Ngữ văn lớp 6 on tập cuối học kì 2
Tài liệu ôn thi học kì II lớp 6 môn Ngữ Văn Show
Đề cương ôn tập học kì 2 môn Ngữ Văn lớp 6 sách mới năm học 2021-2022 mà Hoatieu.vn giới thiệu sau đây giúp các em học sinh tham khảo, chuẩn bị tốt cho kiểm tra định kì cuối học kì II môn Ngữ Văn sắp tới. Đề cương được biên soạn theo chương trình sách mới của 3 bộ sách: Cánh Diều, Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo để các em học sinh hệ thống lại kiến thức, vận dụng luyện giải các dạng bài tập thật nhuần nhuyễn. Mời các bạn tham khảo và tải về chi tiết dưới đây. Đề cương ôn tập học kì II môn Ngữ Văn lớp 6Phần 1: Ma trận kiểm tra học kì II I. Văn bản: 1. Các văn bản:
2. Yêu cầu:
II. Tiếng Việt 1. Nội dung:
2. Yêu cầu:
III. Tập làm văn
Phần 2: Kiến thức ôn tập I. VĂN BẢN
I. TIẾNG VIỆT 1. Từ mượn; Yếu tố Hán Việt: - Từ mượn là từ vay mượn của tiếng nước ngoài để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm... mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để biểu thị. Ví dụ: Tráng sĩ, hải sản, gia nhân, radio, axit... * Lí do mượn:
* Nguyên tắc mượn:
2. Lựa chọn cấu trúc câu và tác dụng của nó:
II. TẬP LÀM VĂN
Dàn ý chung: 1. Viết bài văn kể lại một trải nghiệm của bản thân. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện. Thân bài: Kể diễn biến câu chuyện.
Kết bài: Kết thúc câu chuyện và cảm xúc của bản thân. BẢNG KIỂM
................. Để xem đầy đủ nội dung Đề cương ôn tập học kì 2 môn Ngữ Văn lớp 6 sách mới 2022, mời các bạn tải file về. Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn. Đề cương ôn tập học kì 2 môn Ngữ văn lớp 6 Sách mới năm 2022Kết nối tri thức, Chân trời sáng tạo, Cánh Diều 829 165.939Tải về Bài viết đã được lưu Đề cương ôn tập học kì 2 môn Ngữ Văn lớp 6 trọn bộ 3 sách mới: Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo, Cánh Diều được VnDoc sưu tầm, chọn lọc. Đề cương ôn thi học kì 2 lớp 6 này bao gồm các dạng bài tập trọng tâm, các đề mẫu môn Ngữ văn dành cho các bạn học sinh lớp 6, giúp các bạn ôn tập lại lý thuyết và luyện tập các dạng bài khác nhau để chuẩn bị cho bài thi học kì 2 sắp diễn ra. Đồng thời đây là tài liệu hữu ích cho các thầy cô khi ra đề thi học kì 2 cho các em học sinh. Mời các thầy cô cùng các em học sinh tham khảo tải về bản đầy đủ. Đề cương ôn tập học kì 2 lớp 6 môn Ngữ Văn
Đề cương ôn tập học kì 2 lớp 6 môn Ngữ Văn Sách mớiI. PHẦN ĐỌC Bài 6. Chuyện kể về những người anh hùng 1. Thánh Gióng 2. Sơn Tinh, Thủy Tinh - Nhận biết được một số yếu tố của truyền thuyết như: cốt truyện, nhân vật, lời kể, yếu tố kì ảo; nhận biết được chủ đề của văn bản - Kể lại được một truyền thuyết. - Biết tự hào về lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc, có khát vọng cống hiến vì những giá trị cộng đồng. Bài 7. Thế giới cổ tích 1. Thạch Sanh 2. Cây khế - Nhận biết được một số yếu tố của truyện cổ tích như: cốt truyện, nhân vật, lời người kể chuyện và yếu tố kì ảo. - Nêu được ấn tượng chung về văn bản; nhận biết được các chi tiết tiêu biểu, đề tài, câu chuyện, nhân vật trong tính chỉnh thể của tác phẩm. - Tóm tắt được văn bản một cách ngắn gọn. - Biết vận dụng kiến thức về nghĩa của từ ngữ và biện pháp tu từ để đọc hiểu văn bản. - Biết sống vị tha, thương yêu con người, trung thực, khiêm tốn. Bài 8. Khác biệt và gần gũi 1. Xem người ta kìa! (Lạc Thanh) 2, Hai loại khác biệt (Giong-mi Mun) - Nhận ra được ý nghĩa của vấn đề đặt ra trong văn bản đối với suy nghĩ, tình cảm của bản thân. - Nhận biết được đặc điểm và chức năng của trạng ngữ; hiểu được tác dụng của việc lựa chọn từ ngữ và cấu trúc câu trong việc biểu đạt nghĩa. - Biết sống trung thực, thể hiện đúng những suy nghĩ riêng của bản thân; có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Bài 9. Trái Đất - ngôi nhà chung 1. Trái Đất - cái nôi của sự sống (Hồ Thanh Trang) - Chỉ ra được những vấn đề đặt ra trong văn bản có liên quan đến suy nghĩ và hành động của bản thân; có thái độ yêu quý và trân trọng sự sống của muôn loài; có ý thức bảo vệ môi trường sống trên Trái Đất. II. PHẦN VIẾT 1. Viết bài văn thuyết minh thuật lại một sự kiện - Bước đầu biết viết văn bản thông tin thuật lại một sự kiện 2. Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích - Viết được bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích một cách sinh động Đề cương ôn tập học kì 2 môn Ngữ văn lớp 6 Sách cũA/ PHẦN VĂN: I. Truyện và kí: 1. Hệ thống hóa những truyện và kí đã học:
2. Những yếu tố có chung ở truyện và kí:
II. Thơ:
III. Văn bản nhật dụng:
B/ TIẾNG VIỆT I. Phó từ
II. Các biện pháp tu từ trong câu:
III. Câu và cấu tạo câu: 1. Các thành phần chính của câu:
2. Cấu tạo câu:
IV. Chữa lỗi về chủ ngữ, vị ngữ:
V. Dấu câu:
C/ TẬP LÀM VĂN: Dàn bài chung của văn tả cảnh và văn tả người
Đề thi Ngữ văn lớp 6 học kì 2I/ Trắc nghiệm: (3.0 điểm) Khoanh tròn vào chữ cái đúng nhất (mỗi câu đúng 0.25đ) Câu 1: Những tác giả nào sau đây chuyên viết truyện cho thiếu nhi? A. Minh Huệ B. Tô Hoài C. Đoàn Giỏi D. Võ Quảng Câu 2: Đoạn trích “Vượt thác” “Sông nước Cà Mau” có điểm giống nhau là: A. Tả lại hình ảnh con người trong tư thế bị động B. Tả cảnh sông nước biển trời C. Tả cảnh quan thiên nhiên của Tổ Quốc D. Tả sự oai phong mạnh mẽ của con người Câu 3: Thể kí thường không có yếu tố nào? A. Cốt truyện B. Sự việc C. Lời kể D. Nhân vật người kể chuyện Câu 4: Trong văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” lí do nào khiến Bác không ngủ được? A. Bác có nhiều việc phải suy nghĩ B. Trời lạnh quá mà lều tranh xơ xác C. Bác vốn là người ít ngủ D. Bác thương dân công, chiến sĩ và lo cho chiến dịch ngày mai Câu 5: Văn bản “ Đêm nay Bác không ngủ” thuộc phương thức biểu đạt: A. Miêu tả và tự sự B. Tự sự và biểu cảm C. Miêu tả và biểu cảm D. Biểu cảm kết hợp tự sự miêu tả Câu 6: Từ láy nào sau đây không phải là từ được dùng trực tiếp để tả dáng vẻ Lượm? A. Loắt choắt B. Xinh xinh C. Thoăn thoắt D. Nghênh nghênh Câu 7: Các phó từ: Vẫn, đều, còn, cũng...có ý nghĩa gì? A. Chỉ sự cầu khiến B. Chỉ quan hệ thời gian C. Chỉ sự tiếp diễn tương tự D. Chỉ kết quả Câu 8: Chỉ ra câu có phép so sánh không ngang bằng? A. Trẻ em như búp trên cành B. Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất C. Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo D. Một mặt người hơn mười mặt của Câu 9: Nếu viết: “ Cứ mỗi lần nhìn lên, những ngọn tre thay lá, những búp tre non kín đáo, ngây thơ, hứa hẹn sự trưởng thành” thì câu văn mắc phải lỗi nào? A. Thiếu chủ ngữ B. Thiếu vị ngữ C. Thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ D. Thiếu thành phần phụ Câu 10: Khi viết: “Nhìn lên, những ngọn tre thay lá, những búp tre non kín đáo, ngây thơ,...”, tác giả đã dùng biện pháp tu từ gì? A. So sánh B. Ẩn dụ C. Nhân hóa D. Hoán dụ Câu 11: Câu nào không phải là câu trần thuật đơn có từ “ là”? A. Tôi là một học sinh B. Mẹ là cô giáo C. Tre là cánh tay của người nông dân D. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh Câu 12: Đâu là chủ ngữ trong câu “ Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt” A. Những cái vuốt B. Những cái vuốt ở chân C. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo D. Cứng dần và nhọn hoắt II/ Tự luận: (7.0 điểm) Câu 1: Xác định chủ ngữ và vị ngữ của câu dưới đây (gạch dưới và ghi cụ thể: CN, VN) (1.0 điểm) Sáng nay, trên sân trường lớp 6a7 đang lao động. Câu 2: Một học sinh chép lại theo trí nhớ khổ thơ sau từ bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu: Cháu cười híp mắt - Thôi chào đồng chí! Má đỏ bồ quân Cháu đi xa dần... Em hãy phát hiện lỗi sai trong bản chép của bạn. Vì sao em nhận ra được lỗi ấy? (1.0 điểm) Câu 3: Em hãy tả lại hình ảnh một người thầy giáo (cô giáo) cũ đã để lại trong em những ấn tượng sâu sắc nhất. (5.0 điểm) Các bài Văn mẫu lớp 6 học kì 2Đề bài 1: Hãy tả lại cảnh trường em vào một buổi sáng đẹp trời khi em đi học. Bài làm gợi ý: Thường lệ, đúng 6 giờ 30 phút sáng hàng tuần, em đạp xe đến trường. Từ xa, ngôi trường Trung học cơ sở ... thân thương hiện lên rất đẹp, sao mà gần gũi và quen thuộc quá! Trường em ..... . Trường nằm trên tuyến đường ... , cách .... Trường quay mặt về hướng ..., diện tích .. . Bao bọc xung quanh trường là tường .... Từ trên cao nhìn xuống, trường như nằm trên một tấm thảm xanh khổng lồ của cánh đồng lúa bạt ngàn suốt ngày reo vui với nắng và gió. Bước vào cổng trường, dãy phòng hội đồng cửa vẫn còn đóng. Phía trước dãy phòng là một ..., một khoảng sân khá rộng. Những chậu cây cảnh vẫn đứng trầm ngâm, duyên dáng. Lá vẫn còn đẫm sương đêm. Thấp thoáng sau bóng cây và màn sương mỏng, ngôi trường như còn say ngủ. Những tia nắng yếu ớt hình rẻ quạt bắt đầu hiện lên,báo hiệu một ngày mới thật đẹp . Đi đến phòng thư viện, trước mắt em là hai dãy tầng lầu đứng vuông góc với nhau. Dưới tán lá sum sê là những bộ bàn ghế đá như ngồi đó chờ đợi em. Đến nhà để xe đạp, em chỉ nhìn thấy một vài chiếc xe dựng ngay ngắn .... Đi qua các phòng học, cửa vẫn còn đóng im ỉm. Trước cửa mỗi phòng học, phía trên có tấm biển nho nhỏ ghi tên phòng, tên lớp. Em bước chân vào lớp, mặc dù các bạn chưa đến đông đủ nhưng em thấy lớp em, trường em sao mà thân thuộc, ấm cúng lạ thường. Bàn ghế trong lớp sắp xếp ngay ngắn, bảng đen được lau chùi sạch bóng. Từ trên cao, Bác Hồ nhìn xuống như thầm bảo: “Cháu hãy cố gắng học tập cho thật tốt, nghe lời thầy cô cha mẹ, làm nhiều việc tốt hơn nữa!” Lúc này, ông mặt trời đã lên cao sau dãy núi, ánh nắng soi rọi khắp nơi. Các bạn học sinh đi đến trường rất đông. Sân trường bỗng chốc rộn ràng tiếng nói, tiếng cười vui vẻ. Những chiếc áo trắng, những chiếc khăn quàng đỏ quen thuộc lúc ẩn, lúc hiện. Các phòng học, cửa đã mở, tất cả như bừng thức dậy sau một giấc ngủ ngon. Ở các phòng học, các bạn trực nhật lại vội vã dọn quét. Cảnh trường vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, thân quen và đã trở thành kỉ niệm gắn bó với em tự lúc nào. Một ngày không xa, em sẽ xa trường, xa thầy cô, xa bạn bè nhưng mái trường thân yêu này sẽ gần em mãi mãi! Đề bài 2: Em hãy viết một bài văn tả người thân yêu và gần gũi nhất của mình: Cha, mẹ, anh, chị em… Bài làm gợi ý: Trong gia đình em có ông bà, cha mẹ, anh chị em… nhưng người mà em thương yêu gần gũi nhất là mẹ. Mẹ là người đã sinh đẻ, nuôi dưỡng, che chở em từ nhỏ đến giờ . Cố nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu có câu: “Mẹ sẽ là nhành hoa cho con cài lên ngực”. “Cành hoa” của mẹ đã sinh đẻ, nuôi dưỡng, chắp cánh cho em đến trường! Mẹ em năm nay vừa tròn bốn mươi tuổi. Mẹ cao khoảng 1,6 mét, dáng người thon thon. Những lúc thảnh thơi, mẹ thường thả mái tóc ôm trọn khuôn mặt hình trái xoan, trông mẹ vốn đã đẹp càng đẹp hơn. Đặc biệt, mẹ có đôi mắt hai mí, đen lay láy. Nhìn vào mắt mẹ, ánh mắt của mẹ lúc nào cũng sáng long lanh. Sống bên mẹ, em thấy nụ cười của mẹ hiền dịu, duyên dáng. Sớm hôm lặn lội với nghề nông nên làn da của mẹ ngâm ngâm, thịt da rắn chắc, săn lại. Gọn gàng là vẻ đẹp của mẹ em đó! Tiếng gà gáy râm ran, một ngày mới lại bắt đầu. Mẹ lại bận rộn với bao công việc: Nấu món ăn sáng, dọn dẹp nhà cửa, quét nhà... Rồi bóng mẹ khuất dần trên con đường làng quen thuộc. Quanh năm, ngày nắng cũng như ngày mưa, mẹ lúc nào cũng gắn bó với đồng ruộng. Dáng mẹ lom khom, lúc bón phân, lúc nhổ cỏ ruộng. Từ xa, em chỉ nhìn thấy mẹ với nét quen thuộc. Chiếc nón lá nhấp nhô, dáng người thoăn thoắt. Đồng lúa quê nhà như một tấm thảm khổng lồ, còn mẹ như một người thợ ngày đêm thêu dệt cho tấm thảm ấy mỗi ngày một xanh hơn. Mẹ ơi! Con chỉ ao ước con là mây suốt ngày che nắng cho mẹ! Ở nhà, mẹ em hay làm mọi thứ. Phải nói rằng mẹ rất khéo tay và siêng năng. Ra ngoài vườn, những cây bông hồng, hoa tí ngọ… lúc nào mẹ cũng chăm bón tỉ mỉ, tỉa cành, cắt lá, bắt sâu, rầy...làm cho bông hoa tươi hơn, đẹp hơn! Gốc cây, lá cây , bông hoa tươi tắn, màu sắc rực rỡ càng tôn lên vẻ đẹp của sân nhà. Mùa nào, hoa nấy, nhà em lúc nào cũng có hoa. Phải nói rằng, mẹ rất yêu hoa . Trong gia đình, mẹ rất thương bố và các con. Với bố, mẹ thường làm cho bố những món ăn ngon. Với các con, mẹ sắp xếp lại bàn ghế học tập, sách vở, kể cả quần áo của em để bề bộn, mẹ cũng để lại ngay ngắn, gọn gàng. Trong bữa ăn, mẹ dành thức ăn ngon cho con. Mẹ vui nhất là lúc em đạt được điểm cao! Xong mẹ cũng rất nghiêm khắc khi em bị điểm thấp, bị thầy cô không hài lòng về những biểu hiện chểnh mãng trong học tập . Mẹ ơi! Những ngày mẹ đi vắng nhà là những ngày buồn nhất của con đó! Em biết “Nghĩa mẹ như nước ngời ngời Biển Đông”. Sự no ấm, hạnh phúc của em mà mẹ đã đổ bao mồ hôi! Thương mẹ, em nghe lời dạy của mẹ, cố gắng học tập thật tốt để không bao giờ phụ lòng thương yêu của mẹ. Đề bài 3: Em hãy tả lại quang cảnh một buổi lễ chào cờ đầu tuần ở trường em. Bài làm gợi ý: Thường lệ, cứ mỗi buổi chiều thứ hai, trường em tổ chức lễ chào cờ đầu tuần. Buổi lễ chào cờ diễn ra rất trang trọng. Những tia nắng cuối ngày tuy đã dịu bớt nhưng vẫn còn chói chang. Trước lễ chào cờ, các tổ trực của các lớp đã có thói quen mang ghế ngồi của lớp sắp đặt ngay ngắn. Những chiếc ghế nhựa màu đỏ xếp đặt ngay hàng, thẳng tăm tắp. Bục gỗ đã được lớp trực khiêng ra để dưới tiền sảnh cầu thang từ lúc nào. Hai bên bục gỗ là những chiếc ghế dựa dành cho thầy cô giáo tham dự lễ. Trước mỗi hàng ghế nhựa là bảng tên lớp được sơn nền màu trắng, chữ đen ghi tên đơn vị lớp. Giờ học Ngữ văn vừa kết thúc. Bỗng hai tiếng trống vang lên “Tùng, tùng”. Học sinh từ các lớp nhanh chóng tập trung trước sân trường. Chẳng mấy chốc, hàng ngũ từng lớp rất chỉnh tề như đội quân trước giờ ra trận. Các thầy giáo trong trang phục sơ mi, đi giày. Còn các cô giáo mặc những bộ áo dài đủ sắc màu... làm cho buổi lễ thêm phần long trọng. Đứng trước lễ đài là đội nghi thức, đầu đội mũ ca lô trắng, viền xanh, mang những chiếc trống đội xinh xắn. Buổi lễ chào cờ sắp bắt đầu. “Nghiêm! Chào cờ! Chào!” Tiếng hô dõng dạc của bạn chi đội trưởng lớp 6a... vang lên. Tất cả thầy và trò đứng trang nghiêm, học sinh vung tay chào cờ. Tiếng trống đội vang lên rộn rã, nhịp nhàng. Hòa trong tiếng trống là tiếng quốc ca hùng tráng “ Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa...” Chứng kiến phút giây này, em mới cảm nhận hết được sự thiêng liêng của lễ chào cờ. Đội hình học sinh như một đoàn quân trước giờ xung trận. Từ trên cao, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới như vẫy gọi, thúc giục chúng em vươn lên trong học tập. Quốc ca vừa hết, tất cả chúng em đáp lại khẩu lệnh của bạn chi đội trưởng 6a... “ Sẵn sàng!” Sau buổi lễ là phần sinh hoạt dưới cờ. Thầy giáo trực ban của tuần qua lên nhận xét tình hình thi đua giữa các lớp. Bạn đội trưởng cờ đỏ đọc điểm thi đua giữa các chi đội. Rồi với bóng hình quen thuộc, thầy hiệu trưởng nhà trường nói những tồn tại trong tuần qua. Thầy tỏ vẻ không vui khi còn có những học sinh lười học, chưa biết nghe lời thầy cô giáo. Thầy mong chờ, đặt niềm tin, kì vọng vào chúng em rất nhiều. Đặc biệt, thầy động viên, khích lệ các em trong thời gian đến phải nỗ lực thi đua trong học tập... Bản thân em phải tự cố gắng để không phụ lại niềm tin yêu của thầy cô giáo! Buổi lễ chào cờ đã xong. Tất cả các bạn đều ra về. Ánh nắng chiều ấm lạ. Phải cố gắng thật nhiều - em tự húa với mình như vậy! Tham khảo thêm các đề thi học kì 2 lớp 6 khác:
|