Đỗ đức dục là ai

Đỗ Đức Dục [1915 - 1993] [còn có bút danh Trọng Đức, Như Hà, Tảo Hoài] là nhà trí thức cách mạng, nhà báo, nhà lý luận, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học Pháp, nguyên Phó Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, nghiên cứu viên Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội [nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam], Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Ông sinh ngày 15 tháng 8 năm 1915, quê quán xóm Trung, làng Xuân Tảo [tục gọi là Cáo Đỉnh], huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay là phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

Xuất thân trong một gia đình Nho học dòng dõi, dòng họ ông những đời trước trước đều có nhiều người khoa bảng, có cụ được tước Hồng Lô ở triều đình Huế. Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ, được ông chú là ông Đỗ Uông [y sĩ Đông Dương, sau đó có thời kỳ làm Giám đốc nhà thương Cống Vọng, nay là Bệnh viện Bạch Mai] nuôi cho ăn học thành tài, thuở nhỏ học trường Albert Sarraut, trường Bưởi, theo học luật khoa trường Viện Đại học Đông Dương khóa 1935-1938 và đậu cử nhân loại ưu năm 1938.

Trước Cách mạng Tháng Tám Đỗ Đức Dục tham gia phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, viết báo, dạy học tư ở Hà Nội và Vinh, là chủ bút tạp chí Thanh Nghị, chủ bút báo Độc lập cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ Việt Nam từ những ngày đầu báo mới ra đời năm 1944.

Sau 1945 ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Phó Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam [1945-1960], Đại biểu Quốc dân Đại hội Tân Trào, Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục [từ 8/9/1945], Đại biểu Quốc hội khóa I, Ủy viên Tiểu ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Thứ trưởng Bộ Giáo dục [1946].

Trong kháng chiến chống Pháp ông lên Việt Bắc, làm Phó bí thư Tổng bộ Việt Minh [1947-1950], Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt [1950-1955], Chủ nhiệm báo Độc lập [1950-1957], Giám đốc Trường viết báo Huỳnh Thúc Kháng [1949].

Sau hòa bình lập lại năm 1954 ông lần lượt đảm nhiệm: Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Ủy viên Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Xô [1955-1960], Phó chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam [1946-1960][1].

Sau năm 1960, do những quan điểm chính trị khác biệt ông không còn tham gia nhiều vào hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1960 đến năm 1975 ông trở thành chuyên viên nghiên cứu văn học Pháp của Phòng văn học nước ngoài, Viện Văn học.

Ông qua đời ngày 24 tháng 9 năm 1993. Mãi đến thời kỳ Đổi mới, uy tín ông được phần nào phục hồi, và ông được truy tặng Huân chương Độc lập năm 2001.

 

Sách nghiên cứu, dịch thuật của Đỗ Đức Dục và của một số tác giả viết về Đỗ Đức Dục

Cuộc đời và sự nghiệp của Đỗ Đức Dục, "khởi đầu bằng văn học và kết thúc cũng bằng văn học, âu cũng là định mệnh" như lời ông đã nói[2]. Khi còn làm báo trước đây, ngoài viết báo dưới các bút danh khác nhau [mà hiện nay thống kê có tới hàng ngàn bài], Đỗ Đức Dục cũng viết và dịch một số tác phẩm văn học in trên tạp chí Thanh Nghị, báo Độc lập; sáng tác một số truyện ngắn và thơ. Trong quãng đời hoạt động cách mạng với tư cách một chiến sĩ hết mình đấu tranh cho sự nghiệp dân chủ của nhân dân, ông đã để lại những tác phẩm có tiếng vang lớn, đáng chú ý là những bài viết:

  • Giải thích bản Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp [Độc lập, số 94 đến 99, 102 đến 104, 1946]
  • Ba năm dân chủ [Độc lập, số 2, 1948]
  • Quan hệ giữa chính trị và chuyên môn [Độc lập, số 11-12, 1949]
  • Mặt trận nhân dân trong cách mạng dân chủ mới Việt Nam [Độc lập, số 14, 1949]
  • Nhiệm vụ và triển vọng của Mặt trận Dân tộc thống nhất [Độc lập, số 19-20, 1950]
  • Đảng Dân chủ Việt Nam phải làm gì trong giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công [Độc lập, số 23, 1950]
  • Hai tác dụng lớn của việc thực hiện chính sách ruộng đất [Độc lập, số 37, 1953]
  • Chính sách khôi phục kinh tế [đọc trước Quốc hội khóa V, Độc lập, số 125-126, 1955]
  • Người trí thức trong cuộc thống nhất văn hóa tư tưởng giữa hai miền [Độc lập, số 1088, 1976]
  • Thanh niên trí thức Việt Nam đi vào cuộc Cách mạng tháng 8 như thế nào [Hồi ký, tạp chí Xưa và Nay, số 9, 1995]

Với tư cách là nghiên cứu viên, dịch giả văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, chưa kể những công trình in trên các tạp chí chuyên ngành, ông đã xuất bản những tác phẩm chính sau:

  • Một tháng ở Liên Xô [bút ký, 1955]
  • H. Balzac - một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực [1966]
  • Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây [1981]
  • Trước ngôi nhà sàn của Bác Hồ [nghĩ về lối sống Việt Nam] [1985]
  • Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du [1989]
  • Hành trình văn học [2003]
  • Truyện ngắn chọn lọc [dịch của Maupassant, 1960]
  • Vỡ mộng [bút danh Trọng Đức, dịch của Balzac, 1964, tái bản 2001]
  • Miếng da lừa [bút danh Trọng Đức, dịch của Balzac, 1973, tái bản 1985, 2001]
  • Bà Bovary [dịch của Flaubert, 1978]
  • Nông dân [bút danh Trọng Đức, dịch của Balzac, 1981]
  • Hiệu hạnh phúc các bà [Zola, 1986]
  • Ở Mỹ [dịch của Gorky, 1992].
  • Huy chương vì sự nghiệp giáo dục [truy tặng, 1993]
  • Huy chương vì sự nghiệp văn hóa quần chúng [truy tặng, 1993]
  • Huy chương Chiến sĩ văn hóa [truy tặng, 1993]
  • Huân chương Độc lập hạng Nhất [truy tặng, 2001]
  • Hiện nay, ở Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông, theo quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố ngày 13 tháng 7 năm 1999. Đường nằm trên địa bàn phường 18 quận Tân Bình, từ đường Phú Thọ Hòa đến đường số 20. Đường Đỗ Đức Dục dài khoảng 150 mét, lộ giới 12 mét. Từ năm 2008, ở quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội cũng có con phố mang tên phố Đỗ Đức Dục, là đoạn từ ngã 3 đường Phạm Hùng, bên trái là Bảo tàng Hà Nội, đến ngã 3 giao cắt với phố Miếu Đầm[3].
  • Đỗ Đức Dục, Hành trình văn học, Lê Phong Tuyết và Lê Thị Thu Thủy biên soạn. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 2003.
  • Nhà lý luận phê bình Đỗ Đức Dục

Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Dục sinh năm 1915 tại làng Xuân Tảo, Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội, mất năm 1993. Ông là một nhà trí thức lớn của dân tộc, nhà hoạt động chính trị, nhà văn hóa, nhà giáo duc, nhà báo, nhà luật học, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng,…

Từ một trí thức có tư tưởng cấp tiến, Đỗ Đức Dục sớm đến với Cách mạng. Năm 1945, ông được cử vào Đoàn Đại biểu của Đảng Dân chủ đi dự Đại hội quốc dân tại Tân Trào. Năm 1946, được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa I, được giao trọng trách thuyết trình trước Quốc hội bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cũng trong thời gian này, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đã cùng tổ chức lên chiến khu và tiếp tục đảm nhiệm các trọng trách: Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh; Ủy ban UBTW Mặt trận Liên Việt; Phó Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam; Giám đốc Trường viết báo Huỳnh Thúc Kháng; Chủ nhiệm báo Độc Lập.

Hội thảo Kỷ niệm 25 năm ngày mất Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Dục.

Ông cũng giữ trọng trách Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam suốt 10 năm từ 1955-1960. Năm 1957, với cương vị là Thứ trưởng Bộ Văn hóa, ông được giao nhiệm vụ cùng các nhà văn có tên tuổi thời đó đứng ra vận động và thành lập Hội Nhà văn Việt Nam.

Tại Hội thảo, GS-TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cho rằng việc tích lũy tri thức một cách hệ thống và khoa học trong ngành nghiên cứu xã hội nhân văn khi đó thực sự chưa được coi trọng. Đỗ Đức Dục hẳn đã nhìn thấy điểm yếu đó và ông muốn xây dựng một nền khoa học xã hội nhân văn thực sự khoa học. Những bài báo của ông đã góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học xã hội ở miền Bắc trở nên sôi nổi.

“Cuộc đời của một con người cống hiến trọn đời mình cho Cách mạng, cho đất nước, cho sự phát triển của văn hóa và khoa học như Đỗ Đức Dục xứng đáng để các thế hệ chúng ta tôn vinh, học tập.” GS-TS. Nguyễn Quang Thuấn khẳng định.

GS-TS. Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trình bày tham luận tại Hội thảo.

Theo PGS-TS. Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, hơn nửa thế kỷ hoạt động trên nhiều lĩnh vực, có thể khẳng định Đỗ Đức Dục chính là hiện thân sinh động và đẹp đẽ của hình mẫu trí thức dấn thân không biết mệt mỏi trong thế kỷ XX đầy biến động.

Đỗ Đức Dục đã làm trọn vai trò của một trí thức dân tộc trong thời đại Cách mạng. Ông theo đuổi tư tưởng Cách mạng dân tộc – dân chủ, đoàn kết mọi giai cấp nhằm mục tiêu trước nhất là đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập.

PGS-TS. Nguyễn Văn Huy [Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam] đã ca ngợi ông Đỗ Đức Dục là đại diện cho “bản lĩnh của thế hệ trí thức vàng Việt Nam” bởi ông là một trí thức lớn có bản lĩnh, dám dấn thân. 

Sự độc lập trong tư tưởng, dám nói lên chính kiến của mình ở Đỗ Đức Dục đã giúp cho chúng ta định nghĩa thế nào là Trí thức, và sẽ mãi mãi là tấm gương cho hậu thế.

Tại Hội thảo, các nhà nghiên cứu đều có chung một nhận định, sau 50 năm cầm bút, Đỗ Đức Dục xứng đáng không chỉ với những danh hiệu cao quý ông đã được nhận như “Huân chương độc lập hạng Nhất”, Huy chương “Vì sự nghiệp giáo dục”, “Vì sự nghiệp văn hóa”, “Chiến sỹ văn hóa”, “Vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc”, mà ông còn thực sự là một trí thức bản lĩnh, một nhà văn hóa lớn.

Theo Nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, nhắc đến Đỗ Đức Dục, nếu chỉ nhắc đến vai trò là Nhà văn, Nhà báo, Nhà nghiên cứu,... thì chưa đủ, mà cao hơn nữa, ông là một Nhà Văn hóa. 

Trong sự nghiệp cầm bút, Đỗ Đức Dục đã có những cống hiến to lớn cho nền báo chí nói riêng và đất nước nói chung. Ở lĩnh vực nào ông cũng đã thể hiện xuất sắc và toàn diện. 

"Dưới ánh sáng của công cuộc Đổi mới, chúng ta nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang của Đỗ Đức Dục và thực sự chúng ta rất tự hào. Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,... đều đã lấy tên ông để đặt tên cho những con phố rất đẹp. Chúng ta đang có những nhìn nhận hết sức cần thiết về những cống hiến của Đỗ Đức Dục," Nhà báo Hồ Quang Lợi nói.

Bên lề Hội thảo Kỷ niệm 25 năm ngày mất Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Dục, một triển lãm quy mô nhỏ đã được tổ chức. Triển lãm giới thiệu những hình ảnh, bài báo của tác giả Đỗ Đức Dục và những tác phẩm văn học Pháp do ông là dịch giả dưới bút danh Trọng Đức.

Triển lãm những bài báo của Nhà báo Đỗ Đức Dục.

Theo Nhà báo Trần Thị Kim Thoa, Giám đốc Bảo tàng Báo chí Việt Nam, trong lịch sử báo chí Việt Nam, Đỗ Đức Dục được biết đến trong cả 3 phương diện, người viết báo, người thầy và người quản lý. Do vậy, việc trưng bày những hiện vật, tư liệu này cũng chính là mong muốn của Bảo tàng Báo chí Việt Nam để tưởng nhớ Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Dục.

Nguyễn Tuân

Video liên quan

Chủ Đề