Hay kể tên một số cơ quan trong cơ thể người và cho biết tim được cấu tạo từ những loại mô nào
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Trần Quốc Vĩnh - Bác sĩ Cấp cứu - Khoa Hồi sức - Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang. Bác sĩ Trần Quốc Vĩnh có hơn 6 năm làm việc (bắt đầu từ năm 2011) trong lĩnh vực Cấp cứu. Trái tim là một cơ quan giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc mang máu và oxy đi nuôi dưỡng cho toàn bộ cơ thể. Chu trình bơm máu của tim được ví như “một nhà máy điện” cung cấp 5-6 lít máu mỗi phút để duy trì sự sống cho con người. Có thể nói, tim là một trong những cơ quan quan trọng bậc nhất trong cơ thể con người. Nó được tạo thành từ một loại cơ đặc biệt, được gọi là cơ tim. Thông thường, tim người được chia thành 4 phần, bao gồm:
Tim là một phần vô cùng thiết yếu trong hệ thống tim mạch. Nó bơm oxy và máu giàu chất dinh dưỡng đi khắp cơ thể để duy trì sự sống. Tim có kích cỡ bằng nắm tay này đập liên tục (mở ra và đóng lại) khoảng 100.000 lần mỗi ngày, bơm 5-6 lít máu mỗi phút, hoặc khoảng 2.000 gallon mỗi ngày. Tim được đặt ở khoang giữa của trung thất trong lồng ngực. Nó nằm phía bên dưới lồng xương sườn, chếch về bên trái xương ức và ở giữa phổi. Nhìn từ bên ngoài, bạn có thể dễ dàng nhận thấy tim được hình thành từ cơ tim. Những cơ tim này co bóp mạnh mẽ và bơm máu đến các phần còn lại của cơ thể. Trên bề mặt của tim là các động mạch vành, có vai trò cung cấp máu giàu oxy cho cơ tim. Bên cạnh đó, các mạch máu chính đi vào tim bao gồm tĩnh mạch chủ trên, tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch phổi. Động mạch phổi khi đi ra khỏi tim sẽ mang theo máu có hàm lượng oxy thấp đến phổi, trong khi đó, máu từ động mạch chủ thoát ra và mang theo máu giàu oxy đến các phần còn lại của cơ thể. Ở bên trong, tim được chia thành 4 khoang rỗng, hai bên ngăn cách bởi một vách ngăn. Ở mỗi nữa trái và phải của tim lại được chia thành hai buồng, bao gồm tâm nhĩ ở buồng trên cùng và tâm thất ở buồng dưới cùng. Hai buồng này hoạt động kết nối với nhau, co bóp và thư giãn để bơm máu đi nuôi dưỡng cơ thể. Khi đi ra khỏi mỗi buồng tim, máu sẽ phải đi qua van tim. Van tim thường có bốn loại, gồm van hai lá, van ba lá, van động mạch chủ và van Pulmonic. Trong đó, van 3 lá nằm giữa tâm nhĩ phải và tâm thất phải, van hai lá nằm giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái; các van động mạch phổi và van động mạch chủ nằm ở giữa tâm thất và các mạch máu chính. Các van tim hoạt động giống như chiếc van một chiều, đảm bảo cho máu luôn chảy đúng hướng. Mỗi van sẽ có một bộ nắp riêng biệt, hay còn gọi là nút hoặc lá mỏng. Đối với van hai lá thường có hai lá mỏng, những van khác sẽ có ba lá mỏng. Các lá mỏng được gắn vào một vòng mô cứng có tên là Annulus (có tác dụng duy trì hình dạng thích hợp của van tim). Van tim đảm bảo cho máu chạy đúng hướng Hệ thống điện tim đóng vai trò là nguồn năng lượng chính giúp tâm thất và tâm nhĩ hoạt động xen kẽ và thư giãn cùng nhau để quá trình bơm máu qua tim xảy ra theo đúng chu trình. Bên cạnh đó, nhịp tim sẽ được kích hoạt bởi các xung điện truyền xuống một con đường đặc biệt xuyên qua tim:
Khi ở trạng thái nghỉ ngơi, tim sẽ đập khoảng 50-99 lần/phút. Nếu bạn tập thể dục, bị sốt, sử dụng một số loại thuốc hoặc có các vấn đề về cảm xúc, tâm lý có thể khiến tim đập nhanh hơn bình thường (hơn 100 nhịp/phút). Khi tim đập, một lượng máu sẽ được bơm qua một hệ thống mạch máu, hay còn gọi là hệ tuần hoàn. Trong đó, các ống cơ và các mạch đàn hồi sẽ đảm nhiệm chức năng đưa máu đến khắp các bộ phận của cơ thể. Có thể thấy, máu đóng vai trò vô cùng thiết yếu trong hệ tuần hoàn. Nó không chỉ mang oxy tươi từ phổi và các chất dinh dưỡng cần thiết khác đến các mô của cơ thể mà đồng thời, nó còn thực hiện nhiệm vụ đưa các chất thải ra khỏi các mô, trong đó có carbon dioxide. Điều này giúp duy trì sự sống và tăng cường sức khỏe cho toàn bộ cơ thể. Cơ thể con người có ba mạch máu chính, bao gồm:
Tim có vai trò quan trọng trong hệ tuần hoàn Một hệ thống tuần hoàn sẽ được lặp đi lặp lại nhiều lần, giúp máu chảy liên tục đến tim, phổi và các bộ phận khác của cơ thể. Chu trình này diễn ra như sau: Bên phải tim
Bên trái tim
Khi máu đi qua van động mạch phổi, nó sẽ tiếp tục đi vào trong phổi. Quá trình này được gọi là tuần hoàn phổi. Máu xuất phát từ van động mạch phổi, sau đó đi đến động mạch phổi và các mao mạch nhỏ bên trong phổi. Tại đây, oxy đi từ các túi khí nhỏ gọi là các phế nang trong phổi và qua các thành của mao mạch vào máu. Trong khi đó, chất thải carbon dioxide được tạo ra qua quá trình trao đổi chất sẽ đi từ máu vào các túi khí và rời khỏi cơ thể khi bạn thở ra. Sau khi máu đã được thanh lọc và oxy hóa, nó sẽ quay trở lại tâm nhĩ trái thông qua các tĩnh mạch phổi. Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện đa khoa có chức năng thăm khám, điều trị, phòng ngừa nhiều căn bệnh. Với đội ngũ y bác sĩ đầu ngành, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại, dịch vụ khám, chữa bệnh quốc tế chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa sẽ đem lại sự hài lòng cho Quý khách hàng. Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn! Nguồn tham khảo: webmd.com
XEM THÊM:
Cơ thể người là toàn bộ cấu trúc của một con người, bao gồm một đầu, cổ, thân (chia thành 2 phần là ngực và bụng), hai tay và hai chân. Mỗi phần của cơ thể được cấu thành bởi hàng hoạt các loại tế bào.[1] Ở tuổi trưởng thành, cơ thể người có số lượng tế bào theo ước tính là 3,72 × 1013.[2] Con số được nêu ra như là dữ liệu không hoàn chỉnh dùng để sử dụng như khởi điểm của các tính toán sâu hơn. Con số này có được nhờ tính tổng số tế bào của toàn bộ các cơ quan trong cơ thể của tất cả các loại tế bào.[3] Tổ hợp cấu thành cơ thể người bao gồm một số các nguyên tố nhất định theo các tỉ lệ khác nhau. Cơ thể ngườiChi tiếtĐịnh danhLatinhcorpus humanumMeSHD018594TAA01.0.00.000FMA20394Thuật ngữ giải phẫu[Chỉnh sửa cơ sở dữ liệu Wikidata] Nghiên cứu về cơ thể người xoay quanh giải phẫu học và sinh lý học. Cơ thể con người có thể biểu hiện các bất thường cấu trúc không có ý nghĩa bệnh lý nhưng cần được nhận biết. Sinh lý học tập trung vào các hệ cơ quan, cơ quan cơ thể người và chức năng của chúng. Nhiều hệ cơ quan và cơ chế tương tác với nhau để duy trì cân bằng nội môi. Cơ thể người được bao bọc bởi một lớp da. Trên da có nhiều lông nhỏ, mọc không đều nhau. Trong da có mạch máu, đầu mút các dây thần kinh và tuyến mồ hôi. Da bảo vệ các cơ quan trong cơ thể tránh được những ảnh hưởng có hại của môi trường ngoài, góp phần giữ nhiệt độ cơ thể không đổi. Dưới da là lớp mỡ, dưới lớp mỡ là cơ và xương. Cơ tạo nên hình dạng ngoài cơ thể, xương làm thành cái khung bảo vệ cơ thể và các nội quan. Các phần cơ thểXem thêm thông tin: Giải phẫu người
Các phần cơ thể, hay còn gọi là các khoang cơ thể, là những khoảng không gian trong cơ thể chứa đựng và bảo vệ các cơ quan và hệ cơ quan, bao gồm:
Các hệ cơ quanBộ xương người nhìn từ đằng trước Hệ tiêu hóa ở người Các cơ quan khác nhau có cùng một chức năng tạo thành một hệ cơ quan. Trong cơ thể có nhiều hệ cơ quan, nhưng chủ yếu là: hệ vận động, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết, hệ thần kinh, hệ nội tiết và hệ sinh dục.
Sự phối hợp hoạt động của các hệ cơ quanCơ thể là một khối thống nhất. Sự hoạt động của các cơ quan trong một hệ cũng như sự hoạt động của các hệ cơ quan trong cơ thể đều luôn luôn thống nhất với nhau. Ví dụ: khi chạy, hệ vận động làm việc với cường độ lớn. Lúc đó, các hệ cơ quan khác cũng tăng cường hoạt động, tim đập nhanh và mạnh hơn, mạch máu dãn (hệ tuần hoàn), thở nhanh và sâu (hệ hô hấp), mồ hôi tiết nhiều (hệ bài tiết),... Điều đó chứng tỏ các hệ cơ quan trong cơ thể có sự phối hợp hoạt động. Các cơ quan trong cơ thể có một sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng, đảm bảo tính thống nhất. Sự thống nhất đó được thực hiện nhờ sự điều khiển của hệ thần kinh (cơ chế thần kinh) và nhờ dòng máu chảy trong hệ tuần hoàn mang theo các hooc-môn do các tuyến nội tiết tiết ra (cơ chế thể dịch). Tế bào cơ thể ngườiMột tế bào cơ thể người (động vật) điển hình gồm: (1) nhân con, (2) nhân, (3) ri-bô-xôm, (4) túi tiết, (5) lưới nội chất hạt, (6) bộ máy Gôn-gi, (7) khung xương tế bào, (8) lưới nội chất trơn, (9) ti thể, (10) không bào, (11) chất tế bào, (12) lizosome, (13) trung thể Bài chi tiết: Tế bào Cấu tạo và chức năng các bộ phận trong tế bàoTất cả các cơ quan ở người đều cấu tạo bằng tế bào. Cơ thể người có số lượng tế bào rất lớn khoảng 75 nghìn tỉ (75 × 10¹²). Có nhiều loại tế bào khác nhau về hình dạng, kích thước và chức năng. Có tế bào hình cầu (tế bào trứng), hình đĩa (hồng cầu), hình khối (tế bào biểu bì), hình nón, hình que (tế bào võng mạc), hình thoi (tế bào cơ), hình sao (tế bào thần kinh — nơ-ron), hình sợi (tóc, lông) hoặc giống các sinh vật khác (bạch cầu, tinh trùng),... Có tế bào dài, ngắn, có tế bào lớn, bé khác nhau và chức năng của các tế bào ở các cơ quan cũng khác nhau, ngay cả ở trong cùng một cơ quan cũng khác nhau. Tế bào lớn nhất là tế bào trứng, có đường kính khoảng 100 μm (0,1 mm), bằng 175.000 lần tinh trùng - tế bào nhỏ nhất; dài nhất là tế bào thần kinh (nơ-ron). Mặc dù khác nhau về nhiều mặt nhưng loại tế bào nào cũng có 3 phần cơ bản: màng sinh chất, chất tế bào và nhân.
Thành phần hóa học của tế bàoTế bào gồm một hỗn hợp phức tạp gồm nhiều chất hữu cơ và các chất vô cơ. Các chất hữu cơ chính là prô-tê-in, glu-xit, lipid.
Ngoài các chất hữu cơ nói trên, trong tế bào còn có các chất vô cơ là muối khoáng. Hoạt động sống của tế bàoHoạt động sống của tế bào biểu hiện ở quá trình đồng hóa và dị hóa, sinh sản và cảm ứng, sinh trưởng và phát triển.
Trong quá trình sống nhiều tế bào chết đi và được thay thế bằng các tế bào mới. Mô cơ thể ngườiBài chi tiết: Mô Trong quá trình phát triển phôi, các phôi bào có sự phân hóa để tạo thành các cơ quan khác nhau thực hiện những chức năng khác nhau nên tế bào có cấu trúc và hình dạng khác nhau. Một tập hợp các tế bào chuyên hóa, có cấu tạo giống nhau, đảm nhận chức năng nhất định gọi là mô. Ở một số loại mô còn có các yếu tố không có cấu trúc tế bào như huyết tương trong máu; calci, phôt-pho và cốt giao có trong xương. Trong cơ thể thực vật và động vật có rất nhiều loại mô: mô nâng đỡ, mô mềm, mô phân sinh,... nhưng ở người chỉ có bốn loại mô: mô biểu bì, mô liên kết, mô cơ và mô thần kinh. Mô biểu bì và mô liên kếtMô biểu bì và mô liên kết là hai loại mô đặc biệt xuất hiện nhiều trong cơ thể người, hình dạng, cấu tạo, tính chất, chức năng trái ngược nhau.
Mô cơ và mô thần kinhMô cơ hoàn toàn chịu sự quản lý của hệ thần kinh, mà hệ thần kinh lại cấu tạo từ mô thần kinh. Hai loại mô này có liên quan mật thiết với nhau, đó là mối quan hệ chỉ đạo và thi hành.
Một nơ-ron và cấu tạo của nó: sợi nhánh (dendrite), thân nơ-ron (soma), sợi trục (axon), bao mi-ê-lin (myelin sheath), eo răng-vi-ê (node of ranvier), xi-nap (synapse) Nơ-ron thần kinh gồm có một thân và các sợi. Thân thường hình sao, đôi khi có hình chóp hoặc bầu dục. Sợi có hai loại: sợi ngắn mọc quanh thân và phân nhiều nhánh như cành cây gọi là sợi nhánh; sợi dài mảnh, thường có các vỏ làm bằng mi-ê-lin gọi là bao mi-ê-lin bọc quanh suốt chiều dài gọi là sợi trục. Giữa các bao mi-ê-lin có các khoảng cách gọi là eo răng-vi-ê. Đầu tận cùng tua dài phân thành nhiều nhánh nhỏ để phân bố vào các cơ quan trong cơ thể hay để tiếp xúc với sợi nhánh của các nơ-ron khác, mút các nhánh nhỏ đó gọi là cúc xi-náp. Thân nơ-ron và các sợi nhánh tạo thành chất xám trong bộ não, tủy sống và các hạch thần kinh. Sợi trục nối giữa trung ương thần kinh với các cơ quan, chúng đi chung với nhau thành từng bó gọi là dây thần kinh. Nơ-ron có hai chức năng cơ bản: cảm ứng và dẫn truyền xung thần kinh.
Có ba loại nơ-ron:
Phản xạ, cung phản xạ và vòng phản xạ
Cơ thể người cũng như mọi động vật là một khối thống nhất, bao gồm rất nhiều cơ quan, hệ cơ quan khác nhau. Mỗi cơ quan đảm nhận một nhiệm vụ riêng, nhưng tất cả đều được cấu tạo bằng các tế bào, nên tế bào được coi là đơn vị cấu trúc và chức năng của cơ thể sống. Các tế bào tồn tại, luôn luôn đổi mới thành phần, lớn lên và phân chia là do thường xuyên được cung cấp các chất dinh dưỡng dưới dạng các hợp chất đơn giản, nhờ đó các tế bào có thể tổng hợp nên những chất phức tạp cho từng cơ quan và cơ thể (quá trình đồng hóa) với sự tham gia của các hệ en-zim có trong tế bào. Chính những hợp chất đơn giản này lại là kết quả của quá trình biến đổi những hợp chất phức tạp có trong thành phần thức ăn lấy ở môi trường ngoài nhờ các cơ quan tiêu hóa. Trong quá trình hoạt động của các tế bào (co rút của tế bào cơ, tiết của tế bào tuyến, truyền hưng phấn của tế bào thần kinh, hoạt động đổi mới thành phần của tế bào,...) đòi hỏi phải tiêu dùng năng lượng. Nguồn năng lượng này chính là do quá trình oxy hóa các hợp chất tích năng lượng có trong thành phần của tế bào cung cấp (quá trình dị hóa), nhờ oxy của không khí bên ngoài được cơ quan hô hấp tiếp nhận theo dòng máu và thông qua nước mô tới tận các tế bào. Kết quả của quá trình dị hóa, một mặt tạo ra năng lượng, nhưng mặt khác cũng tạo ra các sản phẩm phân hủy, không cần thiết cho cơ thể, thậm chí còn có hại. Cuối cùng các chất này sẽ được thải ra ngoài qua các cơ quan bài tiết (thận, phổi, các tuyến mồ hôi,...). Sự vận chuyển các chất dinh dưỡng do cơ quan tiêu hóa cung cấp cùng oxy từ cơ quan hô hấp tới các tế bào đảm bảo cho quá trình đồng hóa và dị hóa ở tế bào, đồng thời chuyển các sản phẩm phân hủy từ tế bào đến các cơ quan bài tiết theo dòng máu là nhờ các cơ quan tuần hoàn. Như vậy, hoạt động của các cơ quan trong cơ thể không biệt lập mà phối hợp, ăn khớp với nhau một cách nhịp nhàng để thực hiện một quá trình sinh lý cơ bản, đó là quá trình trao đổi chất ở phạm vi tế bào, giữa tế bào với môi trường trong cơ thể (máu, nước mô và bạch huyết) để đảm bảo cho quá trình đồng hóa và dị hóa (quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng) ở trong tế bào có thể được thực hiện một cách liên tục. Các quá trình trên thực hiện được lại nhờ chính sự trao đổi chất với môi trường ngoài thông qua các cơ quan tiêu hóa, hô hấp, bài tiết và nhờ cơ quan tuần hoàn làm môi giới trung gian. Sự thay đổi hoạt động sống của cơ thể liên quan đến sự tăng giảm nhu cầu vật chất và năng lượng của các tế bào, từ đó sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của các cơ quan của cơ thể. Điều khiển, điều hòa và phối hợp hoạt động của các cơ quan trong đời sống của cơ thể cho phù hợp với sự thay đổi hoạt động từng lúc, ở từng nơi, phù hợp với nhu cầu trao đổi chất của cơ thể là do hệ thần kinh đảm nhiệm, thực hiện bằng cơ chế phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện (ảnh hưởng thần kinh) và có sự tham gia, hỗ trợ của các tuyến nội tiết (ảnh hưởng thể dịch) trong sự điều hòa hoạt động của các cơ quan, đảm bảo cho cơ thể là một khối thống nhất toàn vẹn. Ngoài ra, còn có các cơ quan sinh sản thực hiện chức năng duy trì nòi giống, đảm bảo cho sự tồn tại của loài thông qua quá trình thụ tinh, thụ thai, mang thai và sinh con, nuôi dưỡng con (bằng sữa).
Bản mẫu:Sinh lý học Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Cơ_thể_người&oldid=68135287” |