Ngân hàng trung ương mua trái phiếu chính phủ là nội dung của chính sách gì

Trái phiếu chính phủ - kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho ngân sách nhà nước

[ĐCSVN] – Ngày 24/9/2009, Thị trường trái phiếu Chính phủ [TPCP] chính thức khai trương và đi vào hoạt động tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội [HNX]. Sau 12 năm hoạt động thị trường TPCP được đánh giá là làm tốt vai trò trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho ngân sách nhà nước [NSNN], gắn công tác phát hành TPCP với tái cơ cấu nợ Chính phủ thông qua việc tập trung phát hành các kỳ hạn dài và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư.

Ảnh minh họa [Ảnh: M.P]

Những con số "ấn tượng"

Sau 12 năm hoạt động và phát triển, thị trường cơ bản đã đáp ứng được các mục tiêu của lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định 1191/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra cho thị trường trái phiếu Việt Nam, đó là phát triển thị trường trái phiếu ổn định, mở rộng cơ sở nhà đầu tư, tăng quy mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm, đảm bảo thị trường hoạt động công khai, minh bạch và hiệu quả, từng bước tiếp cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Thị trường TPCP đã trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho NSNN, gắn công tác phát hành TPCP với tái cơ cấu nợ Chính phủ thông qua việc tập trung phát hành các kỳ hạn dài và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư. Về phương thức phát hành, Kho bạc Nhà nước [KBNN] tập trung phát hành theo phương thức đấu thầu để tăng tính cạnh tranh và công khai minh bạch trong tổ chức phát hành trái phiếu và sắp tới đây, phương thức đấu thầu đa giá sẽ được triển khai chính thức nhằm tạo thêm tính linh hoạt trong việc xác định kết quả đấu thầu.

Đặc biệt công tác phát hành TPCP đã khẳng định được vai trò là công cụ tái cơ cấu nợ công, giúp nợ công giảm tỷ trọng vay nước ngoài từ 73,6% năm 2010 xuống mức 63,4% năm 2015 và 34,8% năm 2021. Lãi suất bình quân huy động giảm từ khoảng 10% năm 2009 xuống khoảng 2% năm 2021, kỳ hạn phát hành bình quân kéo dài từ 2-3 năm năm 2009 lên 12,2 năm năm 2021, thông qua đó góp phần tái cơ cấu nợ công theo hướng an toàn, bền vững và tái cơ cấu giảm các đỉnh nợ rơi vào một số năm trở nên đồng đều hơn.

Đáng chú ý, trên thị trường sơ cấp, trong vòng 12 năm, hơn 2,47 triệu tỷ đồng vốn đã được huy động cho Ngân sách nhà nước để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Con số này tương ứng với mức huy động bình quân năm đạt hơn 206 nghìn tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 10% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội năm 2020, và 28,3% tổng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước năm 2020. Để huy động được lượng vốn hơn 2,47 triệu tỷ đồng này, đã có hơn 2.600 phiên đấu thầu được tổ chức tại HNX với tỷ lệ huy động thành công bình quân đạt 60-70% trên tổng khối lượng gọi thầu.

Qua 12 năm, lãi suất huy động vốn trên thị trường TPCP đã giảm đáng kể, giúp tiết kiệm cho NSNN hàng nghìn tỷ đồng tiền trả lãi và hỗ trợ tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô. Lãi suất huy động vốn trung bình đã giảm từ 4 đến 6%/năm trên tất cả các kỳ hạn. Trong đó, đặc biệt giảm mạnh tại kỳ hạn 5 năm [giảm từ 10,49%/năm trong 2009 xuống còn 1%/năm trong 2021; kỳ hạn 10 năm [giảm từ mức 9,7%/năm trong 2009 xuống còn 2,06%/năm trong 2021].

Kỳ hạn phát hành của TPCP ngày càng tăng. Kỳ hạn phát hành bình quân đã tăng từ 2-3 năm năm 2009 lên 13,8 năm trong năm 2020.

Trên thị trường thứ cấp, giao dịch TPCP không ngừng tăng về quy mô và độ sâu, tiệm cận với các nước có thị trường TPCP phát triển trong khu vực và trên thế giới. Tổng dư nợ thị trường TPCP tại HNX tính đến hết tháng 8/2021 đạt 1,4 triệu tỷ đồng, gấp 8,7 lần quy mô năm 2009. Thanh khoản trái phiếu năm 2021 đạt mức 10,8 nghìn tỷ đồng/phiên, gấp 29,7 lần so với năm 2009. Giá trị giao dịch Repos theo đó cũng tăng trưởng mạnh mẽ từ quy mô khiêm tốn với tỷ trọng 6,5% trên tổng giá trị giao dịch năm 2009 lên mức 33% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường năm 2021.

Tiếp tục phát triển quy mô và chất lượng

Hiện nay thị trường TPCP được đánh giá là đa dạng hóa sản phẩm và kỳ hạn phát hành. Theo đótrên thị trường sơ cấp, ngoài sản phẩm cơ bản là trái phiếu trả lãi định kỳ [standard/long/short coupon], còn có các sản phẩm trái phiếu không trả lãi định kỳ. Việc đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành từ 3 tháng đến 3 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm và 30 năm đã góp phần nâng cao khả năng huy động vốn cho NSNN, tái cơ cấu danh mục TPCP theo hướng bền vững, và hình thành đường cong lãi suất chuẩn trên thị trường trái phiếu.

Trên thị trường thứ cấp, ngoài hai sản phẩm cơ bản là Outright và Repos, trước xu thế phát triển mạnh của giao dịch Repos, vào cuối năm 2018, đã có thêm 2 sản phẩm Repos gồm Vay trái phiếu, Bán kết hợp mua lại được giới thiệu ra thị trường. Sản phẩm phái sinh hợp đồng tương lai [HĐTL] TPCP 5 năm bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2019 và mới đây là HĐTL TPCP 10 năm ra mắt vào tháng 6/2021 đã bổ sung thêm công cụ phòng vệ rủi ro cho nhà đầu tư. Tháng 7 năm 2021, sản phẩm mua lại có kỳ hạn TPCP từ nguồn NSNN tạm thời nhàn rỗi của Kho bạc Nhà nước đã được triển khai chính thức, tạo thêm một kênh mới, giúp các chủ sở hữu có thể bán lại TPCP cho KBNN, lần đầu tiên mở ra cơ chế cho phép KBNN trở thành nhà đầu tư có thể mua lại trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp do chính tổ chức này phát hành.

Trong thời gian tới, HNX cho biết sẽ bám sát các quan điểm phát triển của TTCK trong giai đoạn mới với định hướng phát triển cả về quy mô và chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh của các tổ chức tham gia thị trường, chú trọng đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến cũng như tiếp cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trên thị trường sơ cấp, HNX tập trung vào các mục tiêu.

Thứ nhất, tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu mới phù hợp với sự phát triển của thị trường và nhu cầu của NĐT như trái phiếu xanh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có gốc, lãi được giao dịch tách biệt [strip bond], trái phiếu gắn với chỉ số lạm phát...

Thứ hai, tăng quy mô các mã trái phiếu và công bố các mã trái phiếu chuẩn trên thị trường.

Thứ ba, đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành, tập trung phát hành trái phiếu có kỳ hạn dài trên 5 năm, đồng thời linh hoạt phát hành các kỳ hạn ngắn [tín phiếu, trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 1-3 năm] nhằm tạo đường cong lãi suất tham chiếu trên thị trường với đầy đủ các kỳ hạn.

Thứ tư, chủ động nghiệp vụ hoán đổi, mua lại để tái cơ cấu danh mục nợ trái phiếu Chính phủ nhằm kéo dài kỳ hạn còn lại và giảm đỉnh nợ, giãn áp lực trả nợ cho ngân sách nhà nước.

Trên thị trường giao dịch thứ cấp, HNX nghiên cứu tăng cường vai trò của nhà tạo lập thị trường trái phiếu Chính phủ trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp, đồng thời đẩy mạnh phát triển cơ sở nhà đầu tư dài hạn như quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ bảo hiểm liên kết, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, các định chế đầu tư chuyên nghiệp trên thế giới tham gia đầu tư vào TPCP Việt Nam nói chung, TPCP xanh nói riêng.

Bên cạnh việc tiếp tục phát triển thị trường TPCP, được Bộ Tài chính phân công quản lý thị trường trái phiếu doanh nghiệp [TPDN] riêng lẻ, trong thời gian tới HNX cho biết sẽ tập trung phát triển thị trường TPDN phát hành riêng lẻ cả về chính sách, về sản phẩm, về giám sát thị trường và đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhà đầu tư./.

M.P

Có nhiều ý kiến cho rằng nên cho phép Ngân hàng Nhà nước [NHNN] mua trái phiếu Chính phủ để một mặt giúp hỗ trợ ngân sách Nhà nước đáp ứng nhu cầu chi y tế, bảo trợ xã hội trong mùa dịch, mặt khác hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế, nhưng vẫn kiểm soát được lạm phát. Xoay quanh chủ đề này, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp đã có trao đổi với TS. Bùi Duy Tùng, Giảng viên Kinh tế Đại học RMIT.

Theo TS Bùi Duy Tùng, việc NHNN mua lại trái phiếu Chính phủ là một chính sách tiền tệ hợp lý trong thời điểm hiện tại [ảnh minh hoạ]

-Theoông,đề xuất này có hợp lý trong bối cảnh hiện nayhay không? Xin ông phân tích điểm lợi và bất lợi của phương án này.

TS. Bùi Duy Tùng:Trong đại dịch COVID-19, nhiều Ngân hàng Trung ương tại các quốc gia đang phát triển đã thực hiện việc mua lại trái phiếu Chính phủ với số lượng lớn để hỗ trợ nền kinh tế và xem đây là chính sách tiền tệ quan trọng trong giai đoạn này. Úc là quốc gia đầu tiên được ghi nhận đã thực hiện chính sách tiền tệ nói trên để kích thích nền kinh tế. Tháng 2/2020, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cũng đã phát hành một loại trái phiếu tương tự, có mục đích giảm thiểu thất nghiệp trong thời gian đại dịch.

Có thể thấy, cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 đã khiến nền kinh tế của Việt Nam gánh chịu một khoản chi phí khổng lồ cho công tác phòng chống dịch bệnh, xây dựng và nâng cấp hệ thống y tế, cũng như các khoản bảo trợ xã hội cho những đối tượng chịu ảnh hưởng từ đại dịch. Bên cạnh đó, nguồn thu của ngân sách cũng bị sụt giảm nặng nề do các biện pháp phong tỏa, giãn cách gây ra. Vì thế, việc NHNN mua lại trái phiếu Chính phủ là một chính sách tiền tệ hợp lý trong thời điểm hiện tại, nhằm tạo ra nguồn tài trợ nhu cầu phục hồi kinh tế sau đại dịch. Tuy nhiên, việc thực hiện cần phải xem xét một số điều kiện cụ thể.

Về lợi ích trực tiếp của việc mua này là mang lại nguồn tài trợ cho công tác phòng chống dịch bệnh; đảm bảo phúc lợi xã hội. Ngoài ra, chính sách này còn mang lại các lợi ích dài hạn và quan trọng hơn, đó là mang lại các điều kiện tài chính thuận lợi cho việc phục hồi kinh tế . Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các lợi ích này còn phụ thuộc vào khối lượng trái phiếu mà NHNN mua lại. Một số điều kiện thuận lợi có thể thấy như:

Thứnhất, phát đi tín hiệu tốt về lãi suất rằng, lãi suất cơ bản sẽ được giữ nguyên [ít nhất là không giảm] trong tương lai.

Thứhai, tăng thanh khoản trên thị trường trái phiếu, làm giảm phần bù rủi ro thanh khoản, từ đó làm tăng thanh khoản trên thị trường này.

Thứba, cân bằng lại danh mục đầu tư. Trên lý thuyết, việc NHNN mua lại trái phiếu chính phủ với số lượng lớn sẽ làm tăng giá trái phiếu. Từ đó, lợi nhuận của trái phiếu sẽ giảm. Các nhà đầu tư sẽ kỳ vọng được việc này nên họ sẽ chuyển hướng đầu tư sang các tài sản khác có lợi nhuận cao hơn như: trái phiếu doanh nghiệp, hoặc cổ phiếu. Điều này cũng làm tăng giá của các tài sản đó và doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi do huy động vốn qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu trở nên dễ dàng hơn.

Điểm bất lợi chủ yếu của chính sách này là áp lực lạm phát trong tương lai, tỷ giá tăng và áp lực nợ công. Tuy nhiên, áp lực lạm phát trong tương lai có thể được giảm thiểu thông qua các chính sách tiền tệ của NHNN. Về tỷ giá, Việt Nam hiện đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát, nên NHNN có thể can thiệp vào thị trường này để ổn định tỷ giá.

>> Còn dư địa cho chương trình kích thích phục hồi kinh tế

- Nếu biện pháp này khả thi, vậy nên triển khai các bước như thế nào để đạt hiệu quả, dòng tiền đi đúng hướng và nền kinh tế có thể hấp thụ được?

TS. Bùi Duy Tùng:Trên thế giới, các loại trái phiếu phục hồi kinh tế sau đại dịch được chia làm hai loại: Trái phiếu thông thường và Trái phiếu sử dụng có mục đích. Trong đó, loại thứ hai được phát hành theo một khung pháp lý nhất định. Ví dụ, số tiền thu được từ phát hành trái phiếu chỉ được thực hiện cho các mục đích liên quan đến giảm thiểu hậu quả do đại dịch COVID gây ra. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu phát hành loại trái phiếu sử dụng có mục đích nêu trên, để hạn chế việc dòng tiền từ trái phiếu chảy vào những lĩnh vực không thực sự cần thiết.

TS. Bùi Duy Tùng, Đại học RMIT

Ví dụ, nếu việc phòng chống dịch bệnh và giảm thiểu hậu quả do dịch bệnh gây ra là việc cấp thiết hiện nay, thì việc phát hành trái phiếu cần chứng minh được số tiền thu về sẽ được sử dụng cho các mục đích: Tài trợ các hoạt động phòng chống dịch bệnh; Hỗ trợ các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh bao gồm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ người có thu nhập thấp, hỗ trợ các ngành nghề hoặc các vùng bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh.

Như vậy, hiệu quả sẽ đạt được nếu có sự minh bạch trong các hoạt động được tài trợ, cũng như cách thức lựa chọn các đối tượng dễ bị tổn thương do dịch bệnh. Bên cạnh đó, Chính phủ cần cam kết báo cáo đầy đủ đánh giá tác động của việc sử dụng số tiền huy động được từ việc phát hành trái phiếu đến phục hồi nền kinh tế và khắc phục hậu quả mà dịch bệnh gây ra.

-Ngoài ra, Chính phủ nên có thêm biện pháp gì trong công tác hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, thưa ông? Nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp đang bị thiếu dòng tiền nghiêm trọng.

TS. Bùi Duy Tùng:Trong bối cảnh hiện nay, một số biện pháp hỗ trợ dòng tiền cho các doanh nghiệp cần tiếp tục triển khai như:

Một là, thực hiện các biện pháp khoanh nợ, hoãn nợ, cơ cấu lại nợ cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề bởi đại dịch khiến cho dòng tiền kiệt quệ.

Hai là, thực hiện các biện pháp hỗ trợ tín dụng bằng cách giảm lãi vay, nâng tỷ lệ cho vay trên tài sản bảo đảm đối với các doanh nghiệp khó khan, nhưng dòng tiền chưa suy kiệt.

Ba là, ban hành các gói bảo đảm tín dụng cho các doanh nghiệp đủ điều kiện. Nhà nước sẽ đứng ra bảo lãnh một phần khoản vay của các doanh nghiệp cần hỗ trợ, như các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu.

Bốn là, ban hành các gói tín dụng với lãi suất thấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc siêu nhỏ và thỏa mãn các điều kiện cụ thể. Ví dụ như các doanh nghiệp bị sụt giảm từ trên 15% doanh thu hay lợi nhuận do dịch bệnh và không có điều kiện tiếp cận các khoản vay ngân hàng.

Trân trọng cảm ơn ông!

Đề xuất NHNN mua Trái phiếu Chính phủ: Liệu có gói QE phiên bản Việt Nam?

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề