Ví dụ tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ

Trong cuộc sống mỗi sự vật sự việc tồn tại đều có những mối liên hệ với nhau chứ không tồn tại đơn lẻ. Mối liên hệ phổ biến một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới.

Để giúp bạn đọc quan tâm tìm hiểu bài viết, chúng tôi xin đưa ra ví dụ về mối liên hệ phổ biến để bạn đọc quan tâm theo dõi có thể hiểu hơn về vấn đề

Mối liên hệ phổ biến là gì?

Để có thể giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề thì chúng tôi xin được giải đáp mối liên hệ phổ biến là gì và ví dụ về mối liên hệ phổ biến cùng nhau. Có thể thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau về mối liên hệ phổ biến, trong đó phải kể đến các quan điểm sau:

Quan điểm siêu hình cho rằng: Các sự vật, sự việc, hiện tượng tồn tại tách rời cô lập nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc liên hệ lẫn nhau. Nếu có liên hệ  thì chỉ là sự hời hợt bề ngoài. Quan điểm trên xuất phát từ thế kỷ 17, 18, khi khoa học phát triển đã tách khỏi triết học, khi càng tách rời thì càng đạt nhiều thành tịu bấy nhiêu, và từ thói quen ấy đem vào triết học đã nhìn sự vật trong trạng thái tĩnh tại, tách rời  cô lập. Tuy nhiên quan điểm trên không được thừa nhận.

Đối với quan điểm duy tâm về sự liên hệ thì có ý kiến cho rằng cơ sở của sự liên hệ  tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng  là ở lực lượng siêu tự nhiên hay là ở ý thức cảm giác con người. Các sự vật hiện tượng liên hệ với nhau là không phải do bản thân nó mà do ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối  vận động thông qua các phạm trù, đến đỉnh cao thì tha hóa thành thế giới vật chất, thành các sự vật hiện tượng. Như vậy, mối liên hệ của các sự vật hiện tượng bắt nguồn từ ý niệm tuyệt đối.

Theo quan điểm duy vật biện chứng và là quan điểm được thừa nhận về cách giải thích về mối liên hệ phổ biến, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thế giới này là một chỉnh thể thống nhất. các sự vật hiện tượng trên thế giới này liên hệ tác động, chuyển hóa nhau.

Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ, khẳng định rằng mối liên hệ là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật, hiện tượng nào, lĩnh vực nào. Bên cạnh đó thì những mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.

Nguyên lý mối liên hệ phổ biến

– Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

– Liên hệ là một phạm trù triết học bao gồm tất cả các mối liên hệ trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy.

– Liên hệ dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau. Một sự vật hiện tượng bao gồm tất cả các mặt, các bộ phận vừa khác nhau, vừa độc lập với nhau lại vừa thống nhất với nhau, ràng buộc nhau để cùng nhau tạo nên một chỉnh thể sự vật, hiện tượng nhất định.

Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong khi đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả ra khí O2.

Hoặc trong buôn bán hàng hóa dịch vụ thì giữa cung và cầu có mối liên hệ với nhau. Cụ thể giữa cung và cầu trên thị trường luôn luôn diễn ra quá trình tác động qua lại. Cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả cung và cầu. Đó chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.

Đặc trưng mối liên hệ phổ biến

Thứ nhất: Mối liên hệ phổ biến có tính phổ biến:

Các bộ phận, yếu tố và các khâu khác nhau bên trong tất cả các sự vật có mối liên hệ lẫn nhau. Bên cạnh đó mọi thứ đều có mối liên hệ với mọi thứ khác xung quanh. Không chỉ vậy tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến thể hiện toàn bộ thế giới là một thể thống nhất có mối liên hệ lẫn nhau.

Thứ hai: Mối liên hệ phổ biến có tính khách quan:

Tính khách quan thể hiện sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con người.

Thứ ba: Mối liên hệ phổ biến có tính đa dạng:

Từ các khía cạnh khác nhau, mối liên hệ phổ biến có thể được chia thành mối liên hệ phổ biến trực tiếp và mối liên hệ phổ biến gián tiếp. Mối liên hệ phổ biến bản chất và mối liên hệ phổ biến hiện tượng. Mối liên hệ phổ biến chủ yếu và mối liên hệ phổ biến thứ yếu. Mối liên hệ phổ biến tất nhiên và mối liên hệ phổ biến ngẫu nhiên. Mối liên hệ phổ biến bên trong và mối liên hệ phổ biến bên ngoài. Quan hệ nhân quả, mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận. Những mối liên hệ phổ biến khác nhau có tác dụng khác nhau đến sự tồn tại và phát triển của sự vật

Thứ tư: Mối liên hệ phổ biến có tính cụ thể và tính điều kiện:

 Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các sự vật cụ thể. Mối liên hệ phổ biến của mọi vật đều phải dựa vào những điều kiện nhất định. Tính chất và phương thức của các mối liên hệ phổ biến sẽ thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.

Ý nghĩa của mối liên hệ phổ biến

Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm xem xét phiến diện và siêu hình, đặt sự vật hiện tượng trong quan hệ với sự vật hiện tượng khác, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá trình phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ  bản chất chủ yếu. Khi nhận thức và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: Ví dụ về mối liên hệ phổ biến. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn pháp luật để được hỗ trợ.

Câu 6: Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận?􀀣 Khái niệm mối liên hệ phổ biếnTrong thế giới có vô vàn các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng cómối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó, ta thấy có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượngtồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau.Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng và các quátrình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người; sự gia tăng về dân số sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế, xã hội, giáo dục y tế.v.v;Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ,sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên [như trời] hay do ý thức cảm giác của con người.Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới làcơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác.􀀣 Các tính chất của mối liên hệ phổ biến+ Tính khách quan:Mối liên hệ của các sự vật là khách quan vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả các sự vật vô tri vô giác hàng ngày cũng chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Con người cũng chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố trong chính bản thân.Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là 1 tất yếu khách quan nên mối liên hệ cũng tồn tại khách quan.Ví dụ: Sự phụ thuộc của cơ thể sinh vật vào môi trường, khi môi trường thay đổi thì cơ thể sinh vật cũng phải thay đổi để thích ứng với môi trường. Mối liên hệ đó không phải do ai sáng tạo ra, mà là cái vốn có của thế giới vật chất+ Tính phổ biến:Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật , hiện tượng khác. Không có sự vật nào nằm ngoài mối liên hệ. Nó tồn tại trong tất cả các mặt: tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất thế giới.Ví dụ: Trong tự nhiên [ mlh mặt trời và mặt trăng-> xem thêm định luật vạn vật hấp dẫn] trong xã hội[các hình thái kinh tế xã hội: CXNT-CHNL-PK-TBCNCS]; trong tư duy [ LỚP 1-2-3-5 V.V..]+ Tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ:Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì vậy khinghiên cứu mối liên hệ giữa các sự vật cần phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những cách phân loại sau: chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian. Sự phân loại này chỉ mang tính tương đối vì mối liên hệ chỉ là 1 bộ phận, 1 mặt trong mối liên hệ phổ biến nói chung.Ví dụ: các loái cá, chim , thú đều có quan hệ với nước, nhưng cá quan hệ với nước khác với chim và thú.Cá sống thường xuyên trong nước, không có nước thường xuyên thì cá không thể tồn tại được, nhưng các loài chim và thú thì lại không sống trong nước thường xuyên được.􀀣 Ý nghĩa phương pháp luận:+ Quan điểm toàn diện: là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu tất cả các mặt, các yếu tố kể cả các mắt khâu trung gian, gián tiếp có liên quan đến sự vật. Trong nhận thức nên tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa các cá bộ phận, các yếu tố; giữa sự vật này với sự vật khác; giữa lý luận với nhu cầu thực tiễn…+ Quan điểm lịch sử - cụ thể: là quan điểm khi xem xét sự vật phải chú ý đúng mức hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã phát sinh ra vấn đề đó.Ví dụ: biện hộ cho việc ăn cướp là vì nghèo. Theo luật Hình sự thì đây chỉ là tình tiết gảim nhẹ mà thôi->

vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Video liên quan

Chủ Đề