Bài văn phân tích bài thơ đồng chí năm 2024

Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.

Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Phápác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh. Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá”

Hai câu đàu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?

“Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”

Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng

chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.”

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.

Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.

Ba năm sau (1948), khi tham gia vào hàng ngũ cách mạng, được trực tiếp trải nghiệm đời lính, được chứng kiến những mất mát, hi sinh, những khó

khăn gian khổ, được sống trong tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, Chính Hữu đã có cái nhìn, cách cảm nhận khác về người lính. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ Đổng chí. Ngay từ khi mới ra đời, Đồng chí

đã được đón nhận nồng nhiệt. Có thể coi đó là một trong những áng thơ đẹp nhất về người lính, vẻ đẹp của bài thơ chính là vẻ đẹp của tình đồng

chí, đồng đội được hiện lên qua những “chi tiết và hình ảnh tự nhiên, bình dị mà cô đọng, giàu sức biểu cảm” (SGK Ngữ văn 9, tập 1).

Mở đầu bài thơ là sự khái quát về cảnh ngộ của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói thường ngày của người dân quê. Ta bắt gặp ở đây những thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miển Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn. Những con người xa lạ, cách nhau cả một phương trời nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những “người xa lạ”, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Điệp từ “bên” cùng cấu trúc song hành có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc “súng bên súng” (cùng chung lí tưởng, suy nghĩ – “đầu sát bên đầu”). “Cái hay của nhà thơ là đã biết đem cái ấm áp của “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi nóng mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ”. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ỷ hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của nhau: Đồng chí!

Hai tiếng “đồng chí” vang lên, như một tiếng gọi thiết tha. Nhịp thơ đang dàn trải, như những lời thủ thỉ, tâm tình, đến đây chợt lắng lại, ngắt ra thành một câu thơ riêng, chỉ với hai từ và dấu chấm than, tựa như một nốt nhấn ngân vang. Nó vừa là một định nghĩa giản dị về tình đồng chí, vừa có ý nghĩa bản lề đóng lại những dòng cảm xúc bên trên và mở ra những nguồn mạch biểu hiện mới của tình đồng đội. Chính Hữu đã từng có những định nghĩa giản dị như vậy về tình đồng đội thiêng liêng:

“56 ngày đêm bom gầm, pháo giội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Đồng đội ta

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm sẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”

(Chính Hữu – Giá từng thước đất)

Đồng chí là thế. Là sự gắn bó tha thiết tự trong tim, là sự sẻ chia những tâm tư, những gian khó cuộc đời, là sự thấu hiểu những tình cảm, nghĩ suy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

vang lên, ẩn chứa cả ý chí kiên định. Đó không phải là thái độ buông xuôi, vô trách nhiệm mà là biểu hiện của lòng quyết tâm sắt đá. Họ vẫn gắn bó lắm, vẫn yêu nhớ lắm cái mảnh đất quê hương nghèo khó, nên mới có thể cảm nhận được nỗi lòng của người thân nơi hậu phương:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa, nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Chúng cũng biết “nhớ” khi cách xa những người con thân yêu của làng quê. Nghệ thuật nhân hoá được sử dụng thật đắc địa. Bao tình cảm nặng sâu như đều dồn tụ trong tiếng ”nhớ“ giản dị ấy. Câu thơ gợi ta nhớ đến những tiếng thơ của Hồng Nguyên:

“Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gao canh khuya.”

(Hồng Nguyên – Nhớ)

Giữa người đi xa và người ở lại luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Những người lính cùng nhau san sẻ mọi buồn vui, khó khăn của cuộc sống kháng chiến. Không chỉ thế, tình đồng chí còn tiếp thêm cho họ sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, gian khổ của đời lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.”

Câu thơ khắc hoạ hoàn cảnh thực của người lính : thường xuyên phải chống chọi với những cơn sốt rét rừng triền miên. Hình ảnh thơ chân thực, cụ thể, nhịp thơ 3/5 đều đều như những lời kể chuyện nhẹ nhàng mang lại cho ta cảm giác se xót trước những gian khó mà người lính phải trải qua trong cuộc đời chiến đấu.

Những hiện thực trần trụi tưởng như không phải là thơ, nhưng lại gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Nhịp thơ nhanh, câu thơ ngắn, kết hợp cùng cấu trúc song hành có tác dụng đặc tả sự thiếu thốn của đời lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ta cũng từng bắt gặp những câu thơ đậm chất hiện thực như thế trong thơ Chính Hữu:

“Súng nặng Đường trơn Vai gầy Áo rách”

(Chính Hữu – Tháng năm ra trận)

Nhưng bất chấp gian khổ, người lính vẫn cười – tiếng cười ngạo nghễ của những con người coi thường khó khăn, tiếng cười được sưởi ấm bằng đôi bàn tay nắm chặt:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “thương nhau” được đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có sự cảm thông, sự xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay truyền hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng, cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút lùm ăn” (Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày. Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, để họ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó:

III. Kết bài:

“Trong bài Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu, là tình đồng chí, đồng đội” (Chính Hữu).

Cả bài thơ là khúc ca về tình cảm chân thành, thiêng liêng của những người lính nông dân. Từ những miền quê nghèo khác nhau trên dải đất hình chữ S, cùng chung sự khốn khó, chung lí tưởng chiến đấu, họ đến với nhau, giản dị mà chân thành. Bài thơ sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim, tâm hồn mỗi người dân Việt Nam như một biểu tượng đẹp về tình đồng chí bất tử!

Từ ấy – Tố Hữu

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Tháng 7-

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của thơ ca cách mạng nước ta. Thơ Tố Hữu là sự hòa quyện của cảm xúc và lí tưởng của trữ tình và chính trị. Viết về những vấn đề lớn lao với những cảm xúc dạt dào chân thực, mỗi vần thơ của ông đã làm rung động trái tim và thức tỉnh lí trí của bao người.

Một trong những bài thơ thể hiện sâu sắc phong cách thơ Tố Hữu có lẽ phải kể đến “Từ ấy”. Thi phẩm đã ghi lại tâm trạng của chàng thanh niên khi bắt gặp lí tưởng cộng sản để rồi được hồi sinh cả con người và hồn thơ. Phải chăng vì thế mà tác phẩm này gợi ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ về vấn đề lí tưởng, lẽ sống trách nhiệm của thanh niên với đất nước dân tộc? “Từ ấy” được viết vào khoảng tháng 7/1938 khi Tố Hữu vừa tròn 18 tuổi và vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhan đề bài thơ đã được chọn thành tên chung cho toàn tập thơ đầu tay của Tố Hữu. Chỉ riêng điều đó thôi đã đủ nói nên ý nghĩa đặc biệt của bài thơ đối với đời cách mạng và đời thơ của ông. Mở đầu bài thơ là lời tự sự giản dị, tự nhiên: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Thoảng nghe tưởng như “từ ấy” là một mốc thời gian rất mơ hồ, không cụ thể. Nhưng đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ ta mới hiểu hết được ý nghĩa của phút giây đó. “Từ ấy” là giây phút thiêng liêng nhất trong cuộc đời của nhà thơ, là dấu mốc quan trọng giữa hai chặng đường đời của Tố Hữu. Trước khi được giác ngộ lí tưởng cộng sản, Tố Hữu cũng như nhiều thanh nhiên khác thời bấy giờ sống trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ điêu linh. Bản thân họ có thể là những thanh nhiên nhiệt huyết nhưng lại rơi vào bế tắc, không phương hướng. Trong “Nhớ đồng”, Tố Hữu từng kể lại: Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn Muốn thoát than ôi bước chẳng dời Ở môt bài thơ khác ông bộc bạch: Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước Chọn một dòng hay để nước trôi Nếu đọc Thơ Mới ta hẳn sẽ nhận ra cảm giác cô đơn, lạc lõng, bế tắc trước thực tại này không phải là xa lạ, cá biệt. Nhiều nhà thơ Mới tìm cách thoát ly nhưng rồi lại rơi vào vòng quanh quẩn của bế tắc, tuyệt vọng, cô đơn, buồn não. Đặt trong bối cảnh như vậy ta mới hiểu được tại sao Tố Hữu lại say mê sung sướng đến thế khi đón nhận lí tưởng. Một chân trời mới như được mở ra, phía trước là ánh sáng mật trời bừng chiếu cuộc đời của nhà thơ thay đổi, hồn thơ cũng được tái sinh. Cho đến tận sau này khi nhớ lại Tố Hữu vẫn không giấu nối niềm vui sướng ngất ngây ấy: Rồi một hôm nào tôi thấy tôi Nhẹ nhàng như con chim cà lơi Say đồng hương nắng vui ca hát

từ “lòng tôi”, “hồn tôi” như để nhấn mạnh vào sự gắn bó hòa quyện ở mức cao nhất – trạng thái gắn bó về tinh thần, lý tưởng của mình với tập thể. Có lẽ khi giác ngộ lý tưởng Tố Hữu đã nhìn lại được chỗ đứng của mình. Ông đi về phía những người dân lao động cần lao, ông nguyện “trang trải” trái tim nhiệt huyết của mình “khắp trăm nơi”. Đó là sự sẻ chia rộng mở để tâm hồn tìm đến sự đồng điệu, gắn bó chân thành sâu sắc. Tình yêu thương của Tố Hữu không chung chung xa lạ. Nó là tình cảm hữu ái giai cấp gần gũi cụ thể. Tố Hữu tìm đến những hồn khổ để tạo thành một khối đời, một khối đoàn kết mạnh mẽ. Cái TÔI đã chan hòa trong cái TA, tìm thấy chỗ đứng và giá trị của mình trong cái ta, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể được giải quyết khiến con người sống ý nghĩa và tích cực hơn. So sánh với những nhà thơ mới cùng giai cấp trí thức tiểu tư sản đương thời ta mới thấy được sự tiến bộ tự vượt lên chính mình của Tố Hữu. Trong bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh từng chỉ ra bi kịch của cái tôi muốn thoát li mà lại bế tắc của những nhà thơ Mới. Vậy thì ở đây, Tố Hữu đã dẫn bạn đọc đến một lẽ sống mới, tới sự gắn bó hòa quyện của cái tôi và cái ta. Đó không chỉ là phương hướng chỉ đường cho cuộc đời ông mà còn là phương hướng cho thơ ông. Từ sự chuyển biến về nhận thức nhà thơ có sự chuyển biến lớn về mặt tình cảm: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ. Điệp từ “đã là”, “là” như một sự khẳng định chắc nịnh về quyết tâm sống gắn bó, vì nhân dân Tổ quốc của Tố Hữu. Đặc biệt nhà thơ sử dụng các đại từ “con”, “em”, “anh” vốn là những đại từ chỉ mối quan hệ gần gũi trong gia đình. Nó như một lần nữa thể hiện quan điểm sống nhân sinh quan mới mẻ của nhà thơ. Tố Hữu tự coi mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng nhân dân cần lao ngoài kia. Số từ ước lệ “vạn” đi cùng với “kiếp phôi pha”, “cù bất cù bơ” càng khẳng định hơn đối tượng mà nhà thơ muốn hướng tới. Nếu những nhà thơ Mới khác vẫn đang “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” thì Tố Hữu đã biết cuộc đời mình dùng làm gì, phục vụ ai, thơ mình phải hướng về đâu của cuộc sống này. Nhà thơ đã chọn nhân dân và cụ thể hơn là những người cần lao đau khổ nhất để đứng về phía họ, cùng chiến tuyến với họ. Từ đây trong Tố Hữu ta bắt gặp lại những con người nhỏ bé ấy là một em bé liên lạc, một người kĩ nữ trên sông Hương, một người bán hàng rong giữa đêm phố... Tất cả đã trở thành những người thân thiết nhất của nhà thơ mà ông nguyện đem cuộc đời và ngòi bút của mình để chiến đấu cho hạnh phúc của họ. Phải chăng

vì vậy mà thơ của Tố Hữu cũng được nhân dân đón nhận nồng nhiệt yêu thương? Từ khi đón nhận lí tưởng Tố hữu đã hiểu rằng: Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu Dấn thân vô là phải chịu tù đày Là gươm kề cổ súng kề tai Là thân sống chỉ coi còn một nửa Nhưng khi lí tưởng đã soi đường, con tim đã hồi sinh nhà thơ trẻ ấy chẳng ngại gì sương gió cuộc đời, sống chết bom đạn. Ông biết chỗ đứng của mình, của thơ mình để đi đúng hướng, tìm đúng đường để sống một cuộc đời ý nghĩa. “Từ ấy” mãi mãi là mốc son chói lọi đối với cuộc đời Tố Hữu bởi từ đây ông không còn là một trí thức tiểu tư sản vơ vẩn cùng mây gió nữa mà đã trở thành một nhà thơ chiến sĩ, một người bạn, người đồng chí của nhân dân cần lao. Từ đây một Tố Hữu mới được ra đời dưới ánh sáng chói chang của mặt trời lý tưởng. Tình yêu, sự say mê của tuổi 17 – 18 khi bắt gặp ánh sáng của đời mình đó mãi mãi làm rung động trái tim những người yêu thơ.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ÔNG SÁU – CHIẾC

LƯỢC NGÀ

“Ê-mi-ly, con đi cùng cha Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc...

-Đi đâu cha?

-Ra bờ sông Pô-tô-mác

-Xem gì cha?

Không con ơi, chỉ có lầu Ngũ Giác. Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe Đừng có hỏi cha nhiều con nhé! Cha bế con đi, tối con về với mẹ...” (Tố Hữu)

Người đàn ông tên Mo-ri-xơn ấy bế cô con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng lầu Năm Góc bước tới cùng vẻ mặt đăm chiêu. Đứa bé ấy vẫn hồn nhiên mà chẳng biết rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khốc liệt đang diễn ra mà chính người bố dũng cảm của cô bé quyết phản đối. Người bố ấy đã có thể đặt chiếc hôn cuối cùng lên má cô con gái bé bỏng của mình trước khi tự thiêu, thế nhưng ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng chưa một lần được âu yếm, ôm ấp đứa con vào lòng. Tác giả là một trong những cây bút sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến, là cây đại thụ của văn học Nam Bộ với các tác phẩm truyện ngắn nổi bật như: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”,... Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Và nhân vật ông Sáu chính là sự thành công vang dội, để lại cho độc giả bao ấn tượng mãi không phai. Suốt tám năm ròng rã vì lý tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà ông đành gác lại hạnh phúc của mình ở sau. Bé Thu – con gái ông lạ lẫm và chẳng nhận đấy là cha mình. Là một người cha, ông Sáu thông cảm cho cảm giác của con mình và luôn muốn bù đắp. Người đàn ông mạnh mẽ, dũng cảm đến đâu cũng sẽ yếu lòng trước vợ con, lúc này đây tình thương lớn dần, nếu không có chiến tranh thì có lẽ ông đã được bên cạnh con mỗi ngày, nuôi dạy và chăm sóc nó lớn.

Cũng như bao người khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu ở hậu phương. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông sau tám năm xa cách. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của ông thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con ông Sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.

Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách, bởi đó giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách... Ông đã “xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”. Ông vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con... Ông không ghìm nổi xúc động.... Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra ông, nó như một nhát dao cứa vào trái tim ông Sáu, ông lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, ông đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Trông ông vô cùng đáng thương. Có lẽ ông Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người cha làm sao ông có thể không đau đớn, xót xa.

Mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng “ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Khi mẹ bảo nó gọi ba vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và