Họ thạch là dân tộc gì năm 2024

(VTC News) – Đã có lời giải cho những tranh luận quanh câu hỏi “Thạch Sanh quê ở Cao Bằng hay Campuchia”.

Họ thạch là dân tộc gì năm 2024

Trước những tranh luận quanh việc Thạch Sanh quê ở đâu, Cao Bằng hay Campuchia, GS Nguyễn Xuân Kính, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện KHXH Việt Nam cho biết:

Trong cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của tác giả Nguyễn Đổng Chi có truyện Thạch Sanh, là truyện số 67, bắt đầu bằng: “Ngày xưa ở quận Cao Bình có vợ chồng bác tiều phu Thạch Nghĩa tuổi đã cao mà không có con.Vợ chồng ngày đêm lo buồn, càng ra sức làm việc nghĩa, như khơi cống, đào mương, đắp đường, vét giếng, cùng lo nấu nước giúp cho người qua đường uống, để mong trời trông lại mà cho một mụn con.Quả nhiên, về sau Thạch Bà thụ thai, nhưng ba năm chưa đẻ. Giữa lúc đó, Thạch Ông mất, Thạch Bà sinh hạ một đứa con trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Thạch Sanh..."

Theo Nguyễn Đổng Chi thì truyện Thạch Sanh là của người Việt (người Kinh).

Sau đó, phần khảo dị (so sánh), ông viết, đồng bào Tày cũng kể truyện Thạch Sanh như của người Kinh, đặc biệt ở huyện Hòa An, Cao Bằng, dân địa phương coi truyện Thạch Sanh vốn gốc là của mình.

Không những họ căn cứ vào câu “ngày xưa ở quận Cao Bình”, mà còn căn cứ vào cái hang tương truyền là nơi Thạch Sanh chém Chằn tinh, vào những đền thờ Thạch Sanh ở một số làng xã, và một số phong tục tín ngưỡng liên quan đến tình tiết của cốt truyện.

Họ thạch là dân tộc gì năm 2024

Nhưng Nguyễn Đổng Chi cũng nói rằng, truyện của ta (tức người Việt) có nhiều nét tương đồng với truyện Thạch Sanh chém chằn trong các vở Dù kê (kịch hát truyền thống - món ăn tinh thần của người Khmer Nam Bộ) của đồng bào Khmer, nên một số người cho rằng nguồn gốc truyện Thạch Sanh của ta là từ truyện Thạch Sanh chém chằn của người Khmer.

Nghĩa là tác giả Nguyễn Đổng Chi cho rằng truyện Thạch Sanh là của người Việt, người Cao Bằng và cả người Khmer.

Nhưng cũng có ý kiến cho rằng truyện Thạch Sanh của người Việt có nguồn gốc từ truyện của người Khmer. Người đầu tiên nói về vấn đề này là của ông Võ Xuân Phố, trong bài là Góp ý kiến về nguồn gốc truyện Thạch Sanh, ở tập san nghiên cứu Văn sử địa số 19, năm 1956.

Theo tôi, việc nhiều ý kiến cho rằng truyện Thạch Sanh có nguồn gốc từ người Khmer, hay người Campuchia, bởi họ cho rằng chỉ ở khu vực đó mới có họ Thạch. Nhưng theo quan điểm của cá nhân tôi, không chỉ người Khmer, mà người Hán cũng có họ Thạch, chính trong tác phẩm Thủy Hử có nhân vật Thạch Dũng. Và có lẽ người Tày đã chịu ảnh hưởng của người Hán khi dùng họ Thạch cho nhân vật Thạch Sanh.

Sau này, trên tạp chí văn học số 6, tháng 11 và tháng 12 năm 1972, một lần nữa vấn đề này lại được đề cập đến, khi GS-TS Phan Đăng Nhật có bài Tìm hiểu Thạch Sanh ở Cao Bình, Hòa An, Cao Bằng.

Bài này từ trang 1 tới trang 11, GS-TS khoa học Phan Đăng Nhật đều tìm hiểu về hình tượng nhân vật Thạch Sanh ở Cao Bằng. Nói thêm rằng Phan Đăng Nhật là người từng có một thời kỳ dài làm Viện trưởng viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian, người đã được giải thưởng nhà nước về văn học dân gian.

Nên theo ý kiến của cá nhân tôi, cả người Việt, người Tày (Cao Bằng) và người Khmer (Kiên Giang) đều có hình tượng nhân vật Thạch Sanh là hợp lý.

Thạch Sanh là truyện cổ tích nổi tiếng, gắn bó với nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Cho đến bây giờ, hình ảnh về chàng dũng sĩ Thạch Sanh vẫn được nhắc đến như một ví dụ điển hình về lòng dũng cảm và trượng nghĩa.

Mấy ngày gần đây, dư luận dấy lên tranh cãi quanh nguồn gốc của Thạch Sanh khi câu hỏi được cho là đề thi vào một trường đại học có nội dung “Thạch sanh quê ở đâu?”.Có rất nhiều ý kiến cho rằng Thạch Sanh quê ở Cao Bằng, nhưng cũng một luồng ý kiến khác cho rằng truyện Thạch Sanh bắt nguồn từ Campuchia, bởi họ Thạch chỉ có ở Campuchia.

Từ trước tới nay đã có không ít các vị túc nho, các nhà nghiên cứu khi sưu tầm, giới thiệu câu đối trên các sách, báo trong nước đã từng đề cập tới nhiều khía cạnh đặc sắc, tân kỳ của câu đối Việt Nam như Lãng Nhân, Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Tạ Phong Châu, Hoa Bằng, Tảo Trang... Phải công nhận rằng nhờ những công trình, những bài viết của các vị trên mà kiến văn của chúng ta được nâng lên nhiều; Chúng ta không chỉ biết thời điểm xuất xứ của câu đối Việt Nam mà còn biết phương pháp làm câu đối theo lối cổ điển của tiền nhân, biết phân loại câu đối thờ, câu đối tức cảnh, câu đối về nghề nghiệp, câu đối về tính cách tự tình, câu đối chơi chữ.. làm khi “trà dư tửu hậu”, khi mừng nhau được “thăng quan tiến chức”, khi lên lão bảy, tám mươi..., khi “hai năm mươi”, khi bị giam trong tù ngục v.v.. thật là đa dạng. Ở đây, tôi không có tham vọng đi sâu về những khía cạnh nêu trên, mà chỉ muốn bước đầu đề cập tới loại Câu đối thờ gia tiên (chứ không phải câu đối thờ nói chung ở đến miếu đình chùa lăng tẩm...).

Tôi nhớ trên Tạp chí Hán Nôm số 4 (17) năm 1993 ông Tảo Trang trong bài Câu đối Tết, câu đối Xuân trước Cách mạng tháng Tám có điểm qua về loại câu đối thờ (nói chung) như sau:... “Câu đối làm sáng đẹp khu trung tâm trang trọng nhất của căn nhà, nhưng chủ yếu là tỏ lòng biết ơn các bậc tiên tổ, và bầy tỏ ước nguyện giữ vững nếp sống tốt đẹp của dòng họ, bồi đắp đức tốt để tạo phúc lâu dài” (HL nhấn mạnh). Điều đó hoàn toàn đúng, rất đúng, nhưng tôi e rằng chưa đủ, mà còn phải nói thêm một chi tiết khác nữa: còn là bức thông điệp của dòng họ. Sở dĩ tôi dám mạnh dạn nói thêm điều đó vì trong thực tế hơn thập kỷ của thế kỷ này tôi và một số nghiên cứu viên, PTS của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có làm công trình Thư mục Gia phả, chúng tôi đã gặp khá nhiều câu đối thờ gia tiên được sao chép lại cùng với Sắc vua ban, văn tế... trong gia phả của các dòng họ. Ngoài ra trong nhiều chuyến đi sưu tầm tại các làng xã của nhiều huyện tỉnh... chúng tôi cũng đã ghi chép và in rập được thác bản văn khắc trên bia đá, biển gỗ và trên tường cửa của một số nhà thờ họ.

Dưới đây, tôi xin viẹn dẫn một số câu đối thờ gia tiên để làm minh chứng cụ thể:

- Tại Từ đường họ Thạch ở xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội có 4 câu đối gỗ sơn đen thếp vàng, chữ chạm khắc rất đẹp (số câu đối mới làm của bà con trong họ cung tiến, không kể) tôi chú ý 2 câu. Câu 1:

Lan Khê chi tỏa, mạch văn dài

Thiên Thủy dòng phân, nguồn phúc rộng

Ở câu này có 2 địa danh khiến ta phải chú ý, đó là Lan Khê tên làng thuộc huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương xưa (nay thuộc huyện Nam Thanh, Hải Dương). Theo Gia phả họ Mạc thì cháu của Mạc Đĩnh Chi (đời Trần) là Mạc Tung (con của Mạc Thúy) đã di cư tránh nạn về đây. Một địa danh khác là Thiên Thủy tức sông Thiên Đức (tên Nôm là sông Đuống) nằm kề xã Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp huyện Gia Lâm Hà Nội) nơi cư trú của họ Trạch. Vậy họ Trạch ở đất này có liên quan gì với họ Mạc ở xã Nam Tân, huyện Nam Thanh không? Từ câu đối đó gợi ý cho ta tìm đọc 2 cuốn gia phả và cũng từ đó mà ta biết họ Thạch ở Ninh Hiệp vốn gốc họ Mạc ở Hải Dương ra đi và đổi thành họ mới. Nhưng ra đi từ bao giờ và lí do thì không thể nói rõ được (có lí do nhất định). Song câu đối thứ 2 lại hé mở cho ta hay thời điểm về Ninh Hiệp và từ Tổ nào. Câu đối đó như sau:

Danh gia nối đời, tự thuở nhà Lê trở lại

Ban đầu gây dựng, vốn từ Thịnh Đức tới nay

Có người cho rằng Thịnh Đức là niên hiệu của vua Lê Thần Tông từ năm 1653 đến 1654 trên dưới 60 năm nhà Mạc thất thủ Thăng Long phải chạy lên Cao Bằng và nhiều nơi khác? Gia phả họ Thạch thì ghi như sau:

“... Riêng ta đổi thành họ Thạch và làm nhà sư trông coi ngôi chùa lớn. Các tăng ni đặt hiệu cho ta là Thịnh Đức thiền sư. Sau không ở chùa nữa. Sinh hạ được 6 con trai lập nên 6 chi... “Vậy là đã rõ Tổ đầu tiên của họ Thạch là Thịnh Đức vốn từ họ Mạc đổi sang và đến từ thời Lê Trung hưng. Từ những năm 50-60 của thế kỷ 20 này các vụ Thạch Văn Vĩnh, Thạch Văn Quế... đã dày công tìm về cội nguồn Lan Khê và Lũng Động để “vấn Tổ tầm Tông”; từ đó mà con cháu các họ này đã có mối liên hệ mật thiết với nhau hàng năm đi lại giỗ Tổ.

Một dẫn chứng khác về họ Vũ ở tỉnh Thái Bình. Họ Vũ này rất lớn, phân tán ở nhiều huyện trong tỉnh, mỗi chi họ có thêm chữ đệm khác nhau: Vũ Tiến..., Vũ Đình..., Vũ Thế..., Vũ Như..., Vũ Trọng... v.v.. Tại Từ đường họ Vũ Tiến ở Trực Nội, huyện Đông Hưng khi tu sửa nhà thờ đã phát hiện một đôi câu đói thờ đắp, bị nhiều lớp vôi phủ kín, cạo đi thấy hiện đủ chữ như sau:

Phiệt duyệt gia thanh, Trần triều Mạc Trạng nguyên chi hậu.

Nguyên lưu thế phả, Đông Hải Thanh Hà quận dĩ lai.

Tạm dịch:

Dòng dõi gia phong, Trạng Mạc triều Trần sau nối tiếp.

Ngọn nguồn thế phả, Thanh Hà Đông Hải lại từ đây.

Câu đối đó quả là bức thông điệp ngắn gọn súc tích gửi cho con cháu, nhờ đó họ Vũ càng thấy khớp với lời truyền lại của Tổ tiên khi “nhắm mắt xuôi tay”. Họ Vũ đã tập họp lại được 3 cuốn phả viết chữ Hán vào các năm Gia Long 2 (1803), Minh Mệnh 16 (1836), Bảo Đại 8 (1933) đem dịch ra, viết Diễn ca gia phả gặp gỡ các chi và cùng tìm về gốc tổ, quê Trạng nguyên triều Trần là Mạc Đĩnh Chi ở Lũng Động, Nam Thanh, Hải Hưng (xưa là Thanh Hà, Đông Hải).

Xin xem một đoạn trích Diễn ca gia phả họ Vũ thay cho điều cần giải thích việc chuyển đổi họ trong lịch sử:

... Bởi nhà Lê chiếm giữ Cao Bằng

Trả thù báo oán lẽ làng

“Được vua, thua giặc” đâu rằng chuyện xưa

Dòng họ Mạc diệt trừ gần hết

Cả trẻ già tru diệt còn ai

Biết bao máu chảy đầu rơi!

Pháp luật phong kiến ngập trời thảm thương.

Còn bốn ông tìm đường lánh nạn

Mỗi ông đều phiêu bạt phương xa

Lênh đênh bốn bể không nhà

Trông vời quê cũ lòng đà xót thương!

Ông con cả chạy sang Cao Lạng

Ông thứ ba lần bước tỉnh Nam

Nương mình Thượng Phúc, Phú Nhai

Sinh cơ lập nghiệp nối đời lửa hương.

Ông thứ tư về làng Trực Nội.

Cũng tỉnh nhà gần gũi đâu xa

Ông thứ hai tổ họ ta

Là ông Thông Đạo chạy ra Tứ Kỳ

Họ Mạc ta đôi đi họ Vũ...

Ngày nay nếu ai về huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà đến 3 xã Kiên Lao, Ngọc Tĩnh, Hoành Tứ (xưa kia thuộc cửa Lạt Môn, phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam) sẽ thấy 3 nhà thờ lớn của 3 chi họ Phạm. Nơi đây còn lưu giữ được thanh long đao của Mạc Thái Tổ dài 2,55m, nặng 25,6 kg. Phát hiện năm 1972 công bố trên báo Quân đội Nhân dân số ngày 31-5-1986. Ở nhà thờ có câu đối cổ nói về gốc gác xưa của họ này vốn là họ Mạc:

Câu 1:

Đức chỉ thiên tài lan quê mậu

Mạc triều hệ xuất đế vương cơ.

Câu thứ 2 rút trong Gia phả:

Mạc Đăng Thận hố tích Kiên Lao

Phạm Công Úc bốc cư Ngọc Tỉnh

Kiên Lao là địa danh như đã dẫn giải ở trên. Còn Mạc Đăng Thận là ai vậy? Đó là một vị thân vương nhà Mạc, người đã hóa trang lăng tẩm, đem bảo vật vầ thanh đại đao của Mạc Thái Tổ cùng thuộc hạ thân tính và 500 quân chạy ra trấn giữ Đồ Sơn. Về sau tình thế không chống giữ được mới giong buồm thuyền ra khơi về cửa biển Ba Lạt, Thiên Trường rồi đổi là Phạm Đình Trú. Ông sinh ra Phạm Công An, Phạm Công Úc, Phạm Đình Tú...

Câu đối trên là tín hiệu mách bảo ta cần tìm đọc kỹ gia phả mới hiểu rõ, hiểu đúng về dòng họ đó thì dịch câu đối mới chuẩn xác.

Những câu đối thờ gia tiên mang đậm màu sắc thông điệp cho con cháu trong dòng họ biết rõ lai lịch gốc tích như vậy quả thật là nhiều. Tôi xin đưa thêm câu đối ở Từ đường họ Nguyễn (Mạc) tại Đại Đồng thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An:

Phúc khánh Đại Đồng thực lại nhất thành Chân Cảm

Gia đình Yên Lạc toàn bằng tiên tổ Chí Linh.

Các từ Đại Đồng, Chân Cảm, Yên Lạc, Chí Linh ở 2 vế câu đối trên đã khiến các nhà Hán Nôm từng dịch đúng mà vẫn cứ là sai, bởi không ngờ đó là các tên đất. Đại Đồng thuộc huyện Thanh Chương Nghệ An, Chân Cảm tức Kẻ Gám thuộc huyện Yên Thành chứ không phải cái nghĩa yên ổn vui vẻ, còn Chí Linh càng không phải là rất thiêng mà là tên huyện thuộc tỉnh Hải Dương cũ. Nơi gốc tổ của họ Mạc, Vương triều Mạc khi đã chấm hết sự nghiệp đế vương, họ Lê lại phục hưng, con cháu nhà Mạc muốn tránh họa tru diệt của chúa Trịnh và muốn thực sự yên ổn làm ăn (chưa nói đến cơ hội khôi phục lại nghiệp đế) thế tất phải thay tên đổi họ mới tồn tại phát triển được... Mạc Mậu Giang là con thứ ba của vua Mạc Mậu Hợp khi tộc nạn xảy ra, cụ lánh đi ẩn ở huyện Cẩm Thủy tỉnh Thanh Hóa đổi tên là Phúc Thanh. Ở đây không yên, cụ lại đem vợ con vào xã Hưng Lập (nay là Quỳnh Lập) huyện Quỳnh Lưu rồi sau lại chuyển đến Tiên Nông huyện Yên Thành rồi đến Diễn Kim, huyện Diễn Châu.. Tương truyền câu đối trên là của Mạc Mậu Giang, một trong 3 vị thủy tổ họ Mạc ở Nghệ An mà ngày nay là các họ Phạm, Phan (có Phan Đăng Lưu), Hoàng (có Hoàng Hanh), họ Thái, họ Nguyễn...

Để kết thúc ý kiến của mình về Câu đối thờ gia tiên - bức thông điệp của dòng họ: Tôi cũng xin đưa ra một câu đối khác chạm gỗ treo ở Từ đường họ Lều ở Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Tương truyền là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, đại thần nhà Mạc danh nhân văn hóa lớn của dân tộc mà tiếng tăm ngài ai cũng biết.

Tứ bách niên tiền, chung phục thủy

Thập tam thế hậu, dị nhi đồng.

Nghĩa là:

Bốn trăm năm trước, cuối cùng lại như ban đầu.

Mười ba đời sau, khác nhau mà vẫn cùng một

Phải chăng đó là sự tiên đoán về dòng họ Mạc trong lịch sử? Con cháu họ Mạc càng ngẫm càng thấy đúng. Nếu kể từ năm 1592 đến nay thì đúng là hơn 400 năm phải li tán, mai danh ẩn tích và bị nhìn nhận đối xử không công bằng lịch sử... nhưng nay thời thế thay đổi, dưới ánh áng khoa học của thời đại và ánh sáng soi đường của Đảng, Nhà nước, vương triều Mạc được đánh giá đúng đắn khách quan công bằng hơn, từ đó họ Mạc càng phấn khởi tự hào với những gì đã đóng góp cho lịch sử dân tộc. Theo Phả hệ cũng vào đời thứ 13 tuy mang nhiều họ khác nhau ở nhiều miền của đất nước nhưng đã gặp lại nhau, nhận họ và thành lập nhiều Ban liên lạc họ Mạc.

Họ thách đứng thứ mấy Việt Nam?

Trong danh sách Bách gia tính họ này đứng thứ 188, về mức độ phổ biến họ này xếp thứ 71 ở Việt Nam theo thống kê năm 2006,chủ yếu tập trung tại vùng nông thôn miền Tây Nam bộ như các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh.

Họ thách người gì?

Điểm nổi bật của việc đặt họ, tên của đồng bào Khmer là khi đọc họ, tên là chúng ta sẽ phân biệt được đó là người Khmer ở tỉnh nào. Chẳng hạn như: họ Thạch - Trà Vinh, họ Sơn - Sóc Trăng, họ Danh - Kiên Giang, họ Chau và Néang là họ của người Khmer An Giang.

Họ là là dân tộc gì ở Việt Nam?

Lò, còn gọi là Lô hay La, là một họ của người Việt Nam. Họ Lò thường được sử dụng bởi các cộng đồng dân tộc thiểu số như Thái, Xinh Mun, Kháng, Mảng, Mường,... Cộng đồng các dân tộc: Thái, Xinh Mun, Kháng, Mảng, Mường,...

Họ điểm là dân tộc gì?

Diêm là một họ của người Trung Quốc (chữ Hán: 阎, Bính âm: Yan). Trong danh sách Bách gia tính họ này đứng thứ 247, về mức độ phổ biến họ Diêm xếp thứ 75 ở Trung Quốc theo thống kê năm 2006.