Sáng kiến kinh nghiệm mĩ thuật lớp 4

  1. PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƯNG TRƯỜNG TIỂU HỌC NGHĨA HỒNG BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số giải pháp dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch ở lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Mĩ thuật Tác giả: ĐỖ THỊ HIÊN Trình độ chuyên môn: CAO ĐẲNG Chức vụ: GIÁO VIÊN MỸ THUẬT Nơi công tác: TRƯỜNG TIỂU HỌC NGHĨA HỒNG
  2. Nghĩa Hồng, ngày 10 tháng 5 năm 2021 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch ở lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Mĩ thuật 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Mỹ thuật lớp 4. 3. Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Từ ngày 10 tháng 9 năm 2020 đến ngày 10 tháng 5 năm 2021 4. Tác giả: Họ và tên: Đỗ Thị Hiên Năm sinh: 1987 Nơi thường trú: xã Nghĩa Lạc - Nghĩa Hưng – Nam Định Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Chức vụ công tác: Giáo viên mỹ thuật Nơi làm việc: Trường Tiểu học Nghĩa Hồng Địa chỉ liên hệ: xã Nghĩa Lạc - Nghĩa Hưng – Nam Định Điện thoại: 0946460083 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Tên đơn vị: Trường Tiểu học Nghĩa Hồng Địa chỉ: xã Nghĩa Hồng - Nghĩa Hưng – Nam Định Điện thoại: 02283872907
  3.      I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SKKN :     Trong công tác dạy và học, người thầy giáo có tâm huyết bao giờ cũng tập trung vào việc đổi mới cách dạy và học. Bởi mục tiêu của người thầy luôn chú trọng vào đối tượng người học, giúp người học hiểu và nhận thức ra vấn đề cần chuyển tải một cách hiệu quả. “Khổng Tử “ đã có câu nói rất hay: Thầy dạy không biết mỏi, trò học không biết chán. Đạt được như vậy có nghĩa là người thầy đã đổi mới cách dạy - trò đã đổi mới cách học.      Thông thường, việc dạy học Mĩ thuật trong trường tiểu học ở Việt Nam dạy theo phân phối chương trình với các phân môn độc lập như vẽ trang trí, vẽ theo mẫu, vẽ tranh, thường thức mĩ thuật và tập nặn tạo dáng. Với môn học này học sinh chỉ cần một quyển vở tập vẽ, bút chì, hộp màu hoặc đất nặn. Điều này cũng giới hạn phần nào sự hứng thú và sáng tạo của học sinh. Việc phân phối các phân môn xen kẽ nhau chủ yếu nhằm mục đích để học sinh không cảm thấy nhàm chán khi học nên sự liên kết giữa bài trước với bài sau thường lỏng lẻo, đôi khi không liên quan. Việc này hạn chế sự liên tưởng, vận dụng kiến thức cũ vào bài học mới và khó tích hợp kiến thức liên môn.            So với phương pháp truyền thống, dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới của Đan Mạch có nhiều ưu điểm trong việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, tiết học rất thoải mái, sinh động. Phương pháp này không chỉ đơn giản là cung cấp tri thức, hướng dẫn thực hành, mà còn phát triển các năng lực toàn diện cho học sinh như: năng lực trải nghiệm, biểu đạt, phân tích - giải thích, trình bày, giao tiếp - đánh giá, tạo cơ hội cho học sinh thực hành, ứng dụng trong học tập và cuộc sống. Trên cơ sở lý thuyết giáo dục và giảng dạy Mĩ thuật, giáo viên sẽ tổ chức dạy cho các em học Mĩ thuật qua các hoạt động Vẽ cùng nhau, Vẽ theo nhạc, Vẽ biểu đạt, tạo hình 3D từ các vật tìm được, Xây dựng cốt truyện... Thông qua các hoạt động tạo hình sẽ khơi gợi và phát huy được năng khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp, tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của học sinh trong cuộc sống. Đây là một chương trình giáo dục Mĩ thuật Tiểu học năng động, phát huy, rèn luyện được nhiều kỹ năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống, một sự thay đổi lớn cả về phương pháp lẫn mục tiêu giáo dục của bộ môn Mĩ thuật ở Tiểu học. Ngoài việc thay đổi nội dung phân phối chương trình, sự thay đổi hình thức tổ chức lớp học phần lớn được thông qua hoạt động nhóm thì vấn đề để học sinh tiếp thu được kiến thức, phát triển tư duy, sáng tạo ra những sản phẩm mĩ thuật là một trong những vấn đề trọng tâm khiến giáo viên không khỏi tránh được những khó khăn, vướng mắc. Vì theo phương pháp mới, mỗi chủ đề sẽ thực hiện bằng nhiều quy trình mĩ thuật khác nhau, giáo viên hoàn toàn không hướng dẫn học sinh thực hành mà chủ yếu do học sinh tự tìm hiểu vấn đề.      Có thể nói ưu điểm của phương pháp dạy học mới theo dự án SAEPS là tích cực, mà ở đó học sinh chủ động, tự lực khai thác tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các phương pháp dạy học mới được triển khai trong dự án đã kích thích sự say mê, hứng thú trong học tập, bồi dưỡng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tư duy và trí tưởng tượng của học sinh.Chính từ tính ưu việt của phương pháp  này, tôi đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Một số Biện pháp dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch ở khối lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Mĩ thuật.       1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
  4.   - Giúp học sinh lớp 4 thêm yêu thích môn học thông qua các hoạt động học tập. - Giúp học sinh phát huy được  trí tưởng tượng, sáng tạo, khả năng tư duy, rèn luyện cho các em có khả năng biểu đạt, phân tích và tăng cường kỹ năng giao tiếp. Mặt khác, qua việc đúc kết những kinh nghiệm cũng chính là một trong những cách để ghi nhận và xem xét lại quá trình thực hành giảng - dạy, để hoàn thiện kỹ năng sư phạm của bản thân, để chọn lọc ra những gì đã làm tốt, cái gì cần phải làm tốt hơn và nghĩ cách khắc phục những gì chưa tốt. Việc tự phân tích thiết yếu này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nghề nghiệp của mỗi giáo viên, đồng thời giúp cho mỗi giáo viên có cơ hội để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm hướng tới mục tiêu giáo dục đạt kết quả cao hơn.       2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU     Chủ thể: Biện pháp dạy học môn Mĩ thuật cho học sinh lớp 4 theo phương pháp Đan Mạch.      Khách thể: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Nghĩa Hồng      3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU      1. Nghiên cứu lí luận - Những định hướng và mục tiêu giáo dục Mĩ thuật bậc Tiểu học. - Đặc điểm tâm lý học sinh lớp 4. - Một số vấn đề về giải pháp dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới (thuộc dự án do Đan Mạch hỗ trợ).      2. Nghiên cứu thực trạng - Khái quát tình hình chung về nhà trường. - Thực trạng việc dạy và học bộ môn Mĩ thuật lớp 4 trường Tiểu học Nghĩa Hồng       3. Đề xuất biện pháp mới           Biện pháp 1: Lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh thần đổi mới theo phương pháp của Đan Mạch            Biện pháp 2: Xây dựng các chủ đề học tập có nội dung gần gũi, quen thuộc và phù hợp với khả năng nhận thức của các em.                 Biện pháp 3: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.            Biện pháp 4: Xây dựng bầu không khí lớp học thân thiện, tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trò chơi.            Biện pháp 5: Tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh      4. Tổ chức thử nghiệm hoặc khảo nghiệm.      Tổ chức dạy thực nghiệm với lớp 4.      4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
  5.           1. Sưu tầm tài liệu có liên quan:                  2. Vấn đáp:           3. Quan sát:                    4. Thực nghiệm:             5. Phân tích, tổng hợp:     5. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU - Tìm hiểu quá trình  dạy và học bộ môn Mĩ thuật ở lớp 4. - Tìm hiểu những vấn đề cơ bản thường gặp, những tình huống, ưu điểm, hạn chế qua quá trình dạy và học bộ môn mĩ thuật học sinh khối 4 trường Tiểu học Nghĩa Hồng. - Thời gian nghiên cứu từ đầu năm học 2020 – 2021 đến nay.  II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP      1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SKKN      1. Khái niệm: Giáo dục mĩ thuật là giúp học sinh có khả năng cảm nhận, khám phá ra nặng lực của mình thông qua các phương tiện khác nhau cũng như trải nghiệm những niềm vui thích khi tạo ra những sản phẩm, những biểu đạt mang tính độc lập và đặc sắc của mình. Điều này giúp học sinh có thể sử dụng và ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật để có thể biểu đạt kinh nghiệm và thái độ của các em bằng nhiều cách khác nhau. Trong các quy trình dạy - học mĩ thuật sáng tạo, giáo viên phải luôn chỉ ra cho học sinh thấy rằng sẽ có vô vàn cách thức biểu đạt khác nhau chứ không phải chỉ có một cách duy nhất.      Môn học Mỹ thuật trong trường tiểu học không nhằm  đào tạo các em trở thành họa sĩ mà thông qua các hoạt động tạo hình để khơi gợi và phát huy khiếu thẩm mỹ vốn có ở trẻ, gây hứng thú cho các em trước cái đẹp tiến tới hình thành thị hiếu thẩm mỹ của riêng mình trong cuộc sống hàng ngày.      Điểm nổi bật của phương pháp dạy học mới môn Mỹ thuật là giáo viên có thể chủ động theo từng nội dung của từng tiết dạy mà kết hợp nhiều kỹ thuật trong một bài như: Vẽ biểu cảm- Vẽ cùng nhau- Vẽ theo nhạc- Xây dựng cốt chuyện, so với phương pháp truyền thống, phương pháp mới phát huy khả năng sang tạo cao của học sinh, tiết học thoải mái, sinh động hơn. Từ môn học này tạo cơ hội cho học sinh thực hành, ứng dụng trong học tập và cuộc sống.               2. Về mục tiêu của dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch      Mục tiêu chính của phương pháp này nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực: + Năng lực trải nghiệm: Cho các em được làm việc với những chủ đề liên quan đến kinh nghiệm đã có của bản thân. + Năng lực kỹ năng và kỹ thuật  thông qua các hoạt động : Vẽ cùng nhau, chân dung biểu đạt, vẽ theo nhạc, tạo hình từ vật tìm được, nặn hoặc uốn tạo dáng, xây dựng cốt truyện(xây dựng bối cảnh câu chuyện).
  6. + Năng lực biểu đạt: Có nghĩa là học sinh ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật để diễn đạt sự trải nghiệm và thái độ của bản thân. + Năng lực phân tích và trình bày: Thông qua các hoạt động trình bày về tác phẩm của mình, tham gia giải thích, phân tích, nhận xét về nghệ thuật, kỹ thuật thể hiện tác phẩm. + Năng lực giao tiếp và đánh giá: Học sinh tham gia giao tiếp, thảo luận và đánh giá tất cả các hoạt động trong tiết Mĩ thuật, đánh giá những gì đã làm được, có như mong muốn hay không?.      3. Ý nghĩa của dạy học môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch      Ý nghĩa của vấn đề chính là dựa trên nền tảng của  Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Đồng thời còn nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp cho học sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách một con người, chuẩn bị tốt cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và lao động để học sinh tiếp tục học lên trung học hoặc đi vào cuộc sống tùy theo nhu cầu và nguyện vọng bằng những hình thức thích hợp”. Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ trong trường Tiểu học là một nội dung có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo dục khác, tạo nên sự hoàn thiện trong việc phát triển nhân cách của học sinh. Chính vì vậy việc giáo dục và bồi dưỡng cho học sinh có trình độ văn hoá thẩm mĩ phổ thông là hết sức cần thiết.        4. Nội dung của dạy học theo phương pháp Đan Mạch      Điểm nổi bật của phương pháp dạy học này là giáo viên có thể chủ động theo từng nội dung tiết dạy mà kết hợp nhiều kỹ thuật trong một bài dạy. Nội dung chương trình giáo dục Mĩ thuật theo phương pháp mới không theo trình tự các bài như chương trình hiện hành, mà giáo viên căn cứ vào đó để xây dựng các chủ đề cho phù hợp. Mỗi chủ đề tạo thành một quy trình mỹ thuật tương tác và tích hợp giữa 5 nội dung: Vẽ theo mẫu, Vẽ trang trí, Vẽ tranh, Tập nặn tạo dáng, Thường thức Mỹ thuật. Mỗi chủ đề sẽ lồng ghép giáo dục nhiều mục tiêu và được thực hiện ít nhất là 2 tiết, nhiều nhất là 5 tiết hoặc cũng có thể hơn.      Tóm lại:  Qua quá trình áp dụng hiệu quả như thế nào, chúng ta cùng tìm hiểu thực trạng dạy và học môn Mĩ thuật 4 tại trường Tiểu học.      5.THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MĨ THUẬT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC      1. Nhận xét thực trạng dạy và học mĩ thuật ở trường tiểu học.      Hiện nay ở các trường Tiểu học hầu hết đã có đủ giáo viên được đào tạo chuyên dạy môn Mĩ thuật. Do vậy chất lượng giảng dạy luôn được giáo viên quan tâm, đầu tư đúng mức. Tuy nhiên việc dạy bộ môn Mĩ thuật vẫn còn rất nhiều bất cập do nhiều yếu tố khác nhau, chưa đạt được kết quả như mục tiêu giáo dục đề ra.      Qua các đợt tập huấn do Sở Giáo dụcvà phòng Giáo dục quận tổ chức, đại đa số giáo viên đều nắm được các bước thực hiện một quy trình dạy mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch, Các giáo viên tham gia dạy chuyên đề cũng được Ban giám hiệu nhà
  7. trường tạo điều kiện về thời gian, công việc, phối kết hợp với các thầy, cô trong nhóm nghiên cứu để có thể dự giờ lẫn nhau, giúp giáo viên có thể trải nghiệm phương pháp mới cùng các đồng nghiệp. Khi tham tập huấn và dạy chuyên đề thử nghiệm, chúng tôi nhận thấy tính ưu việt của dự án là lấy học sinh làm trung tâm, đồng thời xây dựng quy trình tương tác và tích hợp các phân môn cho từng nội dung học tập, nhưng áp dụng vào giảng dạy như thế nào thì hầu hết còn rất mơ hồ. Bản thân giáo viên, khi chịu trách nhiệm triển khai và thực hiện tiết dạy vận dụng và lồng ghép phương pháp đan mạch, cũng như nhiều giáo viên chuyên trách khác không tránh được những khó khăn vướng mắc, lúng túng khi thực hiện. Về nội dung các chủ đề giáo viên có thể xây dựng dựa trên chương trình hiện hành nhưng khó khăn lớn là việc tổ chức các quy trình. Nếu thực hiện tại lớp thì không thể tổ chức được do phải sắp xếp lại bàn ghế, trong khi thời lượng tiết dạy chỉ có 35 phút. Bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều điểm giáo viên băn khoăn, lúng túng, không biết thực hiện như thế nào cho đúng tinh thần đổi mới, cho đạt hiệu quả.     Từ thực tế giảng dạy bộ môn Mĩ thuật cho học sinh Tiểu học, bản thân tôi cũng gặp không ít khó khăn về vấn đề đồ dùng học tập này. Mỗi em được trang bị một hộp màu sáp, một vở vẽ khổ A4, 1 bịt giấy màu. Nếu thực hiện quy trình Vẽ cùng nhau, Vẽ  biểu cảm thì không có gì đáng bàn, nhưng còn các quy trình khác thì sao? Dây kẽm, giấy bồi, keo, các vật dụng khác thì phải làm thế nào để có? Yêu cầu phụ huynh mua cho các em là điều còn khó hơn khi yêu cầu phụ huynh đóng các loại quỹ. Lý do:phần lớn phụ huynh là dân lao động tự do  nên thiếu quan tâm đến việc học của học sinh. Một số phụ huynh cho rằng Mĩ thuật là môn phụ nên con em họ học được gì, học như thế nào cũng chẳng đáng quan tâm. Chính vì vậy, hầu hết các chủ đề đều áp dụng quy trình Vẽ cùng nhau hoặc Vẽ  biểu cảm, Vẽ theo nhạc, Xây dựng cốt truyện là chính, còn các quy trình khác không thể thực hiện được vì lý do trên.    Mặt khác đối với học sinh các em chủ yếu là nhận thức cảm tính. Các em vẽ hình thường còn quá nhỏ, không tự tin khi thể hiện (khi vẽ biểu đạt, tạo ngân hàng hình ảnh), bố cục trống trải (khi vẽ cùng nhau), tạo hình bằng đất nặn, xé dán hình chưa phong phú dẫn đến sản phẩm đạt được không đẹp mắt, khó biểu đạt nội dung chủ đề. Mặt khác do chất  liệu bút chì dễ tẩy xoá nên nhiều học sinh quá lạm dụng tẩy, làm cho bài vẽ bị bẩn, thường bị rách giấy, hình vẽ thiếu tự nhiên. Các bài vẽ, các sản phẩm của học sinh còn mang tính sao chép, na ná giống nhau, chưa có nhiều sáng tạo hay ý tưởng đột phá. Khi vẽ màu thường đơn điệu, không có đậm nhạt, vẽ màu không gọn. Trong khi có thể nói các em rất thích học Mĩ thuật, thích vẽ, thích xem tranh, thích được sáng tạo nhưng các giờ học vẫn đại đa số vẫn chưa thực sự thoải mái, chưa thật sự là “không gian của sự sáng tạo”. Các em vẽ thường bị gò bó, công thức, đôi khi rập khuôn, sự suy nghĩ, tìm tòi chưa được giải phóng, hiện tượng bắt chước, lặp lại từ cách vẽ hình, vẽ màu, cách tìm chủ đề cho vẫn còn chung chung...Nhưng nếu giáo viên thiếu quan sát hay quản lý lớp là các em thường nói chuyện riêng, đùa giỡn,làm ảnh hưởng đến lớp học bên cạnh.       Dựa trên những bất cập đó có thể tóm tắt một số thuận lợi và khó khăn khi áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy bộ môn Mĩ thuật cho học sinh lớp 4 như sau.       2. Thuận lợi và khó khăn:       a. Thuận lợi:
  8. * Về phía giáo viên:           - Giáo viên dạy Mĩ thuật luôn được sự quan tâm của Ngành cấp trên, đặc biệt là Ban Giám hiệu nhà trường thường xuyên động viên, khuyến khích giáo viên áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy, luôn tạo mọi điều kiện để giáo viên an tâm công tác và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.           - Cơ sở vật chất của nhà trường khang trang, sạch đẹp.           - Nội dung chương trình Mĩ thuật Tiểu học có một số bài không phù hợp vì mang yếu tố đặc thù vùng miền, nhưng theo phương pháp mới thì giáo viên có thể điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương, khả năng nhận thức của học sinh mà không quá phụ thuộc vào khuôn khổ của chương trình hiện hành. * Về phía học sinh:           - Các hoạt động của mỗi chủ đề nối tiếp liền mạch nhau, làm cho học sinh luôn cảm thấy hào hứng khi được khám phá, sáng tạo với nhiều trải nghiệm.Mặt khác, các em được thỏa thích với những sáng tạo, được trao đổi, học hỏi từ bạn rất nhiều. Thông qua hoạt động mỹ thuật thực tế, học sinh tự mình làm tích lũy được cách biểu đạt, phân tích, đánh giá, tự lựa chọn và nhận thức để hình thành, phát triển những năng lực cá nhân. Chính bản thân các em sẽ tự tin trình bày những ý kiến cá nhân trước tập thể.            - Có thể nói việc giảng dạy bộ môn Mĩ thuật rất hiện hành rất tốt, học sinh rất yêu thích môn học vì là một giờ học không gò bó, không có nhiều áp lực. Đó chính là một lợi thế, không phải môn học nào cũng có được.      b. Khó khăn: * Về phía giáo viên:           - Trang thiết bị phục vụ môn học chưa nhiều, chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho dạy - học Mĩ thuật.           - Nhà trường chưa có phòng học chức năng. Đối với phương pháp mới này ĐDDH cho giáo viên là không có sẵn, hầu hết giáo viên phải tự chuẩn bị  vật mẫu cho giáo viên và học sinh, phương tiện, đồ dùng trực quan..        . * Về phía học sinh: Bảy quy trình dạy - học Mĩ thuật chủ yếu là đề cao khả năng tự học của học sinh, nhưng để thực hiện được một quy trình các em phải chuẩn bị rất nhiều vật dụng như : giấy A0, A4, giấy bồi, kẽm, băng keo, hộp giấy, vật dụng tìm được. Điều này quả là khó khăn cho cả giáo viên và học sinh, vì bản thân các em chưa thể tự chuẩn bị được mà phải có sự hỗ trợ từ phía phụ huynh. Với “vị trí” của môn học như hiện nay thì sự nhiệt tình của phụ huynh có được như mong muốn? Nhiều em hoàn cảnh khó khăn có được hộp màu và giấy vẽ đã là may mắn.       II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SKKN MANG LẠI      1. Điều tra cơ bản.      Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Mĩ thuật lớp 4A5, tôi thấy hầu hết các em đều thích học vẽ, các em học tập với tinh thần hăng say, cảm nhận được cái hay, cái đẹp được thể hiện từ nội dung và hình thức mỗi khi các em
  9. vẽ một bức tranh. Bên cạnh đó còn một số học sinh nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình, một số em còn chán nản không thích học vẽ, dẫn đến chất lượng bài vẽ hưa tốt. Tất cả những vấn đề trên rất đáng lo ngại, ảnh hưởng lớn đến việc học Mĩ thuật của học sinh cho nên tôi đã tiến hành điều tra đầu năm xem các em đạt ở mức độ nào từ đó tìm ra biện pháp khắc phục và kết quả như sau:       2. Biện pháp thực hiện       Từ thực tế giảng dạy ở giai đoạn đầu, phần đông học sinh yêu thích môn học. Tuy nhiên vẫn có một số em rất thờ ơ, thậm chí chán nản mỗi khi đến giờ học, điều này khiến cho tiết học trở nên nặng nề, không hứng thú. Vì vậy việc khắc phục tâm lý cho học sinh quả là khó khăn và hết sức cần thiết. Dựa vào tâm lý của học sinh là thích khen ngợi, động viên và hay tò mò nên trước thời gian thực hành, tôi giới thiệu cho các em một số tác phẩm vẽ tiêu biểu của những hoạ sĩ nhí  để các em xem và tự học tập theo cách vẽ, cách thể hiện tranh. Phân tích cho các em thấy được cái hay, cái đẹp được thể hiện qua  các  tác phẩm, động viên các em ai cũng có thể vẽ đẹp. Vì thế sự căng thẳng và chán nản trong mỗi giờ học được giảm bớt đi, các em đã có hứng thú hơn với các tiết học. Sau đó trong những bài học vẽ tranh tôi khuyến khích các em vẽ nhiều và vẽ đẹp cho học sinh tự nhận xét, tự đánh giá tác phẩm của bạn có đẹp hay không đẹp và vì sao? Như vậy tôi đã hướng dẫn cho các em biết tự nhận xét, đánh giá được bài vẽ của bạn và mình.       Môn học Mĩ thuật  Đan Mạch không chỉ đòi hỏi các em vẽ phải có tính sáng tạo, vẽ đẹp mà các bài tập thực hành còn đòi hỏi các em có sự cảm nhận giá trị nghệ thuật, nắm được mục tiêu giáo dục ở trong mỗi bài học. Vì thế trong quá trình giảng dạy tôi đã đưa ra một số biện pháp sau đây nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Mĩ thuật.      IV. CÁC BIỆN PHÁP DẠY HỌC MĨ THUẬT THEO PHƯƠNG PHÁP ĐAN MẠCH NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC MĨ THUẬT      1. Biện pháp 1: Lập kế hoạch dạy học thực hiện bảy quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới       1.1. Mục tiêu: Lập kế hoạch dạy chi tiết từng hoạt động giúp giáo viên chủ động và ứng phó kịp thời, đúng đắn các tình huống sư phạm có thể xảy ra trên lớp.       1.2. Cách thực hiện:      Khi dạy học dưới bất cứ phương pháp nào đều yêu cầu giáo viên phải lập được kế hoạch dạy học  hoàn chỉnh. Đó không chỉ là đơn thuần thực hiện cho đúng nhiệm vụ khi lên lớp mà nó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của mỗi giáo viên đối với học sinh. Có thể nói việc lập kế hoạch giảng dạy tốt là đã thành công một nửa của quá trình dạy học. Giáo viên là người điều khiển quá trình và tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy bằng các câu hỏi mở và khuyến khích các em chia sẻ những kinh nghiệm sẵn có của mình. Điều này tạo ra nền tảng cần thiết để giúp các em kiến tạo được quy trình học tập của mình bằng cách liên hệ những điều đã biết với những điều sẽ học. Khi lập kế hoạch giáo viên phải căn cứ vào tình hình thực tế của lớp để điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp và sát với khả năng tiếp thu của học sinh. Kế hoạch cho từng hoạt động hoặc cho toàn bộ quy trình theo phương pháp Đan Mạch có thể ngắn, dài và kết nối, liên kết, xâu chuỗi các hoạt động quy trình với nhau, kết thúc hoạt động này sẽ là mở
  10. đầu cho hoạt động tiếp theo… Cụ thể khi xây dựng kế hoạch dạy học theo phương pháp mới, giáo viên cần phải chú ý tới: + Mục tiêu bài học: Mỗi bài học, tiết học đều có mục tiêu chung là hướng tới hình thành cho học sinh phát huy khả năng tưởng tượng, sáng tạo và năng lực diễn đạt bằng lời nói, học sinh tưởng tượng và sáng tạo được một câu chuyện bằng ngôn ngữ mĩ thuật. Tuy nhiên, giáo viên vẫn cần xác định rõ mục tiêu cụ thể của bài học đó là học sinh hiểu được gì? Thực hiện như thế nào và làm được gì?      1.3. Ví dụ minh họa:      1.3.1. Chủ đề Em sáng tạo cùng những con chữ        + Nội dung tiết 1 là: Tìm hiểu về kiểu chữ nét đều, chữ nét thanh nét đậm         - Mục tiêu tiết 1là:Hs nêu được đặc điểm của kiểu chữ nét đều, nét thanh nét đậm và kiểu chữ trang trí.          -Tạo dáng chữ tên mình hoặc người thân theo ý thích.           - Biết giới thiệu và nhận xét sản phẩm                 - Nội dung chủ đề: Nội dung các chủ đề phải vừa sức học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi của các em.        + Nội dung tiết 2 là: Sáng tạo cùng những con chữ (cá nhân)         + Mục tiêu tiết 2 là    - Trang trí và vẽ màu sản phẩm tiết 1.                                         - Biết giới thiệu, nhận xét sản phẩm.         + Nội dung tiết 3 là: - Sáng tạo cùng những con chữ (theo nhóm)          + Mục tiêu tiết 3 là : - Biết sắp xếp sản phẩm của cá nhân trang trí tạo thành sản phẩm nhóm.                                          - Biết giới thiệu, nhận xét sản phẩm.            - Điều kiện tiên quyết: Đó là những yêu cầu thiết yếu để quá tình giảng dạy có hiệu quả, bao gồm: Tạo điều kiện để học sinh học qua nhiều kênh; chú ý khả năng, phong cách học của từng học sinh; kết hợp kiến thức của bản thân học sinh và chiến lược học tập;xây dựng môi trường học tập thân thiện, truyền cảm hứng cho các em.           - Môi trường học tập: Học tại lớp, học ở phòng chức năng hay sân trường. Môi trường học tập thoải mái sẽ hỗ trợ rất nhiều cho quá trình dạy và học.           - Quá trình đánh giá học: Mỗi quá trình học là một sâu chuỗi các hoạt động diễn ra.           - Đánh giá: giá từng giai đoạn và đánh giá cả quá trình thực hiện.           Môn Mĩ thuật là môn dành thời gian chủ yếu cho học sinh thực hành, do vậy giáo viên cần thiết kế tổ chức các hoạt động trải nghiệm phong phú, đa dạng nhưng không quá dài, mất nhiều thời gian. Tuyệt đối không đưa ra tranh vẽ, sản phẩm làm mẫu để học sinh quan sát trước khi thực hành mà phải để học sinh chủ động tích cực tìm hiểu và tham gia vào quá trình tranh luận, thảo luận, bàn bạc khi làm việc cùng các
  11. bạn. Để thực hiện việc lập kế hoạch dạy học chi tiết, khoa học và đảm bảo đúng tinh thần đổi mới theo phương pháp của SAEPS , giáo viên cần tiến hành như sau:           a. Dự kiến các hoạt động dạy-học diễn ra theo trình tự hợp lý và nối tiếp nhau.             Mỗi tiết dạy, mỗi giai đoạn của một quy trình đều có những hoạt động và mục tiêu giáo dục khác nhau, do đó đòi hỏi giáo viên phải xây dựng và đề ra những nội dung công việc cụ thể, hình thức học tập, cách thực hiện... Ví dụ ở tiết 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chủ đề ( chủ đề Ngày Tết, lễ hội và mùa xuân)  trình tự các hoạt động như sau:           - Tổ chức trò chơi: Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ cây.  Học sinh dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ được nhiều hình cây nhất là đội thắng cuộc.           - Giáo viên cùng học sinh nhận xét phần thi đua của các đội.           - GV giới thiệu chủ đề: Đặt câu hỏi tìm hiểu chủ đề           *Em quan sát thấy những hình ảnh gì? Đó là những hoạt động nào? diễn ra ở đâu, khi nào? *Không khí, cảnh vật, màu sắc trong hình như thế nào? *Em hãy kể tên những lễ hội mà em biết? *Em hãy kể một số hoạt động khác trong dịp tết cổ truyền của dân tộc ngoài những hoạt động em thấy trong hình? *Em yêu thích nhất hoạt động nào trong ngày tết, lễ hội và mùa xuân?           + Để giúp các em thấy được vẻ đẹp của cảnh vật  xung quanh chúng ta và vẽ được những bức tranh thật đẹp, hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề: Ngày tết lễ hội và mùa xuân           - Giáo viên cho học sinh quan sát hình 6.2 SGK và nêu câu hỏi thảo luận: * Em thích sản phẩm tạo hình nào nhất? đó là hoạt động gì của ngày tết, lễ hội và mùa xuân? *Hình ảnh nào là hình ảnh chính? Hình ảnh nào là hình ảnh phụ trong mỗi sản phẩm? *Hình ảnh phụ có phù hợp với hình ảnh chính không? *Sản phẩm em thích được tạo hình bằng chất liệu gì? Các hình ảnh được sắp xếp như thế nào?           - Giáo viên tóm tắt : + Có rất nhiều hoạt động lễ hội và mùa xuân các con hãy cùng nhau cùng thảo luận, tìm ra hoạt động mà mình thích.           - Học sinh thảo luận nhóm đôi: Kể cho bạn nghe về lễ hội hoặc hoạt động mùa xuân mình thích.           - Một số học sinh kể trước lớp..
  12.           - GV kết luận: Vẽ tranh chủ đề về Ngày tết và mùa xuân  đẹp em có thể vẽ được rất nhiều các hình ảnh khác nhau. Có thể là gói bánh trưng, đua thuyền...trong đó có thêm hình ảnh các cây đào, hoa lá, người cho bức tranh thêm sinh động.           - Giáo viên và học sinh cùng nhận xét, rút ra cách vẽ.           - Học sinh hát một bài kết hợp vận động để kết thúc tiết học.           b. Dự kiến cách giới thiệu bài phong phú, đa dạng để lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào tiết học. Nhiều giáo viên quan niệm: Giới thiệu chỉ cần ngắn gọn, cứ nêu ngay tên bài là xong mà chưa chú ý nhiều đến tác dụng giáo dục của việc này. Nếu làm phép thử nghiệm để so sánh giữa hai hình thức giới thiệu bài trực tiếp và giới thiệu bài gián tiếp sẽ thấy rõ ngay hiệu quả như thế nào. Ví dụ khi giới thiệu chủ đề Chúng em với thế giới động vật: + Cách 1: - Giới thiệu trực tiếp: Hôm này cô và các em cùng tìm hiểu về chủ đề Chúng em với thế giới động vật: - Hiệu quả: Học sinh nắm được tên bài học. Không khí lớp học không thay đổi, học sinh chăm chú nghe nhưng chưa nắm được thêm bất cứ kiến thức gì ngoài tên bài. + Cách 2: - Giới thiệu gián tiếp: Giáo viên tổ chức trò chơi ô chữ đoán tên con vật (chú ý chỉ nêu tên và hình con vật ), gợi ý học sinh tìm chữ. Khi học sinh đoán đúng thì hình con vật được lật ra. Kết thúc trò chơi, giáo viên giới thiệu: Đây là những con vật quen thuộc. Để giúp các em có thể tạo hình được những con vật  mà mình thích, hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề Chúng em với thế giới động vật - Hiệu quả: học sinh nắm được tên bài học, biết được những con vật nuôi và nhưng con vật sống trong tự nhiên, không khí lớp học sinh động, học sinh thích thú khi được tham gia trò chơi. Vậy nên giáo viên cần chú ý giới thiệu bài thông qua nhiều hình thức như: thông qua trò chơi, kể một câu chuyện nhỏ, một tình huống hay đóng vai, tạo dáng, trải nghiệm thực tế…vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh vừa cung cấp kiện thức một cách dễ hiểu nhất. Chính vì vậy khi giới thiệu bài, giáo viên nên tạo không khí phấn khởi cho giờ học, thu hút sự chú ý, gây tâm lý chờ đón, hồi hộp cho học sinh, không nên “đi ngay” vào nội dung.           c. Xây dựng các nội dung giúp học sinh trải nghiệm.           Trong giáo dục mĩ thuật giáo viên cần xây dựng các nội dung giúp học sinh được trải nghiệm, phát triển không ngừng. Ở học sinh có sự khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát, trí tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể hiện con người, con vật, đồ vật về hình dáng, đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được kích thích thông qua các khả năng của bản thân cũng như trải nghiệm với người khác như: những thành viên trong gia đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết, với con vật yêu thích, đồ vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với sự vật, hiện tượng xung quanh
  13. thông qua các kênh thông tin như: ti vi, tạp chí, sách vở, truyện tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần học sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau về hình dáng, cấu trúc, tỉ lệ  như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật, biểu tượng người khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng, tùy theo từng chủ đề mà giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học sinh nhớ lại kiến thức, những kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ hội chia sẻ những gì các em đã biết khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ ước hay ý tưởng. Qua quá trình này học sinh sẽ có được những kiến thức thực tế  để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạt thông qua việc được nghe kể chuyện, chia sẻ những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh, hoặc tổ chức các trò chơi phù hợp với từng lớp học. Ví dụ: Ở chủ đề Chúng em với thế giới động vật  giáo viên nên tổ chức cho học sinh kể về con vật em thích nhất (hình dáng, màu sắc, đặc điểm nổi bật…) , hay sang đến chủ Đề “Sự chuyển động của dáng người” giáo viên tổ chức cho học sinh tạo dáng sẽ thấy ngay hiệu quả bất ngờ. Vì tạo dáng gây hứng thú học tập, giúp cho học sinh nâng cao hiểu biết về những tình huống sự kiện từ đời sống hàng ngày của các em. Học sinh tự tạo lại các dáng hoạt động từ những tình huống trong hoạt động chơi, làm việc hoặc học tập. Các em dễ dàng nắm bắt được hình dáng, tư thế của người khi hoạt động. từ đó tạo được nhiều sản phẩm đẹp.           d. Tổ chức hình thức học tập theo quy trình hiệu quả nhất.           Mỗi quy trình theo phương pháp Đan mạch đều có mục tiêu giáo dục khác nhau để giúp học sinh có thể phát triển khả năng tự học. Khi lựa chọn quy trình cần chú ý sắp xếp trình tự các bước sao cho có sự kết hợp hài hoà giữa phương pháp, nội dung và hình thức tổ chức lớp học. Vì nếu lựa chọn quy trình không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng học sinh học tập chán nản, thiếu ý tưởng sáng tạo. Ví dụ: nếu là chủ đề Vui chơi thì chỉ nên vận dụng quy trình tạo hình 3D (nặn) hoặc Vẽ cùng nhau, còn quy trình Tạo hình từ vật tìm được là không thể thực hiện được.           e. Kế hoạch giảng dạy một chủ đề (giáo án):           Mặc dù không có bất cứ một hướng dẫn cụ thể nào về việc xây dựng kế hoạch dạy học, nhưng theo chúng tôi mỗi chủ đề cần được thực hiện các tiết theo thứ tự như sau:           - Tiết 1: Học sinh tìm hiểu về chủ đề thông qua các hoạt động trải nghiệm, tham quan, quan sát thực tế…để hình thành ý tưởng cho tác phẩm của mình.           - Tiết 2: Học sinh thể hiện ý tưởng thông qua việc tạo hình 2D (vẽ biểu đạt, tạo ngân hàng hình ảnh)             - Tiết 3: Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm (vẽ cùng nhau, vẽ theo nhạc, tạo hình 3D…)                   - Tiết 4 trưng bày, giới thiệu sản phẩm. 1.3.2. Chủ đề Chúng em với thế giới động vật - thực hiện 4tiết.           Tiết 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chủ đề.Giáo viên gợi ý học sinh tìm hiểu hình dáng các con vật nuôi thông qua các câu hỏi gợi ý để các em thảo luận. Tổ chức trò chơi Thi vẽ nhanh một con vật mà em thích. Học sinh tìm ra cách vẽ các con vật sau
  14. khi trải nghiệm trò chơi. Học sinh vẽ những con vật nuôi mà mình thích vào giấy A4. Học sinh trong nhóm trao đổi và học hỏi cách vẽ. Tiết 2: Vẽ cùng nhau. Học sinh vẽ theo nhóm, kết hợp xé dán những con vật nuôi em thích (được lựa chọn từ những con vật các em đã vẽ ở tiết trước). Có thể chọn những con vật cùng môi trường sống, nhóm gia súc, nhóm gia cầm, nhóm con vật sống dưới nước, ở rừng…           Tiết 3:Tạo hình 3D.Học sinh nặn kết hợp xé dán hình các con vật theo nhóm, Trưng bày sản phẩm.          Tiết 4:Xây dựng và chia sẻ nội dung các câu chuyện       2. Biện pháp 2:  Xây dựng các chủ đề học tập có nội dung gần gũi, quen thuộc và phù hợp với khả năng nhận thức của các em.             2.1. Mục tiêu: Giúp học có thể khám phá, suy nghĩ, thể hiện về các trải nghiệm, quan điểm, cảm xúc và khả năng tưởng tượng của bản thân.       2.2. Cách thực hiện: Để xây dựng các chủ đề cho phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 4, phù hợp với khả năng của các em, trước hết giáo viên cần nghiên cứu nội dung, chương trình Mĩ thuật hiện hành, xây dựng kế hoạch dạy học Mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch. Đồng thời tham khảo Tài liệu tập huấn phương pháp dạy học Mĩ thuật mới để xây dựng các chủ đề cho đảm bảo mục tiêu giáo dục của môn học. Đây là tài liệu được biên soạn với sự giúp đỡ tận tình, tâm huyết của Giáo sư anne kirsten Fugl - Trường Đại học sealand, vương quốc Đan Mạch, và sự tham gia nhiệt tình của các giảng viên mĩ thuật Trường Đại học sư phạm Nghệ thuật Trung ương và một số Giáo viên ở các trường Tiểu học tham gia thí điểm. Tài liệu này sẽ giúp cho các giáo viên Mĩ thuật Tiểu học có thể vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới vào thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy nhiên tùy điều kiện vật chất của nhà trường, khả năng chuẩn bị đồ dùng học tập của học sinh mà giáo viên có thể bỏ bớt, thay vào chủ đề khác hoặc xây dựng số lượng tiết dạy theo từng chủ đề cho phù hợp.       2.3. Ví dụ minh họa:      Chủ đề Ngày hội hóa trang với phạm vi quá rộng, khó giải thích cho học sinh thì giáo viên có thể điều chỉnh thành các chủ đề như Sự chuyển động của dáng người. Nói chung, khi lựa chọn các chủ đề giáo viên cần quan tâm đến sở thích, tâm lý lứa tuổi, khả năng nhận thức của học sinh để có những nội dung học tập sinh động và hiệu quả nhất.      Bên cạnh đó, cần xây dựng kế hoạch giảng dạy linh hoạt và có sự tích hợp hài hòa các quy trình dạy - học mĩ thuật mới sao cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp 1 cũng như điều kiện thực tế tại địa phương, xác định rõ thời gian, số tiết, quy trình thực hiện, mục tiêu giáo dục của từng chủ đề ngay từ đầu năm học. Cần lưu ý lựa chọn thứ tự các chủ đề phải đi từ dễ tới khó, từ đơn giản đến sinh động…để học sinh dễ tiếp thu.Việc đề ra kế hoạch chi tiết giúp giáo viên chủ động hơn trong việc nâng cao nhận thức cho học sinh.      3. Biện pháp 3: Vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật mới phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. 
  15.      3.1. Mục tiêu: Tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự dựa trên những gì các em đã biết, những gì liên quan đế sở thích của các em.      3.2. Cách thực hiện: Bảy quy trình mĩ thuật theo phương pháp mới bao gồm:           1. Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu chuyện.           2. Quy trình Vẽ biểu cảm.           3. Quy trình Trang trí và vẽ tranh qua âm nhạc.           4. Quy trình Xây dựng cốt truyện.           5. Quy trình Tạo hình từ dây thép và vật tìm được.           6. Quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình không gian.           7. Quy trình Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật.       Những quy trình này tạo cảm hứng cho giáo viên và nó còn có thể điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế tại địa phương. Giáo viên có thể phát triển khả năng của học sinh ở các mức độ khác nhau trong các quy trình này như khả năng trải nghiệm, sáng tạo, biểu đạt, giao tiếp và đánh giá. Với bất kì quy trình dạy - học mĩ thuật nào, giáo viên cũng cần quan tâm đến việc dẫn dắt học sinh trao đổi, thảo luận trong suốt quy trình với các hoạt động học như thế nào và trưng bày tác phẩm hoàn thành ra sao. Cùng lúc với việc phát triển những khả năng nói trên, học sinh cũng có thể phát triển các giác quan, các kỹ năng sống, các năng lực hợp tác, kinh nghiệm và khả năng giải quyết vấn đề, năng lực tự học và tự đánh giá. Giáo dục mĩ thuật giúp học sinh có khả năng khám phá ra năng lực của mình thông qua các phương tiện khác nhau cũng như trải nghiệm những niềm vui thích  khi tạo ra những sản phẩm, những biểu đạt mang tính độc lập và đặc sắc của mình. Điều này giúp học sinh có thể sử dụng và ứng dụng ngôn ngữ mĩ thuật để có thể biểu đạt kinh nghiệm và thái độ của các em bằng nhiều cách khác nhau. Cụ thể là: - Năng lực giao tiếp được phát triển thông qua việc thảo luận, làm việc nhóm. - Năng lực đánh giá được phát triển qua quá trình quan sát,trải nghiệm và thưởng thức các sản phẩm mĩ thuật do chính các em tạo nên. Tuy nhiên, do cơ sở vật chất, không gian học tập, khả năng nhận thức của học sinh lớp Một chưa thể đáp ứng được yêu cầu khi dạy theo phương pháp mới nên giáo viên chỉ có thể áp dụng 5 quy trình, còn 2 quy trình Điêu khắc - Nghệ thuật tạo hình không gian, Tạo hình con rối và biểu diễn nghệ thuật chỉ có thể thực hiện ở các khối lớp lớn hơn. Một số lưu ý khi thực hiện 7 quy trình             - Giáo viên cũng cần phối hợp tích cực với phụ huynh, đồng nghiệp, Ban giám hiệu để phối hợp huy động nguồn lực dạy học Mĩ thuật hiệu quả; yêu cầu học sinh chuẩn bị các học liệu, đồ dùng học tập cho buổi học sau.             - Giáo viên cũng cần cho học sinh mang sản phẩm về nhà để trưng bày thành góc Mĩ thuật ở gia đình; nhà trường có thể tổ chức triển lãm, trưng bày sản phẩm của học sinh vào các ngày sinh hoạt tập thể.             - Họa phẩm và vật liệu phục vụ cho phương pháp dạy Mĩ thuật Đan Mạch, Sở yêu cầu tận dụng tối đa các phương tiện, đồ dùng học tập sẵn có, sử dụng linh hoạt các
  16. chất liệu học sinh đã có, hướng dẫn học sinh sưu tầm các chất liệu sẵn có ở địa phương, những vật dụng bỏ đi để tạo ra nhiều chất liệu phong phú trong các hoạt động dạy học Mĩ thuật. * Kết quả sau khi áp dụng: Hầu hết học sinh đều biết chủ động trong quá trình học tập, tự tin trước lớp, giao tiếp tiến bộ, năng lực sáng tạo, biểu đạt có tiến bộ rõ rệt.      4. Biện pháp 4: Xây dựng bầu không khí lớp học thân thiện, tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trò chơi.       4.1. Mục tiêu: Tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Học sinh cảm nhận được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động tập thể.       4.2. Cách thực hiện:       a. Xây dựng bầu không khí học tập thân thiện:      Để các học sinh tự tin hơn khi thực hiện các sản phẩm của mình thì rất cần một môi trường học tập thân thiện. Phong trào này cũng đã được Bộ Giáo dục-Đào tạo triển khai trong toàn ngành từ những năm gần đây, được xác định gồm 5 nội dung. Đó là:           - Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn.           - Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập.           - Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.           - Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh.           - Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương.         Do đó muốn xây dựng môi trường học tập thân thiện thì cũng phải thực hiện tốt các nội dung trên, nhưng ở phạm vi lớp học và tùy tình hình học sinh, cơ sở vật chất…mà giáo viên tổ chức cho phù hợp. Trước hết giáo viên cần thể hiện phong cách giao tiếp thực sự tôn trọng học sinh. Tất cả bề ngoài hình thức như dáng đi, đứng, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, ngôn ngữ đều phải thể hiện được sự thân thiện.Luôn giao tiếp thân thiện với học sinh trong mọi tình huống.      Mặt khác Mĩ thuật là một bộ môn phụ thuộc nhiều vào năng khiếu của từng cá nhân, do đó giáo viên không nên đòi hỏi quá nhiều ở các em. Học sinh hoàn thành sản phẩm đúng theo nội dung chủ đề, qua mỗi giờ học các em có thể nhận xét, đánh giá cái đẹp – cái chưa đẹp đã là thành công. Mỗi lời động viên, khích lệ dù rất nhỏ của giáo viên cũng có thể là một động lực lớn để các em cố gắng.      Khi học sinh thực hành, giáo viên cần phải theo dõi, quán xuyến chung, điều chỉnh, bổ sung những gì mà đa số học sinh chưa rõ hoặc còn lúng túng. Theo dõi giúp học sinh kém, động viên khích lệ học sinh khá, cụ thể là:         + Gợi ý học sinh nhận ra những thiếu sót ở bài vẽ để học sinh rút kinh nghiệm và tự sửa chữa.
  17.         + Động viên, khích lệ học sinh khá, giỏi tạo điều kiện cho các em suy nghĩ tìm tòi thêm,  nâng cao hiệu quả sáng tạo ở bài vẽ.      Ví dụ như khi học sinh vẽ biểu đạt : Tùy điều kiện thực tế, giáo viên khuyến khích học sinh lựa chọn chất liệu, màu sắc phù hợp để vẽ nhằm tăng tính biểu cảm. Giáo viên nên đi và quan sát cả lớp, đặt câu hỏi để giúp các em lựa chọn được màu sắc và nội dung đạt chất lượng. sau hoạt động này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh dùng khung tự tạo để xác định bố cục bức tranh trong Vẽ chân dung, và cả những bức tranh khác được sáng tạo trong suốt quá trình học mĩ thuật, tạo cho các em cách nhìn thẩm mĩ và phương pháp trình bày tác phẩm khi trưng bày bằng những câu hỏi gợi ý như:           - Em muốn thể hiện điều gì và em thể hiện nội dung đó như thế nào trong bức tranh này?           - Tại sao em sử dụng màu này?           - Hình ảnh trong tranh của em có theo những gì em muốn thể hiện không?           - Trong bài vẽ của mình, em muốn thêm hay bỏ chi tiết nào? Lí do?...      Mặt khác, dù dạy theo phương pháp cũ hay mới, giáo viên chuyên trách Mĩ thuật luôn gặp khó khăn chung với đối tượng học sinh lớp Một đó là : Các em không dám vẽ, sợ vẽ xấu các bạn chê cười, hay sao chép hoặc bắt chước ý tưởng của bạn. Khi vẽ các em hay tẩy xóa, thường vẽ hình quá nhỏ. Đây là hạn chế mà các em thường mắc phải nhiều. Nhất là giai đoạn đầu năm, các em còn bỡ ngỡ do chưa quen, thậm chí có em chưa một lần cầm bút vẽ, chưa nhận biết được tên các màu. Giáo viên phải biết cách phát huy các mặt mạnh của học sinh, luôn khen ngợi những học sinh có nét vẽ ngộ nghĩnh, động viên, khích lệ học sinh còn yếu. Động viên khích lệ kịp thời một tiến bộ dù nhỏ nhất của các em. Điều này sẽ giúp các em bớt mặc cảm tự ti và có tinh thần học tập hơn. Có em vẽ hình rất đẹp nhưng lại hay tẩy xoá vì các em sợ sai, vì các em chưa nhìn thấy được cái đẹp trong tranh của mình. Ngoài việc giải thích, giáo viên cần so sánh bài vẽ đẹp và chưa đẹp để học sinh hiểu thêm. Đồng thời nên tuyên dương thường xuyên những nỗ lực dù rất nhỏ của các em để các em tự tin hơn trong học tập.       b. Tăng cường tổ chức các trò chơi lồng ghép vào quá trình học tập:       Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì nhu cầu chơi, giao tiếp với bạn bè của các em học sinh lớp Một cũng không thể thiếu. Nếu giáo viên biết phối hợp nhịp nhàng giữa nhiệm vụ của hoạt động học với sự thỏa mãn nhu cầu chơi, giao tiếp của các em "Học mà chơi, chơi mà học" thì các em sẽ hăng hái, say mê học tập và một điều tất yếu là kết qủa học tập của các em sẽ được nâng lên. Đây cũng là một phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai thác  đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Khi tổ chức trò chơi,giáo viên cần lưu ý: + Lựa chọn trò chơi vừa sức với học sinh. Các em học đấy nhưng phải vui, khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Khi học mà như chơi thì việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, học sẽ trở thành là một trong những nhu cầu của học sinh. Song cần tìm những trò chơi sao cho nhiều em được tham gia sẽ phát huy tính tích cực hơn. Giáo viên cần lưu ý cần lựa chọn các trò chơi làm cho học sinh tự khám ra nội dung bài học một cách chủ động, thích thú và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu sắc. Trò chơi có chứa đựng những chủ đề, nội dung nhất định, có
  18. những quy chế nhất định mà học sinh phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học.Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng say vào học tập, chống mệt mỏi, tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh, lôi cuốn các em vào những hoạt động học tập.  Hay nói cách khác: trò chơi học tập là hoạt động được tổ chức có tính chất vui chơi, giải trí nhưng có nội dung gắn với bài học hay hoạt động học tập của học sinh. + Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học. + Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia. Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng cường khả năng giao tiếp và giúp các em rèn kỹ năng hợp tác. Có thể nói điều khiển tiến trình một cuộc chơi với học sinh lớp Một sao cho sôi nổi, sinh động, hấp dẫn lôi cuốn được tất cả các em tham gia chơi một cách thích thú nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu tiết học là không dễ. Vì nếu tổ chức sơ sài hoặc mang tính chất hình thức thì học sinh tham gia một cách miễn cưỡng, có em còn nhân dịp này để làm việc riêng, đùa giỡn gây mất trật tự lớp học. Còn nếu tổ chức quá chú trọng vào phần chơi mà quên đi phần học thì giáo viên sẽ khó mà quản lý lớp học đi đúng hướng.       Một số trò chơi có thể áp dụng như: thi vẽ nhanh, vẽ đẹp, tưởng tượng từ hình có sẵn vào đầu, cuối  tiết học hoặc trước khi thực hành. Đây chính là thời gian để các em luyện vẽ và tăng cường khả năng vẽ nhanh, vẽ đẹp và giúp các em phấn chấn tinh thần,hăng hái học tập hơn. Cách tiến hành như sau:           - Trò chơi Tưởng tượng từ hình có sẵn: Giáo viên vẽ lên bảng một số hình (có liên quan đến chủ đề đang học), yêu cầu các đội cử đại diện tham gia thi đua vẽ tiếp vào hình có sẵn để thành hình theo đúng chủ đề giáo viên yêu cầu. Ví dụ như chủ đề Con vật nuôi, giáo viên có thể vẽ lên bảng những hình như sau: Từ những hình này, học sinh vẽ tiếp thành hình các con vật mà em thích như: con trâu, con heo, con mèo, con thỏ…           - Trò chơi : Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhiều con vật nuôi ( hoặc vẽ một tranh). HS dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội thi vẽ phải ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ nhiều con vật (hoặc tranh đẹp nhất) là đội thắng cuộc…      Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các đội, không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một biện pháp làm
  19. cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được thầy cô quan tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên những đội còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên cần nhận xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc chơi giáo viên đánh gía cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công bằng, rõ ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đôi khi có giáo viên nêu yêu cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái, không chính xác hoặc không công bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và không chấp nhận kết luận của giáo viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê ra được những ưu điểm, nhược điểm của từng đội tham gia chơi. Tuy nhiên vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàng mang tính chất động viên, khích lệ là chính, tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi không thắng trò chơi.      5 . Biện pháp 5:  Tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh      5.1. Mục tiêu: Việc tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh nhằm giúp nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu của học sinh để có biện pháp cải thiện, hoàn thiện phương thức dạy và học để phát triển năng lực của học sinh.      5.2. Biện pháp thực hiện: Việc đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên được thực hiện ở các tiết cuối của mỗi chủ đề (hoạt động Trưng bày sản phẩm). Nó không đơn thuần là thực hiện một quy định bắt buộc để giáo viên ghi nhận vào Sổ theo dõi mà dựa vào đó giúp giáo viên nắm được năng lực, khả năng phối hợp của từng học sinh, từ đó có kế hoạch tổ chức dạy - học phù hợp và hiệu quả.Giáo viên không được đưa ra bất cứ một nhận xét nào về sản phẩm của các em. Mà tùy theo từng sản phẩm, giáo viên gợi ý các em có nên thêm vào, hay bỏ bớt các hình ảnh, nên chỉnh sửa hay thay đổi gì để tác phẩm đẹp hơn, từ đó các em tự rút ra được kiến thức và kinh nghiệm cho bản thân ở lần sau. Mặt khác cần theo dõi, đánh giá học sinh trong suốt quá trình tham gia các hoạt động chứ không chỉ là dựa trên đánh giá sản phẩm chung của nhóm. Mỗi học sinh có năng lực, sở trường riêng (em thì vẽ đẹp nhưng tạo hình bằng đất thì chưa đạt và ngược lại…) nên giáo viên cần quan tâm theo dõi để có những nhận xét, đánh giá cho hợp lý và đảm bảo khách quan.Giáo viên cần quan sát thái độ học tập và làm việc trong các nhóm, đánh giá sự tiến bộ của nhóm trên cơ sở thu thập những thông tin về sự tiến bộ của mỗi thành viên trong nhóm. Sản phẩm của nhóm thể hiện quá trình trao đổi, trình bày ý kiến và kỹ năng hợp tác của từng thành viên. Do đó việc nhận xét quá trình làm việc của nhóm không nên qua loa, đại khái. Càng đưa ra nhận định cụ thể càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho những lần làm việc sau. Những tiêu chí nhận xét cần thiết phải có:           - Sự phân công trong nhóm.           - Tinh thần thái độ làm việc của các thành viên trong quá trình thực hiện.           - Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.           - Thời gian hoàn thành sản phẩm.           - Kĩ năng trình bày nội dung tranh vẽ trước lớp.
  20.       Việc đánh giá kết quả không chỉ dựa trên thành tích chung của cả nhóm mà còn dựa trên sự đóng góp của từng thành viên trong nhóm. Để thực hiện việc đánh giá đảm bảo công bằng, đúng thực tế, giáo viên cần có sổ tay theo dõi ghi nhận ngay những cá nhân tích cực, cá nhân thụ động hay sáng tạo, những nhóm làm việc hiệu quả…Khi thực hiện việc đánh giá, giáo viên cần nêu rõ những mặt được và chưa được để học sinh nắm và thực hiện tốt hơn. Bên cạnh việc tuyên dương những học sinh tích cực, chăm chỉ, giáo viên cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở những học sinh chưa tập trung, lơ là, hay nói chuyện, làm việc riêng để các em có trách nhiệm và ý thức hơn.       Khi đánh giá hoạt động của một nhóm, giáo viên cũng cần lưu ý tới những tiến bộ của các em. Bởi vì sự tiến bộ đó thể hiện tinh thần, thái độ tiếp thu bài học có hiệu quả mà các em đạt được. Sản phẩm của một nhóm thường là hoàn thành tốt thì không có gì phải bàn, nhưng có nhiều trường hợp ở hoạt động trước các em chỉ hoàn thành hoặc chưa hoàn chỉnh, ở hoạt động sau lại có sản phẩm nổi trội hoặc xuất sắc thì rất cần sự ghi nhận của giáo viên. Đó chính là động lực để các em có tinh thần học tập tốt hơn ở các hoạt động sau.       Hiện tại việc đánh giá môn học được thực hiện theo thông tư 22, do đó đánh giá hoạt động nhóm là một phần quan trọng để làm căn cứ cho giáo viên thực hiện đúng thực chất, công bằng và khách quan. Nhất là đối với nội dung năng lực và phẩm chất, nếu giáo viên chỉ dựa trên cơ sở là sản phẩm mĩ thuật của các em là chưa đủ, chưa chính xác, mà phải dựa trên nhiều yếu tố như: Khả năng kết hợp với bạn, khả năng giao tiếp, tính tích cực, sáng tạo…Chính vì vậy, giáo viên cần coi trọng khâu đánh giá hoạt động nhóm của học sinh trong các giờ học, để đảm bảo các yêu cầu về chuyên môn, đạt mục tiêu giáo dục của môn học Mĩ thuật trong trường Tiểu học. III. HIỆU QUẢ DO SKKN MANG LẠI      Tính tới thời điểm hiện tại, học sinh đã quen và thực hiện tương đối tốt mô hình học tập mới này, áp lực học tập không còn là vấn đề với các em. Đây chính là hình thức dạy học theo phương pháp mở (kết thúc bài học này là mở ra một bài học mới), tăng cường dạy học hợp tác nhưng vẫn coi trọng cá thể hóa học sinh. Tạo cơ hội cho học sinh thực hành các bài tập ứng dụng thiết thực, phục vụ cho học tập và cuộc sống.      Qua việc học tập theo phương pháp mới giúp cho học sinh có được những trải nghiệm để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát triển sức sáng tạo và biểu đạt, vì vậy học sinh sẽ có được những hình ảnh và động lực mang tính tinh thần. Hạn chế được cảm giác lo sợ vì không biết vẽ của các em. Học sinh biết bảo vệ ý thức chủ quan của bản thân  khi vẽ tranh, không bị ảnh hưởng bởi lời chê bai của các bạn khác. Học sinh được bồi dưỡng rèn luyện  óc quan sát, cách so sánh sự vật hiện tượng, giúp các em tìm tòi thể hiện để vươn tới cái đẹp. Các em cảm nhận được cái đẹp và chưa đẹp một cách rõ ràng qua việc nhận xét hình ảnh, tranh vẽ. Biết tạo ra các sản phẩm làm đẹp phục vụ cho sinh hoạt như: trang trí đồ vật, trang trí góc học tập. Một điều không thể không nhắc tới đó là học sinh yêu thích môn học hơn, vẽ một cách say sưa hơn, hứng thú với nhiều sáng tạo, khiến cho tiết học  trở nên thoải mái, nhẹ nhàng. Quan trọng hơn cả là các em đã thấy tự tin khi vẽ, tạo được những câu chuyện ngộ nghĩnh mang hiệu quả bất ngờ, đẹp mắt.         Số học sinh còn tẩy xóa bài vẽ giảm đi đáng kể, hiện tượng sao chép cũng không còn. Đặc biệt là không có học sinh nào không hoàn thành được bài thực hành theo nội

nguon tai.lieu . vn