Ví dụ về nhân cách người phạm tội

[bài giảng Tâm lý học tội phạm – VB 2, ĐH Luật Hà Nội, 2017]

Đại học Luật Hà Nội

Lớp: K14CCQ [2015 – 2018]

BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TỘI PHẠM

Thời lượng: 30 tiết

Mục lục

Vấn đề 1: Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của tâm lý học tội phạm.. 2

2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm.. 3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm.. 3

  1. Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm.. 3

3.1. Các nguyên tắc nghiên cứu của tâm lý học tội phạm.. 3

3.2. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm.. 4

  1. Vị trí, vai trò của tâm lý học tội phạm.. 5

4.1. Ví trí của tâm lý học tội phạm.. 5

4.2. Vai trò của tâm lý học tội phạm.. 6

Vấn đề 2: Nhân cách người phạm tội 6

  1. Khái niệm nhân cách người phạm tội 6
  2. Cấu trúc nhân cách người phạm tội 6

2.1. Xu hướng của người phạm tội 6

2.2. Năng lực của người phạm tội 6

2.3. Tình cảm và ý chí của người phạm tội 7

2.4. Tính cách của người phạm tội 7

2.5. Khí chất của người phạm tội 7

4.1. Các yếu tố bẩm sinh di truyền. 8

4.2. Các yếu tố xã hội 8

4.3. Những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa cá nhân. 8

Vấn đề 3: Phân tích tâm lý hành vi phạm tội 9

  1. Nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội 9

1.1. Hành vi phạm tội 9

1.2. Nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội 9

1.3. Các nguyên nhân hình thành đặc điểm tâm lý tiêu cực trong tâm lý nhân cách. 10

  1. Cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội 10

2.1. Nhu cầu và lợi ích. 10

2.2. Động cơ, mục đích, ý đồ phạm tội 11

2.3. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội 12

2.4. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội 12

2.5. Điều kiện, hoàn cảnh phạm tội 12

  1. Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội 12

3.1. Trạng thái tâm lý. 12

3.2. Hành vi 12

3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành hành vi người phạm tội 13

Vấn đề 4: Tâm lý nhóm tội phạm.. 13

  1. Khái niệm và đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm.. 13

1.1. Khái niệm.. 13

1.2. Đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm.. 13

  1. Các loại nhóm tội phạm.. 13

2.1. Nhóm tội phạm tạm thời 14

2.2. Nhóm tội phạm đơn giản. 14

2.3. Nhóm tội phạm có tổ chức. 14

Vấn đề V: Cơ sở tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm.. 16

2.1. Quan điểm của phân tâm học truyền thống. 16

2.2. Quan điểm của tâm lý học nhân văn. 16

2.3. Quan điểm của tâm lý học hành vi 16

2.4. Quan điểm của tâm lý học nhận thức. 16

2.5. Quan điểm của tâm lý học hoạt động. 17

2.6. Quan điểm của tâm lý học hiện đại 17

  1. Đặc trưng tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm.. 17

3.1. Cơ sở tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm.. 17

3.2. Tác động tâm lý trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.. 17

Ngày 11/04/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

Vấn đề 1: Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của tâm lý học tội phạm

– Ra đời từ cuối thế kỷ 19, phát triển mạnh nhất ở phương Tây

– Tâm lý học tội phạm được ứng dụng rộng rãi trong công tác phòng ngừa, phát hiện và điều tra, xử lý tội phạm nhằm giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội

Khái niệm: tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong quá trình hoạt động phạm tội của các tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, và đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm

2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm

– Các hiện tượng, đặc điểm và những khía cạnh tâm lý nảy sinh trong quá trình hoạt động phạm tội

– Nhân cách người phạm tội:

+ các đặc trưng tâm lý

+ các kiểu nhân cách

+ những lệch lạc trong nhân cách

+ các yếu tố tác động làm suy thoái nhân cách

– Tâm lý nhóm tội phạm: đặc điểm tâm lý của tội phạm hoạt động theo nhóm [tội phạm có tổ chức]

– Các nguyên nhân tâm lý – XH của tội phạm

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học tội phạm

– Làm rõ các quy luật hình thành và phát triển các phẩm chất tâm lý tiêu cực dẫn cá nhân đi vào con đường phạm tội

– Giáo dục công dân ý thức tuân thủ PL, đề cao tinh thần cảnh giác và chủ động tham gia vào công tác phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh phòng chống tội phạm

– Nghiên cứu cơ sở tâm lý của các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm

– Xây dựng các phương pháp nghiên cứu tâm lý, tác động tâm lý phục vụ cho hoạt động phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm

– Góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của tâm lý học nói chung, tâm lý học tội phạm nói riêng

3. Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm

3.1. Các nguyên tắc nghiên cứu của tâm lý học tội phạm

– Nguyên tắc mục đích: khi sử dụng các phương pháp nghiên cứu tâm lý, ta phải biết rõ mục đích sử dụng

– Nguyên tắc quyết định luận XH: mọi hiện tượng tâm lý không tự nhiên sinh ra mà đều có nguyên nhân làm hình thành hoặc làm thay đổi

– Nguyên tắc khách quan: khi thu thập thông về tâm lý đối tượng nào đó, ta phải đảm bảo được tính chân thực và phản ánh đúng bản chất của hiện tượng tâm lý mà ta quan tâm

– Nguyên tắc về sự thống nhất giữa tâm lý nhân cách và hoạt động: khi đánh giá tâm lý của người khác cần thông qua hành động, hoạt động học tập, lao động, giải trí …

– Nguyên tắc phát triển: khi đánh giá tâm lý của 1 đối tượng nào đó, cần phải xem xét nó trong sự vận động và phát triển. Khi đánh giá 1 người, không nên chỉ qua 1 tình huống mà phải qua 1 quá trình lâu dài

– Nguyên tắc tiếp cận nhân cách: cần phải tiếp cận con người 1 cách toàn diện, tìm hiểu tất cả các thuộc tính trong nhân cách và mối quan hệ tác động qua lại của chúng

——————–

Ngày 13/04/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

[Tiếp bài trước]

3.2. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học tội phạm

3.2.1. Phương pháp quan sát

– Là sự tri giác có chủ định các biểu hiện bề ngoài của con người để nhận xét, phán đoán các đặc điểm tâm lý của họ

– Phương pháp quan sát được sử dụng phổ biến trong hoạt động tố tụng, VD quan sát các biểu cảm trên nét mặt của bị cáo và các hành vi của họ, Hội đồng xét xử có thể phán đoán thái độ của họ đối với hành vi mà họ đã thực hiện

– Đặc điểm:

+ chủ thể tiến hành quan sát cũng có thể trở thành đối tượng bị quan sát. VD khi điều tra viên quan sát đối tượng thì đối tượng cũng quan sát lại điều tra viên

+ việc sử dụng phương pháp quan sát có thể gặp những trở ngại nhất định, vì đối tượng của quan sát có thế có những động tác giả để che đậy nội tâm của mình. VD 1 bị cáo tại phiên tòa có thể khóc nức nở và thể hiện sự hối hận 1 cách rất “nghệ thuật” mặc dù thật tâm không hề hối hận

+ điều kiện của hoạt động tư pháp có thể gây ra những tác động lớn đối với tâm tý của các chủ thể tham gia, vì vậy tâm lý của họ thường bộc lộ dưới rất nhiều sắc thái khác nhau

3.2.2. Phương pháp phỏng vấn cá nhân

– Là phương pháp thu thập thông tin về người phạm tội bằng cách trưng cầu ý kiến miệng

– Hai hình thức phổ biến nhất của phỏng vấn là :

+ phỏng vấn tự do: không tuyên bố chủ đề và hình thức đàm thoại

+ phỏng vấn chuẩn mực hóa: gần giống với điều tra bằng bảng câu hỏi

– Khi tiến hành phỏng vấn cần chú ý:

+ người tiến hành phỏng vấn nên đưa ra những câu hỏi rành mạch, rõ ràng

+ trong trường hợp cần thiết cần tạo ra 1 không khí thẳng thắn và tin tưởng để tranh thủ sự hợp tác của những người được hỏi

3.2.3. Phương pháp thực nghiệm

– Là phương pháp mà chủ thể chủ động tạo ra tình huống nhằm làm xuất hiện ở đối tượng những hiện tượng tâm lý cần quan tâm, tiến hành đo đạc, định lượng chúng 1 cách khách quan

– Có nhiều loại thực nghiệm:

+ thực nghiệm tự nhiên: là thực nghiệm dựa vào những điều kiện hoàn cảnh trong cuộc sống và hoạt động của đối tượng. Trong hoạt động tố tụng thì các thực nghiệm chủ yếu là thực nghiệm tự nhiên, VD thực nghiệm diễn lại hành động,

+ thực nghiệm giáo dục: nhằm phát triển, rèn luyện hoặc uốn nắn những phẩm chất tâm lý nào đó ở đối tượng. Thường được sử dụng trong quá trình giam giữ cải tạo phạm nhân

+ thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: nghiên cứu những đặc điểm tâm lý nhất định, được tiến hành trong những phòng được bố trí đặc biệt với máy móc, thiết bị tinh vi

– Trong thực tế thường thực hiện thực nghiệm nhiều lần và phối hợp với các phương pháp khác

3.2.4. Phương pháp điều tra bảng hỏi cá nhân

– Là phương pháp dùng 1 bảng câu hỏi chung cho 1 số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về 1 vấn đề nào đó

– Sử dụng phương pháp này có thể trong 1 thời gian ngắn thu thập được ý kiến của nhiều người, nhưng là ý kiến chủ quan. Do đó để có được thông tin có giá trị thì cần soạn kỹ bảng câu hỏi và hướng dẫn trả lời.

– Dựa vào phiếu điều tra sẽ giúp nghiên cứu những nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội cụ thể và đặc điểm nhân cách của người phạm tội.

3.2.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động

– Là việc dựa vào phân tích kết quả, sản phẩm hoạt động có thể rút ra những kết quả luận về tâm lý nhân cách của người đã làm ra sản phẩm đó. Chẳng hạn thông qua bài thi của 1 học viên mà phán đoán 1 số nét về tâm lý của họ như: thái độ đối với môn học, hiểu biết xã hội, khả năng tư duy, …

– Trong hoạt động tố tụng, khi phân tích đánh giá những dấu vết phát hiện được trên hiện trường, công cụ phạm tội, hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra, … ta có thể xác định được động cơ, mục đích, diễn biến hành vi, ý chí, thói quen, trạng thái tâm lý của cá nhân đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở một số nước, các chuyên gia tội phạm đã căn cứ vào cách thức thực hiện hành vi phạm tội, các dấu vết của hành vi, … mà xây dựng chân dung tâm lý của đối tượng phạm tội

3.2.6. Phương pháp trắc nghiệm

– Là phương pháp chẩn đoán tâm lý, có sử dụng những câu hỏi và bài tập được chuẩn hóa [các test] theo những thang nhất định

– Trắc nhiệm cho phép với độ chính xác nhất định, xác định được mức độ hiện tại các hiểu biết và đặc điểm nhân cách của người phạm tội

– Quá trình trắc nghiệm có thể chia làm 3 giai đoạn:

+ lựa chọn trắc nghiệm [xác định mục đích trắc nghiệm, mức độ tin cậy và độc xác thực của test]

+ tiến hành trắc nghiệm

+ xử lý kết quả thu được

3.2.7. Phương pháp nghiên cứu văn bản, hồ sơ, tài liệu

– Là phương pháp tìm hiểu tâm lý người phạm tội thông qua việc hệ thống hóa các thông tin về quan hệ, về môi trường sống, hoạt động của người phạm tội – yếu tố có ý nghĩa quyết định nội dung, phẩm chất tâm lý người phạm tội.

– Vì vậy việc nghiên cứu này giúp ta có cơ sở để phát hiện các phẩm chất tâm lý của người phạm tội như: trình độ học vấn, kinh nghiệm, nghề nghiệp, vốn sống xã hội, quan điểm chống đối, …

3.2.8. Phương pháp phân tích trường hợp điển hình [case study]

– Là phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong các ngành giáo dục học, xã hội học, quản trị học, luật học và y học

– Mục tiêu cơ bản của phương pháp này là tìm hiểu rõ về trường hợp nghiên cứu bằng cách theo dõi sát sao và toàn diện trường hợp đã chọn trong 1 thời gian đủ dài và ngay tại môi trường tự nhiên của nó.

– Kết quả nghiên cứu trường hợp điển hình cho phép nhà nghiên cứu đưa ra lời giải thích tại sao mọi việc xảy ra như đã xảy ra, và thông qua đó xác định các vấn đề quan trọng cần được tiếp tục nghiên cứu rộng rãi hơn trong tương lai.

4. Vị trí, vai trò của tâm lý học tội phạm

4.1. Ví trí của tâm lý học tội phạm

– Tâm lý học tội phạm có vị trí quan trọng trong hệ thống các khoa học pháp lý. Nó là 1 bộ phận cấu thành của tâm lý học pháp lý, nghiên cứu tâm lý người phạm tội cũng như các vấn đề, các khía cạnh tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội của tội phạm nhằm giúp cho hoạt động điều tra, xét xử, và cải tạo giáo dục người phạm tội có kết quả.

– Tâm lý học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với tội phạm học và khoa học điều tra hình sự

– Tâm lý học tội phạm cũng có mối quan hệ chặt chẽ với tâm lý học nhân cách, tâm lý học hoạt động: nó được nghiên cứu, xây dựng dựa trên lý luận của các ngành tâm lý đó

4.2. Vai trò của tâm lý học tội phạm

– Tâm lý học tội phạm có vai trò to lớn trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu các vấn đề, các quy luật tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội đã góp phần nâng cao hiệu quả của các mặt hoạt động này.

– Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tâm lý học tội phạm giúp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra được những chủ trương, những biện pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc phòng ngừa tội phạm, loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân phát sinh tội phạm trong lối sống của cá nhân và cộng đồng.

——————–

Ngày 15/04/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

Vấn đề 2: Nhân cách người phạm tội

– Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của 1 con người biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người đó.

– Nhân cách người phạm tội là tổ hợp các phẩm chất, các thuộc tính tâm lý cá nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và thái độ tiêu cực đối với các lợi ích, các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, luôn lựa chọn ý đồ và thực hiện hành vi phạm tội.

– Những khiếm khuyết trong nhân cách của người phạm tội có thể là hậu quả của quá trình chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội tiêu cực, của quá trình tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội không lành mạnh, nhưng đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của sự buông lỏng, không chịu rèn luyện bản thân của cá nhân.

2. Cấu trúc nhân cách người phạm tội

2.1. Xu hướng của người phạm tội

– Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách. Theo đó nhân cách phát triển từ đâu, theo chiều hướng nào.

– Người phạm tội hướng tới những lợi ích mà những lợi ích đó đối lập với lợi ích xã hội, xâm phạm tới lợi ích chính đáng và hợp pháp của người khác

– Xu hướng bao gồm: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin.

– Một đặc trưng cơ bản trong nhân cách của người phạm tội thiếu sự cân bằng giữa các loại nhu cầu và hứng thú. Trong đó nhu cầu và hứng thú vật chất cao hơn, chiếm ưu thế hơn so với nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội. ==> đặc trưng này là biểu hiện của sự suy thoái nhân cách ở người phạm tội. VD vì tiền hay vì các nhu cầu thấp hèn mà người phạm tội có thể dùng mọi thủ đoạn như dụ dỗ, đâm chém, giết, …

– Cội nguồn của hành vi phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở sự ý thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu cầu.

– Thế giới quan, niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở con người bình thường trong xã hội:

+ thế giới quan của người phạm tội được hình thành trên cơ sở quan niệm, quan điểm, nhận thức lệch lạc, sai trái như tôn thờ chủ nghĩa vật chất ích kỷ, mang nặng chủ nghĩa cá nhân.

+ niềm tin của người phạm tội đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa con người với nhau: họ không còn tin ai [kể cả ruột thịt], chỉ tin vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh đồng tiền

2.2. Năng lực của người phạm tội

– Năng lực của cá nhân phát triển theo chiều hướng để đạt hiệu quả trong hoạt động tội phạm, cho nên năng lực của người phạm tội phát triển ở cả những lĩnh vực liên quan tới hoạt động phạm tội. Đối với hoạt động phạm tội thì kỹ năng, kỹ xảo phạm tội rất phát triển, vì thế những hành vi phạm tội được thực hiện chuẩn xác, mau lẹ, kín đáo và thuần thục

– Do bị chi phối bởi xu hướng của hành động phạm tội, nên ở người phạm tội thường phát triển năng lực với các kỹ năng, kỹ xảo hành động phạm tội.

– Tùy theo từng loại tội phạm cụ thể, ở người phạm tội phát triển các thuộc tính, các kỹ năng phù hợp, cấu thành năng lực chuyên biệt giúp họ thực hiện các hành động phạm tội cụ thể

2.3. Tình cảm và ý chí của người phạm tội

– Tình cảm và ý chí của người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ và tình cảm trí tuệ kém phát triển. Trong đó, tình cảm đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng, mất chức năng động cơ thúc đẩy các hành vi xã hội và hoạt động tích cực của con người. Cái thiện bị thay thế dần dần bởi cái ác, các phẩm chất ý chí tích cực ở người phạm tội kém phát triển bị lấn át bởi các phẩm chất ý chí tiêu cực

– Tuy nhiên trong các hành động phạm tội, ở các đối tượng phạm tội luôn thể hiện tính mục đích cao, tính quyết đoán, sự kiên trì và nỗ lực ý chí lớn

2.4. Tính cách của người phạm tội

– Tính cách của người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu cực.

– Thái độ của người phạm tội đối với xã hội thường là lệch lạc, họ chà đạp lên đạo đức và dư luận xã hội, bị chi phối và điều chỉnh bởi các mục đích phản xã hội, sống buông thả, tự do, coi thường đạo đức, coi thưởng pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương.

– Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động phạm tội [thể hiện rõ nhất ở “tội phạm chuyên nghiệp”]. Cho nên ở người phạm tội, sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm tránh tội khi khai báo, “bản lĩnh” mang nặng tính chất lì lợm nhằm hạn chế đến mức tối đa những sơ hở trong quá trình “hành nghề”. Những “tính cách giả” xuất hiện ở cá nhân khi mới gia nhập nhóm không chính thức tiêu cực tới cá nhân trong 1 thời gian dài.

2.5. Khí chất của người phạm tội

– Trong quá trình thực hiện phạm tội với những tình huống “căng thẳng” cản trở việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết” liên tục hệ thần kinh, khí chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Bởi thế có những trường hợp người phạm tội lại có những hành vi “hình như khác xa với hành vi bản tính” thường ngày.

——————-

Ngày 18/04/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

[tiếp bài trước]

3. Các kiểu nhân cách người phạm tội

– Cách thứ nhất, theo A.I.Đôngôva, có 3 loại:

+ Loại hình nhân cách phạm pháp có hệ thống: không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tự bản thân tạo ra hoàn cảnh, vượt qua mọi trở ngại để thực hiện âm mưu tội lỗi. Ở họ, hành vi phạm tội đã trở thành thói quen.

+ Loại hình nhân cách phạm pháp do chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo:

+ Loại hình nhân cách bối cảnh: hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột

– Cách thứ hai, căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm chất tâm lý tiêu cực để phân loại về nội dung:

+ nhân cách tội phạm toàn thể: có thái độ xấu với xã hội, hành vi phạm tội được định hình, cuộc sống không ngoài tội phạm, thường xuyên gắn liền với tính toán và hoạt động phạm tội [gọi là tội phạm chuyên nghiệp]

+ nhân cách tội phạm cục bộ: có sự phân đôi các phẩm chất, vừa có những phẩm chất hợp chuẩn, vừa có những phẩm chất không hợp chuẩn [thường thấy ở tội phạm tham ô, hối lộ, buôn lậu, …]

+ nhân cách tội phạm tiểu cục bộ: có một số phẩm chất tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tội [VD ghen tuông, xúc phạm nhau dẫn đến phạm tội]

– Cách thứ ba, căn cứ theo khách thể bị xâm hại và đặc điểm hành vi phạm tội:

+ nhân cách người phạm tội vụ lợi: thể hiện rõ tính vụ lợi trong hoạt động, giao tiếp, quan hệ, ứng xử hàng ngày

+ nhân cách người phạm tội bạo lực: tính ích kỷ cao, không có thái độ dung hòa khi lợi ích cá nhân bị va chạm, tính quyết đoán cao, nhân tâm, tàn bạo, coi thường người khác, thường sử dụng bạo lực trong giải quyết xung đột, mâu thuẫn

+ nhân cách người phạm tội vụ lợi – bạo lực: có sự pha trộng, kết hợp của 2 nhân cách trên

– Cách thứ tư, căn cứ vào ý thức trong hoạt động phạm tội:

+ nhân cách người phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm: coi thường pháp luật, hành vi phạm tội luôn được tiến hành một cách thuần thục; có sự rối loạn, lệch lạc tâm lý

+ nhân cách người phạm tội vô ý: không có động cơ, mục đích phạm tội; tuy nhiên thiếu tự giác, thiếu tuân thủ kỷ luật, kém kiềm chế ==> dẫn đến sự chủ quan, cẩu thả, lệ thuộc vào tình huống ==> vi phạm các quy tắc phòng ngừa, không nhận thấy hậu quả tiêu cực có thể xảy ra. Cũng có thể hành động phạm tội trong tình trạng vô ý, bất cẩn, hoặc có sự quá tải về tâm sinh lý hay cảm xúc tiêu cực

4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội

– Từ một người bình thường trở thành 1 người phạm tội ít khi là hiện tượng bất ngờ mà thường là quá trình suy thoái nhân cách. Có 2 quy luật cửa sự suy thoái nhân cách:

+ Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo hướng dao động dần

+ Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến

– Sự suy thoái nhân cách người phạm tội có thể theo 1 hoặc cả 2 quy luật trên, nhưng thường cả 2 quy luật đan xen tác động

4.1. Các yếu tố bẩm sinh di truyền

– Yếu tố bẩm sinh di truyền có vai trò là cơ sở, là tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách người phạm tội nói riêng. Chính những đặc điểm tâm lý này dưới ảnh hưởng của môi trường xã hội và trong những điều kiện nhất định có thể nảy sinh thành động cơ và chi phối hành vi phạm tội của con người

4.2. Các yếu tố xã hội

– Ảnh hưởng của khiếm khuyết trong môi trường nhỏ hẹp [gia đình, lớp học, nhà trường, nhóm bạn bè, …]

– Những thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội [chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường sống]

4.3. Những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa cá nhân

– Quá trình xã hội hóa cá nhân được điều chỉnh bằng các quy phạm PL. Quá trình này rất phức tạp, kéo dài trong cả đời người và được biểu hiện qua các mặt cơ bản sau:

+ thực hiện vai trò xã hội

+ tiếp thu kinh nghiệm xã hội

+ thực hiện hệ thống giao tiếp

+ thích nghi xã hội

– Mặc dù quá trình xã hội hóa cá nhân được NN, XH quan tâm và điều chỉnh, tuy nhiên vẫn tồn tại những thiếu sót, lệch lạc nhất định, và chúng là nguyên nhân nảy sinh các phẩm chất tiêu cực của cá nhân, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội.

a. Những thiếu sót khi thực hiện vai trò xã hội

– Đặc biệt là vai trò trong hoạt động nghề nghiệp, có thể do các nguyên nhân:

+ Cá nhân không có đủ những phẩm chất tâm lý cần thiết mà vai trò xã hội đòi hỏi ở họ

+ Cá nhân không có đủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để hoàn thành vai trò xã hội

+ Cá nhân không ý thức được đầy đủ hoặc có khái độ tiêu cực đối với vai trò xã hội của bản thân

– Những thiếu sót này dẫn tới làm giảm tính tích cực của cá nhân khi thực hiện vai trò xã hội ==> không chú ý đến công việc của mình, không sáng tạo, cẩu thả, thờ ơ ==> coi nhẹ trách nhiệm của bản thân, nảy sinh tính vô kỷ luật, thiếu ý thức lao động, lười biếng, …

b. Những thiếu sót trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội

– Những nguyên nhân:

+ cá nhân không tự giác tiếp thu kinh nghiệm xã hội

+ thiếu sót trong kinh nghiệm xã hội của nhóm, tập thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp thu kinh nghiệm của cá nhân

+ do cá nhân chỉ quan tâm tiếp thu những kinh nghiệm nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân ==> dẫn đến hệ thống kinh nghiệm của cá nhân không đầy đủ, phiến diện

– Từ những thiếu sót trên dẫn cá nhân đến việc không thực hiện được vai trò xã hội của mình, không thể tham gia tích cực vào đời sống xã hội, làm hạn chế các mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, làm nảy sinh tích ích kỷ, hẹp hòi, chủ nghĩa cá nhân

c. Những thiếu sót trong thực hiện hệ thống giao tiếp

– Nguyên nhân:

+ do hệ thống giao tiếp không thực hiện đầy đủ chức năng của mình. VD trong tập thể thiếu sự phê bình, tự phê bình

+ giao tiếp trong nhóm có mục đích chống đối xã hội nằm thỏa mãn những nhu cầu không lành mạnh, không phù hợp với các chuẩn mực xã hội

– Những thiếu sót đó phá vỡ những quan hệ giao tiếp tốt đẹp sẵn có, củng cố thể những phẩm chất tâm lý tiêu cực như chủ nghĩa cá nhân, bất mãn với xã hội, đưa con người đến chỗ phủ nhận các chuẩn mực xã hội, làm tích cực hóa hành vi phạm tội.

d. Những thiếu sót trong quá trình thích nghi xã hội

– Quá trình thích nghi xã hội phụ thuộc vào :

+ mức độ và tốc độ biến đổi của xã hội

+ đặc điểm tâm lý của cá nhân như khí chất, tính cách, xu hướng, năng lực

+ ý chí, kiến thức, hiểu biết của cá nhân

– Những thiếu sót trong quá trình thích nghi xã hội làm cho cá nhân không thể thích nghi với điều kiện mới, làm xuất hiện thêm những bất đồng và mâu thuẫn giữa cá nhân với xã hội ==> dẫn đến hành vi chống đối xã hội của cá nhân.

Vấn đề 3: Phân tích tâm lý hành vi phạm tội

– Khái niệm: Hành vi phạm tội là 1 hành động có ý thức của 1 con người cụ thể xâm hại đến các quy định chung mà pháp luật nghiêm cấm được thể hiện rõ trong Bộ luật hình sự.

1.2. Nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội

– Là tập hợp các đặc điểm tâm lý tiêu cực, hình thành và phát triển do hậu quả của những điều kiện xã hội không thuận lợi trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể là nguyên nhân đưa con người đến chỗ phạm tội.

==> nguyên nhân tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện qua 2 nhóm:

+ đặc điểm tâm lý tiêu cực

+ điều kiện và hoàn cảnh cụ thể

– Quá trình xã hội hóa cá nhân là quá trình 1 con người cụ thể chuyển biến thành 1 thành viên của xã hội hiện tại, tiếp nhận, kế tục và phát triển các giá trị văn hóa xã hội, các quy phạm đạo đức xã hội cũng như lĩnh hội ngôn ngữ và các kỹ năng thiết yếu trong sự tác động giữa cá nhân và xã hội.

1.3. Các nguyên nhân hình thành đặc điểm tâm lý tiêu cực trong tâm lý nhân cách

a. Quá trình thực hiện vai trò xã hội

– Cá nhân không có đủ các phẩm chất tâm – sinh lý mà vai trò xã hội của họ đòi hỏi: chán nản, chây lười, thụ động trong công việc

– Cá nhân có thái độ tiêu cực đối với vai trò xã hội của bản thân: thái độ vô trách nhiệm với công việc, lạm dụng quyền hạn của mình vì lợi ích cá nhân, làm giảm tính tích cực và tính sáng tạo của họ trong công việc, nảy sinh tính vô kỷ luật và thiếu ý thức trách nhiệm

b. Quá trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội

– Cá nhân không tích cực, không tự giác tiếp thu kinh nghiệm xã hội: lệch lạc trong nhận thức, thái độ và hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực ở cá nhân

– Trong các kinh nghiệm mà cá nhân tiếp thu có những khiếm khuyết lệch lạc nhất định

– Cá nhân chỉ quan tâm tiếp thu những kinh nghiệm mà nhờ đó có thể thỏa mãn nhu cầu của bản thân

c. Hệ thống giao tiếp

– Các quan hệ giao tiếp cơ bản trong đời sống và hoạt động của cá nhân không thực hiện được đầy đủ chức năng của mình

– Cá nhân tham gia vào các quan hệ giao tiếp ở những nhóm không chuẩn mực, có hoạt động không lành mạnh, có mục đích chống đối xã hội: hình thành ở cá nhân những lệch lạc trong chuẩn mực đạo đức và hành vi, làm hình thành những quan điểm sống và định hướng giá trị tiêu cực

d. Quá trình kiểm tra xã hội

– Nguyên nhân khách quan là những yếu tố, những sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội, ngoài ý muốn chủ quan của cá nhân như: thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, … làm cho NN và XH không thể duy trì chế độ kiểm tra ở mức độ bình thường.

– Nguyên nhân chủ quan: tồn tại trong nhận thức, đánh giá của cá nhân

e. Quá trình thích nghi xã hội

– Sự thích nghi của xã hội phụ thuộc vào:

+ mức độ biến đổi của môi trường xã hội

+ đặc điểm tâm lý của cá nhân: khí chất, tính cách, xu hướng, thói quen, năng lực, tình cảm, …

+ nhận thức và thái độ của cá nhân đối với sự thay đổi của môi trường xã hội

– Cá nhân không thích nghi: sự mâu thuẫn, bất đồng với xã hội, làm giảm ý thức PL của cá nhân

——————–

Ngày 20/04/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

[tiếp bài trước]

2. Cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội

2.1. Nhu cầu và lợi ích

a. Nhu cầu

– Nhu cầu là trạng thái thiếu thốn về cái gì đó và còn người phải tìm cách hành động để bù đắp.

– Nhu cầu là cội nguồn, là nguyên nhân sâu xa bên trong của hành vi của con người. Mọi hành động của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu.

– Nhu cầu của con người xuất hiện, phát triển trong quá trình sống và hoạt động của con người, chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội.

– Nhu cầu của người phạm tội có nhiều điểm khác biệt so với nhu cầu của người bình thường, thường có những đặc trưng sau:

+ tính nghèo nàn, hạn hẹp của hệ thống nhu cầu

+ sự đòi hỏi quá cao của các nhu cầu mức độ thấp [nhu cầu sinh lý, nhu cầu vật chất]

+ tính suy đồi và thiếu lành mạnh

– Chú ý: không tồn tại nhu cầu phạm tội. Một người bị coi là phạm tội không phải vì người đó cần phải thỏa mãn nhu cầu nào đó của mình, mà bởi vì họ đã lựa chọn phương thức thỏa mãn nó bằng việc thực hiện 1 hành vi nguy hiểm cho xã hội, trong khi họ có đủ điều kiện để quyết định 1 hành vi khác phù hợp với chuẩn mực xã hội.

==> do đó sự lựa chọn phương thức hành động được quy định không phải bởi nhu cầu, mà bởi các đặc điểm nhân cách của con người.

b. Lợi ích

– Lợi ích là sự nhận thức nhu cầu và so sánh nó với những điều kiện và công cụ thực hiện đang có.

– Lợi ích con người thể hiện ở mối quan hệ của cá nhân với điều kiện hiện tại, với cái ước muốn ở kế hoạch hoạt động sống của nó trong tương lai.

2.2. Động cơ, mục đích, ý đồ phạm tội

a. Động cơ phạm tội

– Động cơ phạm tội là các yếu tố tâm lý bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. VD thù hằn cá nhân có thể đưa đến hành vi cố ý gây thương tích, giết người

– Động cơ phạm tội là nguyên nhân bên trong, trực tiếp đưa con người đến quyết định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và của nhân cách người phạm tội.

– Nếu phạm tội với lỗi cố ý thì luôn tồn tại động cơ phạm tội, nếu phạm tội với lỗi vô ý thì chỉ tồn tại động cơ ứng xử, không đóng vai trò thúc đẩy hành vi phạm tội

– Chú ý: động cơ và hành vi do nó thúc đẩy có thể không cùng tính chất. Một động cơ tốt cũng có thể dẫn đến hành vi phạm tội. VD vì bảo vệ cho con mình mà đánh đến mức gây thương tích cho con nhà khác

b. Mục đích phạm tội

– Là kết quả mà người phạm tội mong muốn đạt được bằng việc thực hiện hành vi phạm tội.

– Không phải hành vi phạm tội nào cũng có mục đích phạm tội. VD phạm tội do lỗi vô ý

– Mục đích được xác định trên cơ sở động cơ. Trong thực tế thường khó phân biệt động cơ và mục đích, tuy nhiên chúng là 2 hiện tượng tâm lý khác nhau:

+ chức năng chủ yếu của động cơ là động lực thúc đẩy hành vi

+ chức năng chủ yếu của mục đích là định hướng và điều khiển hành vi

Từ 1 động cơ, con người có thể đặt ra nhiều mục đích, và ngược lại 1 mục đích có thể được xác định trên cơ sở của nhiều động cơ thúc đẩy khác nhau

– Mục đích phạm tội biểu hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

c. Mối quan hệ giữa động cơ và mục đích phạm tội

– Việc lựa chọn mục đích là do động cơ quyết định

– Động cơ là động lực thúc đẩy hành vi cá nhân

– Động cơ và mục đích phạm tội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: nhờ động cơ thúc đẩy nên người phạm tội mới hành động quyết liệt để đạt mục đích

– Động cơ và mục đích đôi khi được dùng thay thế cho nhau

– Tất cả phạm tội cố ý đều do động cơ nhất định thúc đẩy. Chỉ có trường hợp phạm tội vô ý do cẩu thả thì mới không có động cơ rõ ràng

2.3. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội

– Sau khi đã có động cơ, mục đích và lập kế hoạch thực hiện, người phạm tội thường cân nhắc 1 lần nữa: có thực hiện hành vi phạm tội không ?

– Quyết định thực hiện hành vi phạm tội là sự lựa chọn cuối cùng của người phạm tội về mục đích, phương án phương tiện phạm tội, thể hiện ý chí và lý trí của người phạm tội, thái độ của họ đối với hành vi phạm tội và hậu quả của nó

– Quyết định thực hiện hành vi phạm tội có thể là quyết định có cơ sở, hợp lý, tối ưu hoặc là quyết định nông nổi, manh động, thiếu cơ sở

2.4. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội

– Là dấu hiệu cơ bản để đánh giá về tội phạm.

– Làm rõ phương thức thực hiện hành vi phạm tội cho thấy tội phạm được thực hiện do cố ý, được chuẩn bị trước hay bất ngờ, cái gì được sử dụng, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi

2.5. Điều kiện, hoàn cảnh phạm tội

– Là điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về không gian, thời gian và những sự kiện có liên quan xảy ra trong tình huống cá nhân thực hiện hành vi phạm tội

– Vai trò của điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài thể hiện ở chỗ: hoặc kích thích, hoặc cản trở con người thực hiện hành vi phạm tội

– Sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài có thể làm thay đổi ý đồ của người phạm tội và làm xuất hiện ý đồ mới

* Tóm lại: cấu trúc tâm lý của hành vi phạm tội gồm:

Nhu cầu vụ lợi, lợi ích hẹp hòi

==> Mục đích, động cơ, ý đồ phạm tội

==> Hình thành quyết định và chương trình định hướng hành vi

==> Điều kiện khách quan của hành vi

==> Thực hiện hành vi phạm tội

==> Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội

3. Hậu quả tâm lý của hành vi phạm tội

3.1. Trạng thái tâm lý

– Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, trạng thái tâm lý của người phạm tội thường có xu hướng trở nên căng thẳng và phức tạp. Điều này xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau:

+ sự xuất hiện của những xúc cảm căng thẳng, những ấn tượng, ám ảnh ở người phạm tội. Vì trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội không chỉ hành động mà còn tri giác về diễn biến và hậu quả của nó, VD người phạm tội thường xuyên nhớ lại, ám ảnh bởi những hành vi đã thực hiện ==> gây ra những cảm xúc nặng nề như ghê rợn, sợ hãi, căng thẳng

+ người phạm tội nhận thức dược ý nghĩa và hậu quả của hành vi phạm tội, họ có thể có những ăn năn, hối hận

+ người phạm tội lo lắng cho sự an toàn của bản thân, lo sợ bị phát hiện và trừng trị

+ sự hoạt động tích cực của tư duy để tìm cách đối phó với cơ quan điều tra, hòng che dấu hành vi phạm tội: khi thấy hành vi của mình chưa bị lôi ra ánh sáng, người phạm tội hy vọng rằng họ có thể lẩn tránh được sự phát hiện và trừng trị của PL ==> họ tìm mọi cách để che dấu và lẩn trốn, họ cố gắng lý giải các tình huống nếu bị hỏi đến, luôn phán đoán, nhận định về hoạt động của cơ quan điều tra ==> dẫn đến người phạm tội luôn căng thẳng

3.2. Hành vi

– Xuất phát từ sự căng thẳng tâm lý, hành vi của người phạm tội thường có những biểu hiện:

+ hành vi của người phạm tội trở nên thụ động, họ dễ bị kích động, không làm chủ được bản thân

+ người phạm tội có thể tìm đến những hình thức như sử dụng các chất kích thích [rượu, ma túy, …] hoặc tìm cảm giác mạnh ở các trò tiêu khiển

+ người phạm tội có xu thế muốn tìm hiểu, thăm dò các thông tin về quá trình điều tra. Thông thường sau khi gây án, người phạm tội thường rời bỏ địa bàn cư trú để lẩn trốn, nghe ngóng động tĩnh

+  người phạm tội có sự mâu thuẫn trong xu hướng hành vi: một mặt họ muốn đầu thú vì biết rằng không sớm thì muộn cũng sẽ bị phát hiện và bị trừng phạt, một mặt họ lại muốn lẩn trốn với hy vọng mong manh rằng hành vi của mình sẽ không bị phát hiện

– Nếu người phạm tội không bị phát hiện hoặc không bị trừng trị nghiêm khắc thì họ sẽ trở nên chai dạn, kinh nghiệm và nguy hiểm hơn cho xã hội

3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành hành vi người phạm tội

– Các yếu tố bẩm sinh di truyền

– Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành hành vi phạm tội

——————-

Ngày 22/04/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

Vấn đề 4: Tâm lý nhóm tội phạm

– Khái niệm: Nhóm tội phạm là tập hợp người có sự liên kết, phân công, phối hợp hoạt động với nhau do 1 hoặc 1 số cá nhân thành lập, điều khiển 1 cách có kế hoạch, thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

– Nhóm tội phạm có cấu trúc thứ bậc và có sự cấu kết chặt chẽ. Trong nhóm có sự phân công rõ ràng, mỗi thành viên có vai trò, nhiệm vụ cụ thể. Nhóm tội phạm là tiền đề hình thành hành vi phạm tội có tổ chức

– So với cá nhân thì hành vi của nhóm tội phạm nguy hiểm hơn.

1.2. Đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm

– Nhóm tội phạm bao gồm các thành viên có tâm thế chống đối các chuẩn mực XH, thường có các đặc điểm tâm lý tiêu cực trong nhân cách

– Trong nhóm tội phạm có tinh thần đoàn kết, sự tiếp xúc cá nhân khá ổn định, có định hướng giá trị chung

– Trong nhóm tội phạm, sự lan nhiễm tâm lý chống đối, tính tích cực và quyết liệt hành động được tăng cường

– Nhóm tội phạm là tổ chức bí mật, khép kín, bất hợp pháp [kể cả núp dưới danh nghĩa 1 tổ chức hợp pháp]. Tổ chức hoạt động rõ ràng, chặt chẽ, có người cầm đầu, chỉ huy, có kỷ luật riêng được quy ước bằng miệng hay bằng văn bản

– Hoạt động mang tính hệ thống, có sự chỉ huy thống nhất, mục đích cuối cùng là thu được lợi ích bất chính

– Những tên cầm đầu luôn tìm mọi cách tạo vỏ bọc kín để chỉ huy các thành viên hoạt động phạm tội

– Đa số các nhóm tội phạm có cấu trúc thứ bậc rõ ràng với vai trò, vị trí cụ thể đối với mỗi thành viên, gồm:

+ đối tượng cầm đầu chỉ huy

+ đối tượng tay chân, cốt cán

+ những đối tượng tham gia khác

2. Các loại nhóm tội phạm

Chia làm 3 loại:

+ nhóm tội phạm tạm thời

+ nhóm tội phạm đơn giản

+ nhóm tội phạm có tổ chức

2.1. Nhóm tội phạm tạm thời

– Là nhóm được hình thành theo tình huống và bắt nguồn từ nhóm mang tính chất chơi bời, bạn bè bình thường

– Đặc trưng của nhóm là sự lệch lạc trong chuẩn mực sinh hoạt của nhóm và trong hành vi của các thành viên

– Nhóm này có mức độ cố kết thấp, thực hiện tội phạm không có sự thỏa thuận trước, xuất hiện ngẫu nhiên, thường trong hoàn cảnh bất ngờ

– Không có cấu trúc tâm lý, vai trò của người đứng đầu chưa thể hiện rõ. Việc ra quyết định của các đối tượng chịu ảnh hưởng của tình huống ngẫu nhiên, do tác động của cảm xúc

2.2. Nhóm tội phạm đơn giản

– Là nhóm mà quan hệ giữa các thành viên là nhất thời, tổ chức thiếu chặt chẽ, với số lượng không nhiều.

– Không có cấu trúc phức tạp giữa những người phạm tội, nhưng có sự bí mật cấu kết và có sự thỏa thuận sơ bộ từ trước để cùng nhau thực hiện tội phạm.

– Thành phần tội phạm thường là những tên có nhiều tiền án, tiền sự, tính tình thô bạo, tàn ác, côn đồ, trình độ văn hóa thấp, không có công ăn việc làm, hoặc làm lao động đơn giản, có mức thu nhập thấp

2.3. Nhóm tội phạm có tổ chức

– Là nhóm tội phạm đặc trưng bởi sự bền vững trong quan hệ, liên hệ giữa các đối tượng, sự định hình các phương thức hoạt động và che dấu hành vi phạm tội

– Nhóm tội phạm có tổ chức chia làm 3 loại:

+ nhóm tội phạm có tổ chức ổn định, phức tạp

+ nhóm tội phạm có tổ chức cao, chặt chẽ

+ cộng đồng tội phạm, liên minh các nhóm tội phạm có tổ chức

– Tội phạm có tổ chức cao: thường xuất hiện ở các thành phố có nền công nghiệp, dịch vụ, du lịch phát triển, tại các địa bàn có khai thác khoáng sản [nơi có nhiều người lao động các nơi về làm thuê]. Đây là những tổ chức tội phạm hoạt động bí mật, khép kín với cơ cấu tổ chức rõ ràng với 2 hoặc 3 cấp, có mục tiêu hoạt động lâu dài và bền vững.

– Nhóm tội phạm có tổ chức cao bao gồm tất cả các thành viên đặc trưng bởi ý thức phạm tội, là loại nhóm tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội.

– Tính chất nguy hiểm của tội phạm có tổ chức là cao hơn so với tội phạm cá nhân, vì trong điều kiện của nhóm có thuận lợi về tâm lý, có sự gia tăng quyết tâm phạm tội ở những phần tử hay dao động do ảnh hưởng của các thành viên khác, tăng cường khả năng lôi cuốn những thành viên mới vào hoạt động tội phạm. [==> chính là sự lây lan tâm lý]

– Trong điều kiện hiện nay, nhiều tổ chức tội phạm hoạt động xuyên quốc gia, câu kết kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài, , lũng đoạn chính quyền theo kiểu mafia, xã hội đen. Các nhóm gián điệp, phản động trong và ngoài nước được lập ra để tập hợp lực lượng, thực hiện các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, đây là các nhóm tội phạm có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, cùng chung ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, có phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo quyệt, có sự cấu kết, liên hệ với các tổ chức chống đối khác.

– Nhóm tội phạm có tổ chức ở mức cao hoạt động theo kiểu “xã hội đen” thường có 1 tên đứng đầu gọi là ông trùm [boss], thủ lĩnh, đại ca, băng trưởng, … Đó thường là tên có đầu óc tổ chức, có hiểu biết khá rộng [về luật pháp, về xã hội, …] và mối quan hệ rộng rãi trong xã hội, có quá khứ “oanh liệt” trong giới giang hồ hoặc các “thế giới ngầm”. Thủ lĩnh quyết định mọi hoạt động của tổ chức tội phạm. Thủ lĩnh rất ít khi trực tiếp tham gia vào việc gây án, mà điều hành thông qua chỉ huy hoặc tay chân, do đó rất ít có nguy cơ sa lưới pháp luật.

– Ở cấp chỉ huy, mỗi tổ chức tội phạm cao có nhiều nhóm, mỗi nhóm lại có 1 hoặc 2 chỉ huy do thủ lĩnh trực tiếp chỉ định, những tên này điều hành các hoạt động cụ thể của các tổ, nhóm theo lệnh của thủ lĩnh và có trách nhiệm báo cáo thủ lĩnh về mọi hoạt động của các thành viên trong nhóm, thu tiền kiếm được nộp cho chỉ huy.

3. Đặc điểm tâm lý của thủ lĩnh nhóm tội phạm

– Thủ lĩnh là người có kinh nghiệm, có bản lĩnh thực hiện và che dấu tội phạm hơn các thành viên khác

– Thủ lĩnh quyết định phương thức hoạt động phạm tội, tổ chức điều khiển các thành viên trong nhóm hành động và phân chia kết quả thu được

– Thủ lĩnh có độ ám thị cao [ám thị là quá trình tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lý con người nhằm mục đích điều khiển họ thực hiện những yêu cầu nhất định], do đó làm giảm trạng thái hồi hộp, lo lắng, căng thẳng khi cá nhân tiến hành hoạt động phạm tội, làm tăng tính quyết đoán của những phần tử còn dao động, chần chừ

– Thủ lĩnh thường là đối tượng chủ mưu và giữ vị trí chỉ huy trong việc thực hiện hành vi phạm tội

4. Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội

– Ở VN, người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội

– Về trí tuệ: so với trẻ em bình thường, người chưa thành niên phạm tội chậm phát triển hơn về trí tuệ, tư duy trừu tượng kém, nặng về tư duy cụ thể, không biết phân tích, đánh giá đúng hiện tượng

– Về hứng thú: thường thiên về ham muốn vật chất, không có có hứng thú học tập, thích đua đòi, ăn chơi như người lớn

– Về tình cảm: thiếu bền vững, dễ dàng thay đổi nhưng lại rất mạnh mẽ, trong nhiều trường hợp mang tính cực đoan. Tình cảm mang tính xung động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi nổi. Trẻ chưa thành niên phạm tội thường có nhu cầu lớn trong tình cảm bạn bè, thường thích kết bạn với trẻ em có cùng cảnh ngộ, tình bạn trở thành tình đồng bọn, dễ thân nhau và cũng dễ phản bội nhau. Trong nhóm trẻ chưa thành niên, vai trò của “thủ lĩnh” được đặc biệt đề cao và có sức áp thị lớn.

– Về quan hệ: có xu hướng muốn thoát ly gia đình, trong khi vẫn còn bị phụ thuộc vào gia đình ==> rơi vào tình thế xung đột, mâu thuẫn

– Về tính cách: có sự đan xem giữa tính cách trẻ con và người lớn, luôn muốn tự khẳng định sức mạnh của mình, muốn hoạt động thử sức để chứng minh mình là người lớn. Có tính độc lập và tự trọng cao, phản ứng cực đoan và mạnh mẽ khi bị xúc phạm.

– Về ý chí trong tính cách: thích lao vào nguy hiểm để chứng tỏ bản lĩnh của mình, tỏ ra dũng cảm và liều lĩnh, hành động táo bạo, liều lĩnh và thiếu suy nghĩ.

5. Một số loại trẻ em chưa thành niên có nguy cơ phạm tội

– Trẻ em lang thang: là những trẻ em mà vì những lý do nào đó [chính đáng hay không chính đáng] đã lìa bỏ mái ấm gia đình, sống cuộc đời lang thang. Về cơ bản đây vẫn là những trẻ em bình thường, không phải trẻ em hư hay phạm pháp, nhưng các em đứng trước những nguy cơ bị lôi kéo, xô dẩy vào những việc làm sai trái.

– Trẻ em hư: còn gọi là trẻ khó bảo hay trẻ khó giáo dục, trẻ chậm tiến. Đây là những đứa trẻ hoàn toàn bình thường, chỉ khác ở chỗ chúng không được giáo dục đầy đủ nên trí tuệ và tư chất không được phát triển đúng và hết khả năng của nó.

– Trẻ em phạm pháp: là trẻ có hành vi vi phạm PL hiện hành [hành chính hay hình sự] đã hoặc chưa bị phát hiện và xử lý

– Trẻ em bụi đời: là loại trẻ vừa có dấu hiệu của trẻ lang thang đường phố, vừa có dấu hiệu của trẻ hư

– Trẻ em rối loạn hành vi: vừa có dấu hiệu của trẻ hư, vừa có dấu hiệu của trẻ phạm pháp

Chú ý: những loại trẻ em trên đây có thể chuyển hóa lẫn nhau:

+ trẻ lang thang  ==> trẻ hư ==> trẻ phạm pháp

+ trẻ lang thang + trẻ hư ==> trẻ bụi đời

+ trẻ hư + trẻ phạm pháp ==> trẻ rối loạn hành vi

Vấn đề V: Cơ sở tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm

– Tập trung vào việc hạn chế, tiến gần đến thủ tiêu những hiệ tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm

– Bằng mọi cách ngăn chặn các tội phạm đang xảy ra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành những công dân có ích cho xã hội.

– Định nghĩa: Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các quy định, các biện pháp, các hành động của cá nhân, tổ chức nhằm hạn chế, ngăn chặn tội phạm xảy ra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các tội phạm xảy ra và giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.

2. Một số thuyết tâm lý về phòng ngừa tội phạm

2.1. Quan điểm của phân tâm học truyền thống

– Đại diện: Sigmund Freud

– Quan niệm: bản tính của con người là xấu xa, là thù địch với xã hội, do đó tội phạm có thể xảy ra ở bất kỳ đâu, ở bất kỳ thời điểm nào và với bất cứ ai

– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:

+ tạo các rào cản để các thúc đẩy tội lỗi không thể đưa tới hành vi thực tế: hình phạt, các biện pháp răn đe đủ mạnh, giáo dục đạo đức, các chuẩn mực xã hội

+ tư vấn giúp con người chọn nghề hay các hoạt động phù hợp để giúp giải tỏa các xung năng

+ tổ chức các hoạt động để con người có thể giải tỏa các xung năng bị dồn nén hoặc tìm được đối tượng thay thế

+ với người phạm tội, phải phân tích, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của hành vi bất thường của họ và tìm biện pháp điều trị phù hợp

2.2. Quan điểm của tâm lý học nhân văn

– Đại diện: A. Maslow, C. Roger

– Quan niệm: bản tính con người là tốt, con người là hiện thân của cái đẹp, tuy nhiên họ có thể có hành vi xấu, có thể phạm tội

– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:

+ tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát triển mọi tiềm năng của mình

+ tạo môi trường lành mạnh, thể hiện tình thương yêu, sự quan tâm trong quan hệ người – người

+ trong giáo dục người phạm tội cần hiểu, gần gũi, quan tâm để cảm hóa họ

2.3. Quan điểm của tâm lý học hành vi

– Đại diện: John Broadus Watron

– Quan niệm: bản chất và hành vi con người do môi trường, đặc biệt là môi trường xã hội quyết định, và hầu hết các hành vi của con người là do tập nhiễm

– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:

+ chú trọng đặc biệt đến môi trường xã hội

+ chú trọng đến việc hình thành thói quen tuân theo PL

+ kiểm soát chặt chẽ các tình huống giáo dục

+ tránh xa các tình huống dễ gây cảm xúc

2.4. Quan điểm của tâm lý học nhận thức

– Đại diện: A. Bandura, W. Mischel, J. Rotter

– Quan niệm:

+ con người là 1 hệ thống xử lý thông tin, các sự kiện cung cấp thông tin [đầu vào], con người xử lý và kết quả là hành vi xảy ra [đầu ra];

+ hành vi phạm tội là kết quả của quá trình học tập xã hội, quá trình quan sát, là sự mô phỏng các hành vi mẫu

– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:

+ cung cấp thông tin đầy đủ, đúng về các sự kiện xảy ra

+ tạo môi trường lành mạnh

+ xây dựng các hành vi mẫu để tuyên truyền

+ hành vi phạm pháp, phạm tội phải được xử lý nghiêm minh; hành vi tuân theo PL phải được khen thưởng

2.5. Quan điểm của tâm lý học hoạt động

– Đại diện:

– Quan niệm:

+ nhân cách và yếu tố bên trong quy định hành vi, được hình thành thông qua hoạt động trong môi trường XH

+ hành vi phạm tội là kết quả của sự tác động qua lại giữa nhân cách với những phẩm chất tâm lý tiêu cực và hoàn cảnh, tình huống bên ngoài

– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:

+ chú trọng đến quá trình hình thành, phát triển nhân cách. Chú ý các yếu tố ảnh hưởng: giáo dục, nhà trường, tập thể, giáo tiếp, hoạt động, …

+ hạn chế, loại bỏ bất công, bất bình đẳng trong xã hội

+ hoàn chỉnh hệ thống PL

+ tạo môi trường phù hợp, dùng lao động, chế độ học tập để giáo dục người phạm tội

2.6. Quan điểm của tâm lý học hiện đại

– Đại diện:

– Quan niệm:

+ con người là phức tạp, là tổng hòa của tất cả, trong con người có cái tốt, cái xấu, cái tích cực, cái tiêu cực

+ hành vi nói chung và hành vi phạm tội nói riêng được quy định bởi nhiều yếu tố: xã hội, văn hóa, tự nhiên, tâm lý, di truyền, nuôi dưỡng …

– Phòng ngừa tội phạm bằng cách:

+ có thể áp dụng bất kỳ biện pháp phòng ngừa nào miễn là hữu ích và không trái luật

+ áp dụng các biện pháp một cách linh hoạt

3. Đặc trưng tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm

3.1. Cơ sở tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm

– Quá trình tác động qua lại giữa tâm lý tích cực với tâm lý tiêu cực, giữa yếu tố tâm lý “kích thích” và yếu tố tâm lý “điều chỉnh”, dẫn tới sự lấn át của tâm lý tiêu cực là nhân tố quyết định dẫn tới hành vi phạm tội. Cho nên trong phòng ngừa tội phạm, phải tác động đến cá nhân nhằm hình thành các phẩm chất tâm lý tích cực.

3.2. Tác động tâm lý trong hoạt động phòng ngừa tội phạm

a. Nội dung của phòng ngừa tội phạm

– Lành mạnh hóa môi trường xã hội

– Hình thành tâm lý hành vi tích cực cho cá nhân

+ nâng cao trình độ nhận thức

+ hình thành thái độ tích cực đối với chuẩn mực XH

+ hình thành hành vi thói quen phù hợp chuẩn mực XH

b. Yêu cầu tâm lý khi thực hiện 1 số biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể

– Giáo dục PL

– Giáo dục đạo đức và thói quen hành vi văn hóa

– Kiểm tra xã hội

– Biện pháp trừng phạt: là áp dụng các quy định của luật hình sự tác động trực tiếp tới người tội phạm

——————–

Ngày 04/05/2017

Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

Câu hỏi trắc nghiệm:

  1. Một trong những đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm là tâm lý của nhóm tội phạm.
  2. Một hành vi phạm tội có thể có nhiều mục đích.
  3. Người phạm tội là người luôn có khiếm khuyết về thể chất
  4. Một trong những đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm là khía cạnh tâm lý của hoạt động phòng ngừa tội phạm
  5. Một trong những đặc điểm tâm lý của nhóm tội phạm là tính dễ bị ám thị cao
  6. Con người phạm tội là do hoàn cảnh thúc đẩy
  7. Theo phân tâm học, hành vi phạm tội có nguyên nhân sâu xa từ bản năng sinh vật của con người
  8. Việc thực hiện hành vi phạm tội có ảnh hưởng đến người phạm tội và dẫn đến thay đổi nhất định về tâm lý của họ
  9. Hành vi phạm tội nào cũng có mục đích
  10. Môi trường sống là yếu tố quan trọng trong sự hình thành nhân cách người phạm tội.

Trả lời:

  1. Đây là khẳng định Đúng vì tâm lý nhóm tội phạm là 1 trong những đối tượng nghiên cứu của tâm lý học tội phạm.
  2. Đây là khẳng định Đúng vì trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có thể có nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như vụ án Nguyễn Hải Dương có hành vi giết người vừa nhằm mục đích tước đoạt mạng sống của người khác [để trả thù vì tình], vừa nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản
  3. Đây là khẳng định Sai vì trong các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi phạm tội có yếu tố khiếm khuyết về thể chất, nhưng yếu tố thể chất không phải là yếu tố luôn có ở người phạm tội, ngay cả người hoàn toàn bình thường về mặt thể chất cũng có thể có hành vi phạm tội
  4. Đây là khẳng định Đúng
  5. Đây là khẳng định Đúng vì 1 trong những đặc điểm của tâm lý nhóm tội phạm là tính dễ bị ám thị cao, trong nhóm tội phạm có thủ lĩnh, và thủ lĩnh là người có độ ám thị cao, thể hiện qua việc khi thủ lĩnh “ra lệnh” thì các thành viên của nhóm tội phạm “răm rắp” thực hiện mà không cần suy nghĩ về hành động mình sắp thực hiện.
  6. Đây là khẳng định Sai vì nguyên nhân của hành vi phạm tội là do đặc điểm tâm lý tiêu cực và điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Do đó nếu chỉ có riêng hoàn cảnh thúc đẩy thì chưa chắc đã có hành vi phạm tội. Ví dụ 1 người thấy nhà người hàng xóm quên khóa cửa, hoàn cảnh hoàn toàn có thể vào lấy trộm, tuy nhiên không thực hiện hành vi đó vì người này sống lương thiện, không có tâm lý tiêu cực chống lại xã hội.
  7. Đây là khẳng định Đúng vì theo phân tâm học [S.Freud] thì cội nguồn thúc đẩy hành vi của con người, trong đó có hành vi phạm tội, chính là bản năng sinh vật, là cái vô thức.
  8. Đây là khẳng định Đúng vì sau khi thực hiện hành vi phạm tội, sẽ có hậu quả về mặt tâm lý: trạng thái tâm lý, và hành vi. VD sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội thường có cảm giác căng thẳng, lo âu sẽ bị phát hiện và trừng phạt
  9. Đây là khẳng định Sai vì chỉ ở những trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thì mới tồn tại mục đích phạm tội, thực tế có những trường hợp phạm tội với lỗi vô ý, tức là người phạm tội không hề có mục đích. VD người chủ vườn rau chăng dây điện để chống chuột và đã có biển cảnh báo, không may người khác chạm vào và bị điện giật chết, khi đó người chủ vườn rau bị khép tội “vô ý làm chết người”, người này không hề có mục đích “giết người”.
  10. Đây là khẳng định Đúng vì môi trường sống là 1 trong những yếu tố quan trọng hình thành nên nhân cách người phạm tội cùng với các yếu tố khác như gia đình, giáo dục, …

Video liên quan

Chủ Đề