quả giữa người dân và những nhà quản lý hànhchính. Từ đó, ta có thể khẳng định được tầm quan trọng của phương pháp giáodục, thuyết phục với ngành quản lý phát triển đô thị trong thực tiễn.Tuy đã đã đứng vào hàng những nước đang phát triển, Việt Nam vẫn luôncố gắng về mọi mặt để khẳng định mình trên trường quốc tế. Những công tác xãhội luôn được động viên thực hiện nhằm đảm bảo đời sống an sinh xã hội. Vớiđặc điểm đa văn hoá, đa dân tộc, chủ trương quan tâm chú trọng đến các dân tộcmiền núi, hải đảo được đặt lên hàng đầu. Do địa hình đồi núi, sông ngòi dày đặc,việc đưa con em đi học ở các dân tộc miền núi hay đồng bằng sông Cửu Longvẫn còn hạn chế, thực trạng học sinh bỏ học vẫn còn nhiều. Nhằm cải thiện tìnhtrạng, các cán bộ huyện, phường, xã tại các vùng trung du, miền núi phía Bắc,vùng đồng bằng sông Cửu Long luôn cố gắng vận động, thuyết phục các giađình cho con em mình đi học. Theo số liệu thống kê cho thấy năm học 2009–2010, 15 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc có số học sinh bỏ học giảm 0,09%,bằng 942 em so với năm trước, nhiều tỉnh không có học sinh tiểu học bỏ học.Hiệu quả của phương pháp thuyết phục còn được thể hiện qua chính sáchkế hoạch hoá gia đình trong nhiều năm qua. Với số dân cao, Việt Nam luôn làđiểm đến của những nhà đầu tư nước ngoài với nguồn nhân lực rẻ và dồi dào.Tuy vậy, mỗi gia đình có hơn hai người con, thậm chí bảy, tám người con lại làvấn đề cần sự can thiệp của những nhà chức trách. Do đông con, cha mẹ thườngkhông thể quán xuyến, chỉ dạy, quan tâm đến từng người con trong gia đình, bêncạnh đó là nỗi lo về “cơm, áo, gạo, tiền” cho đủ các thành viên trong gia đình.Điều đó làm giảm chất lượng an sinh xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến việc pháttriển đất nước. Trước vấn đề đó, việc can thiệp của các nhà quản lý, các nhàchức trách là rất quan trọng. Hình ảnh những biển quảng cáo, áp phích với nộidung về kế hoạch hoá gia đình xuất hiện khắp nơi, từ nông thôn đến thành phố,nhưng cũng phải kể đến các cán bộ huyện, phường, xã luôn sẵn sàng đi đến từnghộ gia đình, khu dân cư tuyên truyền, giáo dục về kế hoạch hoá gia đình nhằmgiúp người dân hiểu rõ tận sâu vấn đề và nghiêm chỉnh chấp hành theo. Sau 1010PP Giáo dục, thuyết phụcnăm thực hiện Pháp lệnh dân số, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích quantrọng và duy trì mức sinh thay thế (tức mỗi người phụ nữ được phép đẻ mộthoặc hai người con) từ năm 2006, tuổi thọ bình quân cao: đạt 73 tuổi, tỷ suấtchết của trẻ dưới 1 tuổi giảm đáng kể: từ 21% (2003) xuống còn 15,8% (2012),tỷ suất chết của người mẹ đã giảm từ 85 trên một trăm nghìn trẻ sinh ra sống(2003) xuống còn 68 trên một trăm nghìn trẻ sinh ra sống (2010). Có thể nói,một lần nữa phương pháp giáo dục, thuyết phục đã giúp một phần không nhỏvào thành công của kế hoạch hoá gia đình.Trên thực tế, việc áp dụng phương pháp giáo dục thuyết phục luôn gặpnhững tình huống, khó khăn riêng đòi hỏi cần những biện pháp mạnh, kiênquyết hơn. Có thể nói, bên cạnh phương pháp giáo dục thuyết phục luôn tồn tạisong song phương pháp cưỡng chế để bảo đảm, hỗ trợ cho phương pháp giáodục, thuyết phục được thực hiện một cách triệt để. Xét ở góc độ pháp lý, cưỡngchế là một thuộc tính của quyền lực Nhà nước. Nhà nước ban hành các văn bảnquy phạm pháp luật và đồng thời buộc các thành viên của xã hội phải chấp hànhvô điều kiện. Trong mỗi quy phạm pháp luật đã chứa đựng sẵn sự cưỡng chế củaNhà nước và khả năng này sẽ trở thành hiện thực khi có các sự kiện pháp lý, cónhững vi phạm pháp luật. Cưỡng chế Nhà nước được áp dụng vì lợi ích của Nhànước, xã hội và công dân, do cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền nhândanh, đại diện cho quyền lực Nhà nước áp dụng. Các cơ quan hành chính Nhànước thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra được pháp luật quy định nhữngthẩm quyền áp dụng cưỡng chế Nhà nước, ví dụ uỷ ban nhân dân các cấp, các cơquan hải quan, kiểm lâm, thuế vụ công an,...Trong thực tiễn quản lý đôi khi phát sinh những sự kiện pháp lý hoặcnhững tình huống bất ngờ đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước cần có nhữngbiện pháp khẩn cấp để khắc phục hậu quả, ngăn chặn những khả năng vi phạmpháp luật, hoặc khôi phục lại những thiệt hại xảy ra. Vì mục đích đó các cơ quanhành chính Nhà nước được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để đảm bảothiết lập lại trật tự và xử lý các tình huống bất ngờ. Theo quy định của Luật hànhchính, chúng được coi là những biện pháp cưỡng chế hành chính. Quay trở lại11PP Giáo dục, thuyết phụcvới ví dụ về ngành phát triển đô thị, khi hộ dân cư nhận được quyết định yêu cầudi dời chỗ ở mà hộ dân cư đó vẫn không di dời, nhất quyết ở lại thì sau khi sửdụng phương pháp giáo dục thuyết phục, nhà quản lý phải dùng phương phápmang tính quyết liệt hơn, mạnh mẽ hơn đó là phương pháp cưỡng chế để đảmbảo dự án “chạy” kịp tiến độ đề ra.Như vậy, việc kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế là yêu cầu đòi hỏikhách quan của đời sống xã hội và Nhà nước, tuỳ thuộc vào môi trường hoàncảnh chính trị, kinh tế – xã hội cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn, mỗiloại biện pháp có một ý nghĩa, vai trò nhất định, vì vậy cần phải kết hợp mộtcách hài hoà giữa chúng, không nên thiên lệch trong áp dụng chúng, đó là mộtnghệ thuật trong quản lý.Để có thể áp dụng thành công được phương pháp này trong ngành hànhchính chính thực tiễn, đòi hỏi nhà quản lý hành chính phải có chuyên môn cao,luôn có ý thức học hỏi, nhanh nhẹn trong việc xử lý tình huống. Bên cạnh đó,nhà quản lý cũng luôn cần được bồi dưỡng về phương pháp cũng như chuyênmôn. Nắm được điều đó, Đảng và Nhà nước ta luôn mở những lớp bồi dưỡngcán bộ, chuyên viên chính,… nhằm đảm bảo những nhà quản lý, cán bộ luôn cóđầy đủ kiến thức chuyên môn, đáp ứng được nhu cầu mà công việc đề ra. Nhưngđối với từng cán bộ, viên chức cũng luôn cần có ý thức tích cực trau dồi, họchỏi, bổ sung kiến thức chuyên môn thực tiễn cho mình đặc biệt là với phươngpháp giáo dục, thuyết phục để tạo môi trường thân thiện giữa Nhà nước với nhândân, xây dựng đất nước Việt Nam vững mạnh, phát triển. HẾT PHỤ LỤC1. Chú thích và danh mục tài liệu tham khảo:- (1): Từ khóa “Hành chính”, trang web v.wikipedia.com (Bách khoa toànthư mở)- (2): Luật Hành chính Việt Nam. Nxb Giao thông vận tải, 2009, tr 57- (3), (4): Cơ sở lý luận và thực tiễn về Hành chính Nhà nước – PGS.TSNguyễn Hữu Hải. Nxb Chính trị Quốc gia, 2014, tr 13012PP Giáo dục, thuyết phục-(5): “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham giathảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơquan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.” –Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến năm 2001 – Luật gia Trần MộngLang. Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr 144- (6): Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác – Lênin, trang webv.wikipedia.com (Bách khoa toàn thư mở)- (7), (8): Trang web tapchiqptd.vn (Tạp chí Quốc phòng toàn dân)- (9): Cơ sở lý luận và thực tiễn về Hành chính Nhà nước – PGS.TS NguyễnHữu Hải. Nxb Chính trị Quốc gia, 2014, tr 131- (10): V.I. Lê–nin toàn tập. Nxb Sự thật, H, 1970, tập 32, tr 270- (11): Lý luận Hành chính Nhà nước – Học viện Hành chính quốc gia, 2012,tr 7113PP Giáo dục, thuyết phục2. Danh sách thành viên:3. Bảng phân công công việc:STT12345Công việcXây dựng khung lý thuyết, lập bảng phânThành viên được giaocông công việc, tìm nguồn tài liệu.Tìm hiểu khái niệm, cở sở, nội dung củaphương pháp.Tìm hiểu ưu điểm, nhược điểm của phươngpháp.Tìm hiểu thực tiễn áp dụng phương phápTổng hợp bản thảo, đánh máy, chỉnh sửa vàin tiểu luận.14