Tại sao Phật Giáo có nguồn gốc ở ấn Độ những người dân ấn Độ lại không theo Đạo Phật

Tất-đạt-đa Cồ-đàmSửa đổi

Đức Phật sinh ra ở Lâm-Tỳ-Ni ở đồng bằng miền Trung, thuộc Nepal, là con trai của Tịnh Phạn - thủ lĩnh dân Shakya tại Kapilvastu. Sau khi tu khổ hạnh và thiền định theo kiểu thực hành Samana, Đức Phật đã khám phá ra Trung đạo của Phật giáo, một con đường điều độ từ những thái cực của sự sa ngã và tự hành xác.

Tất-đạt-đa Cồ-đàm đạt được giác ngộ ngồi khi dưới một cây bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Tất-đạt-đa, từ đó về sau, được gọi là"người tự Giác Ngộ hoàn hảo", hay Phật. Đức Phật đã được sự bảo trợ của nhà cai trị Magadha, vua Tần-bà-sa-la. Vị hoàng đế chấp nhận Phật giáo là đức tin cá nhân và cho phép thành lập "tịnh xá" Phật Giáo. Điều này cuối cùng dẫn đến việc thay đổi tên của toàn bộ vùng này thành Bihar.[6]

Tại khu vực bảo tồn nước công viên hưu gần Varanasi ở miền bắc Ấn Độ, Đức Phật bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân"cho nhóm năm người, mà trước đây ông đã tìm cách giác ngộ. Năm vị Tỳ-kheo đó trở thành năm đệ tử đầu tiên của ông và là hạt nhân đầu tiên của Tăng-già, một trong"Ba ngôi báu"hay Tam bảo, ba cơ sở chính của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng, tức là bậc giác ngộ, giáo pháp của bậc giác ngộ và những người bạn đồng học.

Trong những năm còn lại của cuộc đời mình, Đức Phật được cho là đã đi du lịch ở đồng bằng Bắc Ấn Độ sông Hằng và các vùng khác.

Đức Phật đã đạt được Niết Bàn tại Kushinagar.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ UNESCO World Heritage Centre. “Mahabodhi Temple Complex at Bodh Gaya”. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  2. ^ Monier-Williams, Monier. Dictionary of Sanskrit. OUP.
  3. ^ Akira Hirakawa, Paul Groner, A history of Indian Buddhism: from Śākyamuni to early Mahāyāna. Reprint published by Motilal Banarsidass Publ., 1993, page 2.
  4. ^ Guang Xing. The Concept of the Buddha: Its Evolution from Early Buddhism to the Trikaya Theory. 2004. pp. 65–66"Several scholars have suggested that the Prajñāpāramitā probably developed among the Mahasamghikas in Southern India, in the Andhra country, on the Krsna River."
  5. ^ The New York times guide to essential knowledge: a desk reference for the curious mind. Macmillan 2004, page 513.
  6. ^ India by Stanley Wolpert (Page 32)

Nguyên nhân chủ quan

- Theo tường thuật của Pháp Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh, những người đến Ấn Độ vào các thế kỷ V, VI, và VII thì lúc bấy giờ các Tăng sĩ Ấn Độ đã bộc lộ sự suy thoái đạo đức. Họ sống xa hoa và không biết tiết độ trong ăn uống. Họ có gia đình và đem cả vợ con vào chùa ở mà không hề biết xấu hổ.

Các chùa bắt đầu làm kinh tế, và chư Tăng trở thành thương gia hay nhà công nghiệp. Họ cũng chăn nuôi và nuôi tớ trai, tớ gái. Họ sở hữu những tài sản, cả động sản lẫn bất động sản, với số lượng lớn. Nói chung thì họ chỉ thích làm công việc thế gian, trong khi đó thì hoàn toàn lơ là với lời Phật dạy, không học cũng không tu.

- Thật ra sự suy thoái đạo dức của chư Tăng Ấn Độ còn nhiều khía cạnh để bàn chứ không nên nhìn một cách đơn giản. Ví dụ như thời vua Asoka, do vì vua quá ủng hộ Phật giáo nên chư Tăng được nhiều ưu đãi. Điều này đã thu hút những tầng lớp bất hảo của xã hội. Họ vào chùa để khỏi phải đi lính và lao động nhưng lại được hưởng nhiều quyền lợi. Đã thế thì hẳn nhiên họ không thể nào họ tu hành một cách chơn chánh.

Điều này đã làm cho những vị chân tu bất bình và kết quả là suốt bảy năm không hề tổ chức an cư kiết hạ và bố-tát, khiến cho vua Asoka phải làm một cuộc thanh lọc và đuổi 60 ngàn Tăng sĩ giả ra khỏi Tăng đoàn. Dù sao đi nữa thì tình trạng sa đọa của chư Tăng là có thật, và điều này đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ.

- Thiếu tổ chức là một nguyên nhân khác. Phật giáo từ xưa đến nay không có một tổ chức chặt chẽ đối với Tăng đoàn và nhất là đối với cộng đồng Phật tử tại gia. Các tín đồ Phật giáo không có một sự liên kết đồng nhất và xây dựng một tổ chức đặc thù cho hàng tại gia như tín đồ ở các tôn giáo khác. Tính không tổ chức ở đây còn thể hiện ở chỗ là Phật giáo không có một chương trình để ràng buộc tín đồ gắn bó với đạo Phật từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Đọc thêm: Chiêm bao mơ thấy em bé ị đánh số đề con gì? là số mấy?

Ở các tôn giáo khác, khi đứa trẻ vừa sinh ra thì họ đã đem đến đền thờ hoặc nhà thở để làm lễ cho đứa bé như lễ rửa tội của đạo Thiên Chúa, coi như đứa trẻ đó đã là một tín đồ rồi. Cho nên một người theo đạo là cả nhà theo đạo, một nhà theo đạo là cả dòng họ theo đạo, và được tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Còn đối với Phật giáo, theo đạo là một việc làm tự nguyện, hơn nữa còn được khuyến khích là hãy suy nghĩ và tìm hiểu kỹ càng trước khi quy y. Truyền thống này thật ra đã có từ thời Đức Phật. Chính Đức Phật không bao giờ tìm cách kêu gọi người khác quy y cho đến khi nào người ta thật sự mong muốn.

Tuy nhiên, khi Đức Phật còn tại thế, người ta đến với đạo Phật thông qua nhân cách tuyệt vời của Đức Phật. Nhưng khi không còn Đức Phật nữa, nếu như chư Tăng không thể thu hút họ thì họ hoặc là con cháu họ sẽ bỏ đạo Phật mà theo đạo khác. Việc không thành lập một cộng đồng Phật giáo chuyên biệt, lúc bình thường thì có vẻ như vô hại, nhưng khi Phật giáo gặp nạn thì không thể nào chống đỡ nổi vì không có tổ chức, không có người lãnh đạo, và điều này đã đúng với Phật giáo Ấn Độ.

- Khi Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ, họ sát hại tất cả các tôn giáo bản địa khác như đạo Hindu, đạo Jain, và dĩ nhiên là đạo Phật, tuy nhiên trong khi những tôn giáo khác phục hồi lại được thì chỉ có Phật giáo là bị diệt vong tại Ấn Độ. Vì sao như vậy? Vì các tín đồ Phật giáo, như Jacobi đã chỉ ra, “như thể là người ngoài, người bạn, và người ủng hộ của Tăng đoàn mà thôi”. Còn Tăng đoàn thì họ còn cúng dường, ủng hộ. Khi Tăng đoàn tan rã thì họ cũng tan rã theo. Không có ai đứng ra kêu gọi bảo vệ Phật pháp.

Xem thêm: Đạo mẫu - Tín ngưỡng thuần Việt đang bị lãng quên

chuabuuchau.com.vn,chuabuuchau, chua buu chau, chùa bửu châu, chua buu chau cu chi

Tại sao Phật Giáo có nguồn gốc ở ấn Độ những người dân ấn Độ lại không theo Đạo Phật
  • Danh mục
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
    • Hòa Thượng Khai Sơn
    • Đôi nét về Chùa Bửu Châu
    • Sinh hoạt nội bộ
  • TIN TỨC
  • TỪ THIỆN
  • TU HỌC
    • Thiền
    • Tịnh Độ
    • Mật Tông
    • Duy Thức học
    • Phật Pháp vấn đáp
    • Sức khỏe - Sống - Chết - Tái sinh
  • KINH SÁCH
    • Kinh giảng
    • Luật giảng
    • Luận giảng
    • Kiến thức Phật pháp
  • LIÊN TÔNG TINH ĐỘ NON BỒNG
  • PHÁP ÂM
    • Video
      • Thích Nhật Từ
      • Thích Trí Huệ
      • Thích Pháp Hòa
      • Pháp Sư Tịnh Không
      • Hòa Thượng Tuyên Hóa
      • Thích Trí Quảng
      • Thích Phước Tiến
      • ĐĐ. Thích Minh Thành
      • Thích Thiện Thuận
      • Thích Thiện Xuân
      • Thích Nhất Hạnh
      • Thích Thanh Từ
      • Thích Chân Quang
      • Thích Chân Tính
      • Thích Giác Hạnh
      • TT. Thích Minh Thành
      • Thích Bửu Chánh
      • Thích Thiện Tuệ
      • Thích Vạn Mãn
      • Thích Nữ Hương Nhũ
      • Thích Nữ Như Lan
      • Thích Thiện Chơn
      • Thích Thông Phương
      • Thích Tuệ Hải
      • Thích Viên Minh
      • Thích Thiện Hữu
      • Thích Minh Niệm
      • Thích Giác Hóa
      • Thích Tâm Đức
      • Thích Phước Tịnh
      • Thích Chiếu Khánh
      • Thích Nữ Tâm Tâm
      • Thích Nữ Hạnh Chiếu
      • Thích Nguyên Hạnh
      • Thích Quang Thạnh
      • Thích Trí Siêu
      • Thích Thiện Pháp
      • Thích Chân Hiếu
      • Thích Pháp Đăng
      • Thích Trí Chơn
      • Thích Nguyên An
      • Thích Giác Đăng
      • Thích Minh Hiếu
      • Thích Giác Khang
      • Thích Trúc Thái Minh
      • Thích Giác Tây
      • Thích Đồng Thành
      • Thích Trung Đạo
      • Thích Thái Hòa
      • Thích Giới Đức
      • Thích Giác Toàn
      • Thích Thông Triết
      • Thích Khế Định
      • Thích Nữ Như Thủy
      • Thích Minh Đạo
      • Thích Giải Hiền
      • Thích Nguyên Hiền
      • Thích Minh Chơn
      • Thích Trí Đức
      • Thích Tánh Tuệ
      • Thích Giác Giới
      • Thích Phước Đức
      • Thích Viên Trí
      • Thích Thiện Chấn
      • Ấn Quang Đại Sư
      • Thích Minh Thông
      • Thích Giác Nhiên
      • Thích Trúc Thông Phổ
      • Thích Quảng Thiện
      • Thích Thiện Huệ
      • Thích Từ Thông
      • Thích Pháp Hải
      • Thích Ngộ Thông
      • Thích Chánh Định
      • Thích Phước Nghiêm
      • Thích Duy Lực
      • Thích Nữ Huệ Liên
      • Thích Chân Giác
      • Thích Pháp Quang
      • Thích Thiện Hoa
      • Thích Minh Nhãn
      • Thích Tịnh Quang
      • Thích Tâm Hải
      • Giảng sư khác
    • Kinh tụng
    • Nhạc Phật giáo
    • Phim Phật giáo
    • Hòa tấu - Thiền Phật giáo
  • NGHIÊN CỨU
    • Các mảng khác
      • Chuyên đề
      • Gương sáng Đời Tu
      • Giáo dục Hoằng Pháp
      • Phật giáo và Khoa học
      • Phật giáo và Tuổi trẻ - Đời sống
      • Phật giáo và Môi sinh
      • Phật giáo và Nữ giới
      • Phật giáo và Hôn nhân
      • Phật giáo và Triết học
      • Phật giáo và Cuộc sống
    • Nghi thức tổng hợp
    • Sử Phật giáo
    • Văn hóa
    • Truyện tích Phật giáo
    • Lời tiền nhân
    • Văn học
    • Góc suy ngẫm
    • Lời Phật dạy
    • Nghệ thuật sống
    • Luận văn - Hội thảo
  • HÌNH ẢNH
    • Ảnh Phật và Bồ Tát
    • Tập ảnh Chùa Bửu Châu
×
  • Trang chủ
  • THƯ VIỆN NGHIÊN CỨU
  • Sử Phật giáo
  • Vì sao Phật Giáo suy tàn tại Ấn Độ
  • Vì sao Phật Giáo suy tàn tại Ấn Độ

    Vì có nhiều người thắc mắc việc Đạo Phật biến mất trên đất Ấn Độ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Độ, cũng là một người trưởng thành trong xã hộiẤn Độ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến quývị.
    * * *

    Tại sao Phật Giáo có nguồn gốc ở ấn Độ những người dân ấn Độ lại không theo Đạo Phật
    Sự biến mất của Đạo Phật ở Ấn Độ, nơi nó đã được sinh ra, trưởng thành và đạt đến những thành tựu cao nhất, là một hiện tượng đáng ngạc nhiên và đau lòng. Thế nào và tại sao Đạo Phật đã không tồn tại lâu dài trong những người gần gũi nhất với nó là một vấn đề khó hiểu với nhiều ý kiến bất đồng. Quan điểm chung của các nhà học giả Ấn Độ là sự xao lãng và sa đọa trong đời sống Đạo Đức và Tâm Linh của giới tu sĩ Phật Giáo, Tăng cũng như Ni. Tuy nhiên nhìndưới ánh sáng lịch sử, việc cho rằng sự xuống dốc về đạo đức của hàng ngũ Tăng Già Phật Giáo dường như là chuyện hoang đường không có những bằng chứng xác đáng. Nói như Swami Vivekananda rằng: Phật Giáo phải chết, một cái chết tự nhiên trên đất Ấn Độ vì những đệ tử của Phậtđã từ bỏ đấng Thượng Đế vĩnh hằng ra khỏi đất nước cũng không đúng. Nếu đó là lý do thì tại sao Kỳ Na Giáo đã tồn tại trên đất Ấn khi Mahavira cũng không thừa nhận Thượng Đế là đấng Tối Cao. Tín đồ Kỳ Na Giáo, cũng giống như Phật Giáo, không thừa nhận thẩm quyền của kinh điển Vệ Đà. Vì vậy, đó không phải là lý do suy tàn của Phật Giáo trên đất Ấn.

    Theo quan điểm của chúng tôi, Phật Giáo đã chết một cái chết không tự nhiên, và những nguyên do đưa đến sự biến mất của nó là những nguyên do bên ngoài hơn là bên trong. Không chỉ thế, một chiến dịch có hệ thống và tính toán đã được tiến hành vì quyền lợi ích kỷ của người Bà La Môn Giáo đã đẩy Phật Giáo ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của nó. Lý do là vì Đức Phật đã lên án chế độ giai cấp và nhấn mạnh vào sự bình đẳng của mọi người. Trong khi đó tín đồ của Bà La Môn bằng mọi cách bảo vệ hệ thống giai cấp để bám lấy những ưu đãi của họ trong sự phân chia giai cấp đó, nhưng tín đồ Phật Giáo, không giống như tín đồ Kỳ Na Giáo, không chịu thỏa hiệp trên vấn đề nầy. Điều nầy đã đưa đến mâu thuẩn. Người Bà La Môn một mặt phát động chiến dịch chống Phật Giáo, ngược đãi tín đồ Phật Giáo, một mặt đem những điểm tốt của Phật Giáo vào hệ thống của họ để thuyết phục quần chúng. Những yếu tố ngoại tại, cộng với một vài sai lầm nội bộ đã nhanh chóng làm Phật Giáo suy tàn tại Ấn Độ.

    XUNG ĐỘT GIỮA BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO

    Trước khi có Phật Giáo, Ấn Độ chưa từng biết đến những đạo lý về bình đẳng và tình huynh đệ. Theo Nguyên Nhân Ca(Purusha Suka) của kinh Lê Câu Phệ Đà(Rig Veda), chủng tộc Bà La Môn sinh ra từ miệng, chủng tộc Sát Đế Lợi (Kshatriya) sinh ra từ tay, chủng tộc Phệ Xá (Vaishya) sinh ra từ đùi, và chủng tộc Thủ Đà La(Sudra) sinh ra từ bàn chân của Brahma là Thần Sáng Tạo. Xã hội này đặt nền tảng trên nguồn gốc thần thoại Chaturvarna và được quy định bằng nguyên lý phân biệt giai cấp; giai cấp Bà La Môn được xếp hàng đầu, tiếp đến là giai cấp Sát Đế Lợi, Phệ Xà, và Thủ Đà La là thấp nhất. Quy luật về sự phân biệt giai cấp cũng quy định những quyền lợi và ưu thế của họ. Ngay cả những hình phạt về sự phạm tội cũng được đặt trên nền tảng khác biệt giai cấp. Người Bà La Môn sẽ bị hình phạt nhẹ nhất và người thuộc giai cấp Thủ Đà La sẽ bị hình phạt nặng nhất. Như vậy, toàn bộ cơ cấu xã hội được đặt trên nguyên tắc bất bình đẳng.

    Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng chống lại những luật lệ xã hội áp bức đó và lên án hệ thống giai cấp. Ngài không thừa nhận nguồn gốc linh thiêng của giai cấp, và chứng minh sự dối trá của giai cấp Bà La Môn khi tuyên bố rằng họ sinh ra từ miệng của Brahma. Ngài bác bỏ lời tuyên bố của người Bà La Môn, họ cho rằng chỉ có họ mới có thể đạt đến những đức hạnh tâm linh, và khẳng định rằng người trong bất kỳ giai cấp, màu da hay tín ngưỡng nào đều có thể phát triển trong tâm họ những đức hạnh đó. Ngài còn đi xa hơn nữa:

    - Hãy làm cho không còn ai, nam hay nữ, bất kỳ thuộc nền tảng kinh tế xã hội nào, bị cản trở trên con đường đạt đến sự toàn thiện. Đó là quyền của mỗi người, khả năng bên trong của mỗi người, và sự toàn thiện đó có thể đạt đến do sự cố gắng không ngừng của riêng mỗi người, không do sự giúp đỡ của một tha nhân, thần thánh hay siêu nhiên nào.

    Đức Phật còn dạy rằng: Tất cả mọi người đều giống nhau, nếu phân chia họ ra một cách nhân tạo là hành động điên rồ. Trong kinh Vesttha, Ngài nói rằng: Trong đời sống của loài thú có những sự khác biệt dựa trên nhữngđặc tính nền tảng khác nhau. Trong đời sống của các loài cây cỏ cũng vậy. Nhưng không có những sự khác biệt như thế trong sự phân loại loài người thành những ngăn kín, vì nhân loại là một và có cùng những đặc tính như nhau. Vì vậy, Đức Phật khẳng định một cách dứt khoát: Giá trị là đặt nền tảng trên những hành động, chứ không phải trên sự sinh ra, một sự việc vô tình, không phải là thước đo con người. Ngài cũng bước những bước cụ thể trong việc nhổ tận gốc sự tệ hại của giai cấp. Những bước đó là: Phơi trần huyền thoại về nguồn gốc thượng đẳng do người Bà La Môn tuyên bố về họ; khuyến khích giai cấp thấp bằng cách thọ trai tại nhà họ; và chấp nhận những người thuộc giai cấp thấp xuất gia và được coi ngang hàng với những người khác trong hàng ngũ Tăng Già. Hô hào các Tỳ Kheo quên giòng giống giai cấp của họ, một lần Đức Phật nói: Này các thầy, giống như những giòng sông, sông Hằng, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Sarasvati, và sông Mahi khi chúng đều chảy về biển lớn. Cũng như vậy, này các thầy, bốn giai cấp: Bà La Môn, Sát Đế Lỵ, Phệ Xá, và Thủ Đà La khi họ đi theo giáo pháp và giới luật của Như Lai, họ từ bỏ những khác biệt của giai cấp và sắp hạng, và trở thành những phần tử của một khối duy nhất và đồng nhau.

    Ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch, người Bà La Môn giáo tìm sự cứu rổi và giải thoát bằng những tế lễ hy sinh, người theo đạo Kỳ Na và Ajivaka tế lễ bằng sự tự hành hạ thân xác. Đức Phật trái lại dạy đệ tử của Ngài vượt qua biển khổ luân hồi bằng cách đem sự tốt đẹp cho chúng sanh khác, thay vì làm hại họ hay hại chính bản thân mình. Ngài dạy con đường đi đến Niết Bàn bằng những phương tiện:
    1- Tự điều khiển, tự tiết chế, và giảm thiểu những đam mê;
    2- Mở lòng thương yêu tất cả mọi loài, người, chim muông, thú vật; và
    3- Giúp đỡ người nghèo yếu.

    Ngài cũng nhấn mạnh:
    a- Cơ hội bình đẳng cho mọi người;
    b- Thân thế bình đẳng cho mọi người;
    c- Tự do tư tưởng; và
    d- Tình huynh đệ toàn khắp.

    Khi Đức Phật giảng Giáo Pháp của Ngài, nó lôi cuốn quần chúng ở khắp mọi giới; giàu và nghèo, cao sang và thánh thiện, thấp thỏi và hạ tiện. Những người thuộc giai cấp Bà La Môn cũng không bị bỏ rơi. Thật vậy, phần lớn các đệ tử thân cận của Đức Phật là những người thuộc giai cấp Bà La Môn. Ngay cả về sau, một số những ngọn đuốc dẫn đầu trong Đạo Phật là những vị từ Bà La Môn quay về. Trong những thế kỷ tiếp sau, giáo lý xã hội của Đức Phật đã tạo một sức đẩy làm xã hội Ấn Độ tiến lên, và những giai cấp thấp xác định quyền bình đẳng của họ, vì vậy mà tín đồ Bà La Môn đã quay lại chống đối Phật Giáo.

    Thật sự, người Bà La Môn không chống đối Phật Giáo trên những giáo lý thuộc triết lý hay đạo đức, nhưng điều mà họ không thích là tư tưởng về sự bình đẳng trong Đạo Phật. Như Tiến sĩ Ambedkar nói:

    - Bất bình đẳng là giáo lý chính thức của đạo Bà La Môn. Đức Phật chống lại gốc rể và cành lá của nó. Ngài là một đối thủ mạnh mẽ nhất của chế độ đẳng cấp và là cột trụ vững chãi nhất của tinh thần bình đẳng. Không có một lý lẽ nào về vấn đề giai cấp mà ngài không bác bỏ.

    Chúng ta không nghi ngờ rằng, được khuyến khích với tinh thần bình đẳng do Đức Phật dạy, những người giai cấp thấp trong xã hội xác định quyền tự do của họ và chống lại sự ưu thế của người Bà la môn. Điều nầy làm suy yếu nền tảng của hệ thống giai cấp và đã hạ tầng giai cấp Bà La Môn xuống tận đất.

    Khi Đạo Phật yếu đi chút đỉnh, người Bà La Môn giáo dùng mọi cách để lấy lại quyền lực và danh vọng đã mất. Họ không những cố gắng phục hồi lại hệ thống giai cấp mà còn tìm cách hủy diệt những giáo pháp của Đức Phật khỏi đất nước Ấn Độ. Xin trích lời của Har Dayal:

    - Những thầy tế triệt tiêu ngôn ngữ Pali trên đất Ấn. Họ không những ghét tiếng Pali về phương diện giáo lý, triết học hay những giới luật của Đức Phật. Họ biết Đức Phật là một vị Thầy lớn lao và tôn sùng Ngài. Nhưng họ muốn rằng những lời dạy tuyệt vời của Đức Phật không được nghe thấy trên đất Ấn, vì những lời dạy nầy có năng lực phá hủy thành lũy giai cấp. Họ nói: Dù tiếng Pali tiêu diệt; dù nước Ấn Độ tiêu diệt; nhưng giai cấp của chúng ta phải nắm quyền lãnh đạo.

    Để tranh đấu với Đạo Phật, người Bà La Môn phải làm nhiều việc sửa đổi trong những giáo lý của họ. Họ bỏ sự hy sinh súc vật để cúng tế. Họ cũng bải bỏ giáo lý cho rằng các kinh điển Phệ Đà không thể sai lầm. Tuy nhiên, về quan điểm phân chia giai cấp (Chaturvarna), họ không chịu đầu hàng. Họ phải thừa nhận tác dụng của những lý lẽ của Đức Phật chống lại Chaturvana. Và họ phát động một sự điều chỉnh triết học cho Chaturvana được tìm thấy trong sách Bạt Già Phạm Ca (Bhagavad-Gita), một tác phẩm có trước Phật. Nói như P.L. Narasu trong cuốn Cốt Tủy Đạo Phật:

    - Mục đích chính của Gita là lén lút ủng hộ sự lãnh đạo và danh vọng của giai cấp Bà la môn, ra đời để đáp ứng những nhu cầu mà Đạo Phật đã làm thỏa mãn. Bất cứ điều gì cao thượng và tuyệt vời trong Gita là điều mà Bà La Môn giáo đã vay mượn từ đối thủ của nó và xử dụng cho mục đích riêng tư của mình. Đặc biệt là để ngăn chặn những người Thủ Đà La không từ bỏ niềm tin cố cựu của họ. Phần còn lại là một khối những lặp đi lặp lại, những mâu thuẩn, những sự vô lý, kết quả của một cố gắng không thành công trong việc làm dung hòa mọi phương diện trong quan điểm truyền thống.

    Mục đích chính của Bạt Già Phạm Ca là bảo vệ, làm mạnh hệ thống giai cấp được thấy rõ trong cách giải thích chữ Dharma (Pháp). Nghĩa chữ Dharma trong Phệ Đà là những nghi lễ hay những nghi thức. Trong Gita cũng như trong Manu-Smriti, chữ Dharma được dùngcó nghĩa là: Những bổn phận của bốn giai cấp trong thế gian. Trong Gita, Krishna bảo Arjuna chiến đấu, vì đó là Dharma (bổn phận giai cấp) của ông ta. Ông ta còn nói:

    - Thà chết mà làm tròn bổn phận của giai cấp; làm theo những bổn phận dành riêng cho giai cấp khác là việc làm nguy hiểm.

    Tín đồ Phật Giáo trái lại không chịu từ bỏ sự chống đối của họ đối với tư tưởng Chaturvarna. Đó là lý do đầu tiên của sự chống đối giữa Phật Giáo và Bà La Môn giáo.

    Tiến sĩ Amberka tìm dấu vết nguồn gốc mâu thuẩn giữa Phật Giáo và Bà La Môn giáo từ một nguồn khác. Ông nói:

    - Khi đọc qua toàn bộ Văn Học Phật Giáo, tôi thấy rằng 90% tín đồ Phật Giáo trước kia là những người Bà la môn. Những người Bà La Môn thường đến gặp Đức Phật để thảo luận và tranh cải, và khi thua, thường đặt tin tưởng vào Đức Phật và cuối cùng chấp nhận Phật Giáo. Văn Học Phật Giáo chứa đầy những sự việc như vậy. Vì vậy, Phật Giáo là một tôn giáo đã nẩy nở giữa đại đa số những người Bà La Môn, làm thế nào về sau lại bị chính những người Ba la môn tiêu diệt?

    Theo quan điểm của chúng tôi, lý do chính của sự việc nầy là sự thờ cúng thần linh gia đình. Ở Ấn Độ, giống như thần làng và thần nước, có những vị thần gia đình cũng được những người Bà La Môn thờ cúng. Nhữngthầy tế thường thờ cúng những vị thần nầy bắt đầu gây ảnh hưởng vào quốc sự qua những bà hoàng. Vua A Dục (Ashoka) sau khi quy y theo Phật Giáo đã từ bỏ việc thờ cúng đó và dời tượng của những thần dùng trong việc thờ cúng nầy. Vua A Dục nói:

    - Khi ta tôn kính Đức Phật, đấng Giác Ngộ, thì không cần thờ cúng vị thần linh nào khác.

    Hành động nầy của vua A Dục làm cho những người Bà La Môn lo lắng không ít vì nó chấm dứt những phương tiện sinh sống và bóc lột bất công của họ. Họ nguyện sẽ phục thù cho sự mất mát đó.

    Những người Bà La Môn có quan niệm rằng:

    - Sau khi chết những ông vua sẽ bị đọa vào địa ngục vì những sai lầm và thiếu sót của họ. Vì vậy, họ không đồng ý làm những người lãnh đạo, nhưng muốn làm những Cố Vấn Tối Cao của các vị Vua. Để trả thù sự mất mát vì việc chấm dứt sự thờ cúng những thần gia đình (Kulapuja), những người Bà La Môn từ bỏ phương châm chỉ làm những người cố vấn, họ cố gắng nắm lấy quyền lực. Với sự giúp đở của những người Sát Đế lỵ, họ thiết lập trục Bà La Môn-Sát Đế lỵ để chống lại Phật Giáo. Ưu thế của Bà La Môn giáo trở lại ở Ấn Độ là một trong những nguyên do suy sụp của Phật Giáo.

    Sự nổi bật của Phật Giáo từ sự hạ thấp giai cấp Bà La Môn, cũng đưa đến sự dãy chết của những quyền lợi thiêng liêng của những Vua chúa thuộc giai cấp Sát Đế lỵ. Vì vậy, không nghi ngờ gì những người thuộc giai cấp Sát Đế Lỵ, trong những giai đoạn đầu là những người ủng hộ Phật Giáo, về sau trở nên đối lập với Phật Giáo. Như một nhà văn viết:

    - Những người Sát Đế Lỵ sợ Phật Giáo vì nó đe dọa nền tảng và sự hiện hữu giai cấp của họ, vì những người bị áp bức được khuyến khích bởi những giáo lý bình đẳng tìm cách vùng dậy.

    Như vậy, để bảo đảm sự an toàn cho những quyền lợi của họ, những người Sát Đế Lỵ tham vọng âm mưu với những người Bà La Môn và bước từng bước củng cố hệ thống giai cấp. Bằng sự sắp xếp chung, giai cấp Sát Đế Lỵ được đồng ý làm Vua và những người Bà La Môn là những đại thần. Sự thỏa hiệp nầy bảo đảm quyền lực và danh vọng cho cả hai giai cấp nầy và sự thấp kém vĩnh viễn của những giai cấp khác, mà Phật Giáo sẽ không bao giờ tha thứ. Vì vậy, để giữ quyền lực chính trị trong tay họ, hai giai cấp nầy tạo một mặt trận thống nhất chống lại và phá rối sự phát triển của Phật Giáo.

    SỰ GÂY THÙ HẬN

    Tôn giáo của Đức Phật là một cái gai trong mắt những người Bà La Môn phản động, vì nó đã lật đổ giai cấp thầy tế khỏi ngôi vị cao của nó, mà bao nhiêu thế kỷ đã bảo đảm cho họ mọi thứ ưu đãi và tiện nghi vật chất. Vì vậy khi ảnh hưởng của Phật Giáo suy yếu, họ trả đũa và tấn công Phật Giáo bằng nhiều cách để trả thù sự mất mát của họ.Họ dùng những ngôn ngữ tồi tàn nhất và những mánh khóe tồi tàn nhất để nhục mạ và hạ thấp Phật Giáo dưới mắt quần chúng.Ngay cả họ còn bẻ cong ý nghĩa từ và thành ngữ riêng của Phật Giáo. Chúng tôi hy vọng rằng sự phân tích phê bình trong những đoạn sau đây sẽ có thể làm cho độc giả nhận thức được tầm quan trọng trong thảo luận của chúng ta:

    1) Vua A Dục, một vị vua Phật Giáo vĩ đại nhất, trong những cáo thị ông tự gán cho mình là Người được chư Thần thương yêu(Devanam Priya), nhưng những nhà văn phạm Bà La Môn dịch chữ nầy là những sự điên rồ yêu thương. R.K. Mookerjee nói về sự đồi bại nầy như sau:

    - Về thành ngữ Deva-nampriya Priyadarsi, V.A. Smith dịch là Đấng Thiêng Liêng và Nhân Từ đối với tôi là chuẩn nhất. Deve nampriya thay vì Deva-Priya có thể là tên gọi có ý coi khinh giới luật của Panini, nhưng được đề cập trong những sự kiện ngoại trừ luật do Katyana (vào khoảng 359 trước Tây lịch theo R.G. Bhadarkar) được Patanjali (150 trước Tây lịch) và cả Kasika (650 sau Tây lịch) ủng hộ. Tuy nhiên sự ngoại trừ không cho phép nhà văn phạm về sau là Bhattoji Dikshita, người đã nhấn mạnh vào việc coi từ Devanampriya là một từ khinh miệt, ngụ ý chỉ một người điên (murkha) không có sự hiểu biết về Brahma... Như vậy một danh hiệu được ca tụng trong những thời đại Nada, Maurya, và Sunga, phải chịu sự sa đọa về ý nghĩa dưới thành kiến của người Ba La Môn chống lại vị vua Phật Giáo lỗi lạc.

    2) Đức Phật nhập diệt ở Câu Thi La (Kushinagar) vùng Deoria nước Uttar Pradesh, Câu Thi La cách Gorakhpur 12 dặm về hướng Đôngvà cách Deoria 21 dặm. Nó nằm trên bờ phía Tây của sông Hiranyavati và vị trí của nó tương ứng với khu vực rộng lớn Ram-bar-ka-Tila nằm ở bờ phía Tây hồ Rambhar. Gồm hai chữ Hiranyavati và Rambar có thể tạo thành tên Harambar cho khu vực nầy. Câu Thi La (Kushinagar) là nơi Đại Niết Bàn của Đức Phật trở thành một nơi hành hương quan trọng và thiêng liêng nhất của tín đồPhật Giáo. Dĩ nhiên, tín đồ Phật Giáo từ khắp nơi trên đất Ấn quy tụ về nơi đây mỗi năm với một số đông lớn lao để tỏ lòng tôn kính đối với Vị Thầy. Dường như người Bà La Môn hoang mang bởi dân chúng ở Câu Thi La. Họ đưa khuynh hướng tôn giáo vào biện pháp xảo quyệt của họ và dạy những người tại gia ngu dốt rằng: Người chết ở Harambar, vùng chung quanh Câu Thi La, đọa vào địa ngục hay tái sanh làm con lừa cái, nhưng người chết ở Kasi (Varanasi) được lên trời.

    Để bảo vệ quan điểm của chúng tôi, chúng tôi có bằng chứng hùng hồn và có tính cách lịch sử từ cuộc đời của Mahatma Kabir, một người hô hào cải cách tôn giáo và xã hội vào thế kỷ thứ mười lăm. Trong thời đại ông, sự tuyên truyền có tác hại, như được đề cập ở trên, rất thịnh hành. Kabir kịch liệt chống lại quan điểm vô nghĩa nầy. Ông tuyên bố rằng nếu hành động của một người tốt đẹp, người ấy chắc chắn sẽ được cứu rỗi dù cho có chết ở Kasi hay Harambar. Và để chứng minh hùng hồn niềm tin về Harambar là sai lầm và vô nghĩa, Kabir, khi tuổi đã gìa, cố ý đi đến vùng đất cấm đó và chết vào năm 1518 sau Tây lịch trong một thị trấn nhỏ Maghar ở vùng Gorakhpur không xa Câu Thi La. Kabir, trong những lời để lại, hai lần đề cập đến sự việc nầy và giải thích đầy đủ mục đích hành hương đến Maghar của ông mặc dù những ngăn cản mạnh mẽ từ bạn bè và những người hâm mộ ông. Theo sự việc trên, Wescott viết trong tác phẩm đáng tin của ông về Kabir như sau:

    - Chính là nguyện vọng của những môn đệ mà Kabir đã không chấm dứt cuộc đời của ông tại Kasi nơi mà rất nhiều công trình tôn giáo được hoàn tất. Họ chủ trương rằng tất cả mọi người chết ở Kasi sẽ lập tức sinh vào thế giới của thần Ram, và những người chết ở Maghar sẽ trở lại thế giới nầy và sinh làm con lừa cái. Kabir khiển trách về niềm tin của họ. Phải chăng quyền năng của Ram quá giới hạn không thể cứu rỗi người phụng sự ông vì người nầy muốn chết ở ngoài Kasi, thành phố của thần Shiva?

    Cảm giác lo âu và sợ hải trong giới Ấn Độ Giáo quá mạnh đến nỗi sau khi Kabir chết ở Maghar họ cũng không thể từ bỏ được sự mê tín. Vì vậy, họ đã không xây dựng một đền tưởng niệm Kabir ở đó, họ dựng đền tưởng niệm ở Kasi. Người Hồi Giáo đã xây dựng một nơi tưởng niệm Kabir ở Maghar, nơi cư ngụ cuối cùng của ông. Đền thờ chính ở Maghar vì vậy đã luôn luôn do người Hồi Giáo trông coi và về sau vẫn còn dưới sự trông coi của họ, mặc dù một ngôi đền cho người Ấn Độ Giáo đã được xây dựng ở đây.

    3) Những người cuồng tín Bà La Môn không dừng lại ở đó. Họ tiếp tục thẳng tay gây sự hận thù và ghét bỏ đối với tín đồ Phật Giáo trải qua nhiều thế kỷ và giữ mãi tinh thần nầy cả trong văn học. Xin trích dẫn ra một số sau đây:

    a- Nikant trong tác phẩm Prayaschit Mayukha trích một bài thơ từ Manu (bộ luật tập cấp): - Nếu người nào chạm phải một tín đồ Phật Giáo hay một tín đồ của Panchupat, Lokayataka, Nastika hay Mahapataki, người ấy phải tắm để tẩy uế.

    b- Cùng một giáo lý được Apraka dạy trong Smiriti. Vradha Harit đi xa hơn và tuyên bố rằng bước vào chùa Phật Giáo là một tội lỗi cần phải tắm để thanh trừ tội lỗi đó.

    c- Sự việc gây ấn tượng nhất về thái độ nầy đối với tín đồ Phật Giáo được tìm thấy trong vở kịch Mricchakatika. Trong màn Vii của vở kịch, người anh hùng Charudatta và bạn là Maitriya đang chờ Vasantasena ở quảng trường bên ngoài thành Ujjain. Cô nàng không đến và Charudatta quyết định rời quảng trường. Khi họ rời nơi đây, họ thấy vị sư Phật Giáo tên là Samvakaha. Thấy ông ta, Charudatta nói:

    - Nầy bạn Maitriya, tôi đang nóng lòng muốm gặp Vasantasena. Nầy, hãy cùng đi. (Sau khi bước vài bước) A, đây là một cảnh tượng không may, một ông tăng Phật Giáo đang đi về hướng chúng ta. (Sau khi suy tư một chút) tốt, hãy để cho ông ta đi đướng nầy, chúng ta sẽ đi con đường khác. (Rời sân khấu).

    Trong màn viii, vị tăng ở trong vườn lớn của Sakara, người anh rể của Vua. Nhìn thấy áo của ông ta trong một cái hồ, Sakara, theo sau là Vita, bật dậy và hăm dọa giết vị tăng. Sau đây là cuộc đối thoại giữa họ:

    Sakara:

    - Hãy dừng lại, ông thầy tu tồi bại.

    Tăng sĩ:

    - A! Đây là người anh rễ của Vua. Bởi vì có một số tăng sĩ xúc phạm đến nhà vua, nên nhà vua đánh đập bất cứ tăng sĩ nào ông gặp.

    Sakara:

    - Hãy dừng lại, ta sẽ bẻ chiếc đầu của ông như người ta bẻ một cộng rau dền trong tiệm ăn (Đánh ông ta).

    Vita:

    - Nầy bạn, đánh một tu sĩ khoác trên mình chiếc áo choàng, đã từ bỏ thế gian, là một việc không chính đáng.

    Tăng sĩ vui mừng:

    -Xin hãy vui lòng, cư sĩ.

    Sakara:

    - Nầy bạn, coi đó. Hắn xỉ nhục tôi.

    Vita:

    - Ông ta nói gì?

    Sakara:

    - Hắn gọi tôi là cư sĩ. Tôi là tên thợ cạo hay sao?

    Vita:

    - Ồ! ông ta thật sự tán tụng anh như là một người sùng tín Đức Phật.

    Sakara:

    - Tại sao ông lại đến chỗ nầy?

    Tăng sĩ:

    - Để giặt những y phục nầy.

    Sakara:

    - A! ông là ông thầy đồi bại. Ngay cả tôi cũng không tắm trong ao nầy; ta sẽ giết ông bằng một trận đòn.

    Sau khi bị đánh thật nhiều, vị tăng được cho đi. Đó là một tu sĩ Phật Giáo trong đám đông Ấn Độ Giáo. Ông ta bị xa lánh và tránh né. Cảm tưởng chán ghét đối với ông thật là lớn lao, đến nỗi người ta tránh né cả con đường mà ông ta đã đi qua. Cảm tưởng ghê tởm đậm đặc đến nỗi sự đi vào của một tín đồ Phật Giáo khiến cho người Ấn Độ Giáo phải đi ra. Người Bà La Môn được miễn tội tử hình, ngay cả còn được miễn hình phạt về thể xác. Nhưng tu sĩ Phật Giáo bị đánh đập và hành hạ không thương xót, không hối tiếc, như là không có gì sai lầm khi làm việc đó.

    d- Chanalya (Kautilya), một đại thần Bà La Môn nổi danh dưới thời vua Chiên Đà La Quật Đa (Chandragupa) của vương triều Khổng Tước (Maurya), cũng là một phần tử nằm trong chiến dịch gây hận thù đối với Phật Giáo. Ông nói:

    - Khi một người hưởng dụng bửa ăn cúng cho chư thần và tổ tiên, những người thuộc giòng Thích Ca (tín đồ Phật Giáo), Ajivaka, Thủ đà la, và những tù nhân đi đày, phải chịu một hình phạt một trăm Panas.

    e- Những tác giả của những Puranas(Thánh Thư) cũng tuyên truyền chống Phật Giáo không ít. Họ coi Đức Phật như là một Avtara(hóa thân) của Vishnu nhưng đối xử với Ngài với sự khinh miệt.

    - Thánh thư Brhannardiya coi một người Bà La Môn bước vào nhà của một tín đồ Phật Giáo là một tội lỗi lớn dù cho có gặp sự nguy hiểm lớn.

    - Thánh thư Agni tuyên bố rằng con của vua Tịnh Phạn dụ dỗ những người Daitya trở thành tín đồ Phật Giáo.

    - Thánh thư Vayu nói một cách khinh khi về Phật Giáo: Với hàm răng trắng, cặp mắt nhìn thẳng, đầu cạo trọc, và áo đỏ, những người Thủ Đà La sẽ thực hiện những hành vi tôn giáo.

    - Thánh thư Vishnu gán cho Đức Phật tên: Người dụ dỗ vĩ đại. Họ coi Ngài là một Maha Moha, người hiện ra trong thế gian để lọc lừa những ma quỉ. Nó còn cảnh cáo thêm về tội lỗi chuyện trò với tín đồ Phật Giáo, nói rằng những người nói chuyện với những nhà khổ tu trọc đầu sẽ bị đọa vào địa ngục.

    4) Một phần trong chiến lược hủy nhục của họ, người Ấn Độ Giáo còn dùng một phương pháp khác làm mất uy tín những tín đồ Phật Giáo và chùa chiền của họ. Họ gán cho những tên gọi xấu xa và bẩn thỉu cho những chùa, tu viện Phật Giáo. Ví dụ, tàn tích của ngôi tháp ở Ghantasila vùng Andhra Pradesh được họ gọi là Langa Dibba có nghĩa là gò đĩ điếm. Sự gán những tên bẩn thỉu cho những địa danh cổ của Phật Giáo được các nhà học giả ngu dốt trích ra, lấy làm lý lẽ để nói rằng Phật Giáo biến mất ở Ấn Độ, vì những ngôi chùa của nó đã trở thành những nơi đồi bại, và các Tỳ Kheo đã không sống đời sống đáng kính. Họ lý luận rằng:

    - Những nơi lễ bái của Phật Giáo đã đi đến chỗ đồi bại cùng cực về luân lý, nên dân chúng khinh thường và xa lánh.

    Chúng tôi đồng ý rằng khi các ngôi chùa bắt đầu trở nên sung túc, tu sĩ Phật Giáo, một cách nào đó trở nên hướng về bản thân và từ bỏ bổn phận của họ đối với nhu cầu tâm linh và xã hội quần chúng. Và họ bắt đầu sống một cách thoải mái trong những tu viện và không tham gia vào lý tưởng phụng sự xã hội. Điều nầy cuối cùng đã ảnh hưởng một mức độ nào đó vào việc truyền bá và duy trì Giáo Pháp. Nhưng nói rằng Phật Giáo suy tàn vì sự sụp đổ của những tiêu chuẩn đạo đức trong hàng ngũ Tăng Già là điều không có gì bảo đảm. Không có một bằng chứng nào để củng cố lập luận nầy, ngoại trừ những danh hiệu đáng nghi ngờ gắn liền với một số địa điểm. Theo quan điểm của chúng tôi, những tên gọi bôi bác kia đã được tạo ra do những người Ấn Độ Giáo quá khích, với chủ ý hạ nhục những chùa chiền Phật Giáo. Nhưng đối với trò tuyên truyền nham hiểm đó, không có một lý lẽ chứng minh cho những nhãn hiệu vô nghĩa gán cho những ngôi chùa Phật Giáo thiêng liêng. V.R. Narla nói:

    - Quả thật là chưng hửng và buồn không ít, vì rằng không những ở Ghantasila, nhưng ở Gudivada, Bhattiprola, China Ganjam, Pedda Ganjam, và một số nơi khác, những di tích của những ngôi chùa Phật Giáo thiêng liêng bị gán cho những tên nhơ bẩn như Langa Dibba và Bojamadani Dibba. Một ngoại lệ mà tôi biết là tháp Amaravati. Tên địa phương của nó là Dipala Dinne, có nghĩa là gò đèn. Nhưng ngay cả về những ngọn đèn, cũng có thể không phải chỉ cho sự tán tụng, vì trong thực tế tất cả những nơi có gò thuộc di tích Phật Giáo, có truyền thống địa phương là những gái ăn sương cư ngụ trên gò dùng đèn để làm hiệu. Có thể những tên xấu xa được gán cho những gò di tích Phật Giáo là nói lên sự việc Phật Giáo đã bị sự đàn áp của những người Ấn Độ Giáo cuồng tín về sau, hoặc có thể nó đánh dấu mức độ xuống thấp của Phật Giáo, trong thời gian cuối cùng khi nó mang hình thái của Kim Cang Thừa (Vajrayana) hay Sahajayana, những hình thái không khác với mật giáo phóng dật. Hai lý do trên, chúng tôi tin tưởng vào lý do thứ nhất nhiều hơn.

    Để chứng minh sự điên rồ của những lý lẽ sau, chúng tôi xin độc giả ghi nhớ những sự hành trì đồi bại hơn nhiều trong những đền Ấn Độ Giáo. Chúng tôi không có ý liệt kê ra đây một danh sách dài về những tội ác của những thầy tế Bà La Môn trong những năm tháng đó. Đoạn trích sau đây từ một bài viết của ishwar Singh Bais cũng đủ để phản ảnh đời sống trong các đền Ấn Độ Giáo ngày xưa. Ông viết:

    - Những vũ nữ của mỗi đền được sắp hàng thứ nhì. Họ là những devdasis hay nô lệ của chư thần, nhưng họ được gọi bằng cái tên thô lậu của những gái điếm. Và trong thực tế, họ gắn bó với nghề nghiệpcủa họ để ban ân huệ cho người nào yêu cầu và được trả lại bằng tiền. Dường như ban đầu họ được dành riêng cho những thầy Bà La Môn mua vui. Và những người đàn bà nầy, được công chúng biết đến về sắc đẹp của họ, được hiến dâng một cách đặc biệt trong việc phụng sự các thần linh của Ấn Độ Giáo. Nhiệm vụ chính của họ gồm có múa và hát trong đền hai lần mỗi ngày, sáng và tối trong những cuộc lễ công cộng. Tất cả thời gian còn lại giữa những cuộc lễ, thì dùng vào những việc xấu hổ hơn, và một việc không phải là ít xảy ra, là ngay cả những đền thờ thiêng liêng cũng bị biến thành những nhà chứa. Xa hơn nữa, Có ít đền thờ mà vị thần ở đó không đòi quyền chữa trị bịnh không sinh đẻ của đàn bà. Thường thường những thầy tế khuyên họ ở lại qua đêm tại đền, nơi đây, họ nói thần linh cảm động với lòng thành của họ, có thể viếng họ trong tinh thần và sẽ giao hợp với họ. Với mánh khóe nầy,những thầy tế thỏa mãn dục vọng của họ.

    Ngoài những hành động trong những đền thờ Ấn Độ Giáo đã được đề cập, tầm quan trọng về những quan hệ dục tình trong Ấn Độ Giáo cũng được thấy rõ ràng trong những cảnh dâm đãng trên những bức tường của những đền thờ ở Konark, Khajuraho, v.v. Về những công trình điêu khắc ở Konark, A.L. Basham nói trong tác phẩm Kỳ Quan Ấn Độ:

    - Tính cách dâm đãng lộ liễu một cách hiếm có của nhiều công trình điêu khắc ở Kornark đã đem lại cho Chùa Đen một tiếng tăm nhơ nhớp. Những hình Maithuna, với những cặp ôm sát nhau hay đang trong tư thế giao hợp, được phổ biến là những nét trang trí đặc trưng của nhiều ngôi đền Ấn Độ, nhưng những hình ở Konark đặc biệt sống động. Những hình điêu khắc ở Khajuraho cũng tương tự.

    Như vậy chúng ta có thể không do dự nói rằng: Nếu ở đâu những tiêu chuẩn luân lý bị sa đọa, đó là những nơi cư ngụ của các thần và nữ thần Ấn Độ Giáo. Thật vậy, như ishwar Singh Bais nói:

    - Trong nhiều đền thờ, và từ thế kỷ thứ tám sau Tây lịch về sau, trong hầu hết các đền thờ Ấn Độ Giáo, sự sa đọa bắt đầu và với đời sống trong đền biến nó thành địa ngục. Các thầy tế đã hy sinh sự cao thượng và đạo đức, chỉ giữ lại tham lam và dục vọng. Nếu Ấn Độ Giáo có thể nẩy nở dưới bầu không khí đồi bại đó, thì việc biến mất của Phật Giáo không rõ ràng, dù cho có một số sa đọa trong tiêu chuẩn luân lý của những người mộ đạo; vì vậy chúng tôi không chấp nhận điều nầy. Từ đó, chúng tôi quả quyết luận điệu gán cho sự thối nát trong các chùa chiền không phải là không có căn cứ mà còn có tác hại, và những lý do của sự suy tàn của Phật Giáo phải được tìm thấy ở chổ khác.

    SỰ NGƯỢC ĐÃI

    Một trong những nguyên nhân chính làm cho Phật Giáo suy tàn và sụp đỗ nhanh chóng ở Ấn Độ là sự đàn áp của những nhà cầm quyền cũng như những người cuồng tín.

    Bố Sa Mật Đa La (Pushyamitra), một tướng lãnh Bà La Môn dưới triều Brihadratha, vua cuối cùng của vương triều Khổng Tước (Maurya), là người đầu tiên ngược đãi Phật Giáo. Ông ám sát nhà vua vào năm 185 trước Tây lịch; soán lấy ngôi vua nước Ma Kiệt Đà (Magadha), cai trị bằng sự khủng bố. Một ông vua Ấn Độ Giáo khác đàn áp Phật Giáo là Sasanka, vua nước Gauda (Bengal), hành động phản bội đầu tiên của ông là giết Rajyavardhana vào năm 605 sau Tây lịch, anh của Harsha, vị hoàng đế Phật Giáo cuối cùng. Sasanka là một người thuộc giai cấp Bà La Môn và tín ngưỡng thần Shiva. Ông cuồng tín đến nổi trong cơn giận dữ ông đã phá hủy cây Bồ Đề. Ngài Huyền Trang ghé Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 637 sau Tây lịch, vào khoảng ba thế hệ sau biến cố trên, ghi lại như sau:

    - Trong thời gian sau Sasanka-raja, một tín đồ dị giáo, phỉ báng Đạo Phật, và vì ganh ghét đã phá hủy những tu viện và chặt cây Bồ Đề, đào đến tận mạch nước dưới đất, nhưng ông không thể đào đến chổ rể tận cùng của nó. Sau đó ông dùng lửa đốt và tưới nước mía lên, với ý muốn tiêu diệt nó hoàn toàn, và không để lại một vết tích nào về sau. Ông cũng đã dời tượng Phật từ ngôi chùa gần cây Bồ Đề và thay vào bằng thần Shiva. Ông cũng đã liệng vào sông Hằng tảng đá thiêng liêng có dấu bàn chân của Đức Phật ở thành Hoa Thị (Pataliputra). Và để làm tròn những kế hoạch tội lỗi của ông, Sasanka được cho biết là đã tiêu diệt tăng sĩ trong khu vực Câu Thi La (Kushinagar).

    Một trong những người đàn áp Phật Giáo lớn lao nhất là thủ lãnh Hung Nô, Mihirakula, đã làm thiệt hại lớn lao cho những chùa Phật Giáo ở Gandhara, Punjab, và Kashmir. Mihirakula là một người thờ Shiva và là một nhà bảo hộ lớn cho Bà La Môn giáo. Trong cơn điên rồ của ông, ông đã san bằng 1,600 tu viện, tháp, và chùa, và giết hại hằng trăm tín đồ Phật Giáo tại gia. Toramana, một ông vua cũng của vương triều tàn bạo đó, được cho biết là đã tiêu hủy chùa Ghostarama ở Kiều Thưởng Di (Kausambi).

    Về việc đàn áp Phật Giáo ở Kashmir, F.M. Hussnain viết:

    - Chính Nara, người đã khởi sự tiến hành việc tiêu diệt Phật Giáo ở Kashmir. Ông cho thiêu hủy những tu viện Phật Giáo ở Kashmir và trừ diệt quần chúng Phật tử bằng cách tịch thu đất đai của họ để ban cho những người Bà La Môn. Những gì xảy ra ở Kashmir là một phần trong cùng tiến trình tiêu diệt Phật Giáo trong nước. Trong cuộc đấu tranh giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo, Bà La Môn giáo đã chiến thắng, trong những hoàn cảnh đó, sự tiêu diệt của Phật Giáo ở Kashmir chỉ là vấn đề thời gian.

    Hussnain nói thêm:

    - Pravarasena nắm quyền vào khoảng cuối thế kỷ thứ sáu. Ông ta phải đánh lui những cuộc tấn công của Mummuni, một thủ lãnh Hồi Giáo đến từ Trung Á. Ông xây dựng thành phố Pravarasenanagar với những ngôi đền năm vị Nữ Thần. Chú ông là Jayendra xây một tu viện nổi tiếng là Jayendravihara, thờ một tượng Phật lớn nhất. Ngài Huyền Trang đã viếng tu viện nầy trong thời gian ở tại Kashmir. Tu viện nầy đã bị Ksemagupta thiêu hủy, ông nấu chảy bức tượng khổng lồ để dùng cho đền thờ thần Shiva của ông.

    Một người khác được coi như đối thủ của Phật Giáo, người đã tuyên bố: Giáo lý của Phật là thứ vô dụng giống như chất mủ chảy ra từ da chó là Kumarila Bhatt, một người Bà La Môn. Ông sống vào thế kỷ thứ bảy sau Tây lịch. Theo đề nghị của ông, Suddhanvan, vua nước Ujjain, được nói là đã tiêu diệt những tín đồ Phật Giáo. Sự đàn áp tàn nhẫn tín đồ Phật Giáo của Suddhanvan, dưới sự xúi dục của Kumarila Bhatt, được ghi lại trong hai tài liệu về tiểu sử của Sankaracarya, đó là tác phẩm Sankaravijaya do Anandagiri, đệ tử trực tiếp của Sankaracarya viết, và tác phẩm Sankara-digvijayam do Madhava (thế kỷ mười bốn) viết. Thực vậy, Madhava Acharya xác nhận rằng, với sự xúi dục của Kumarila Bhatt, Suddhanvan ra lệnh giết chết tất cả tín đồ Phật Giáo từ Ramesvaram đến vùng Hy mã lạp sơn. Ông còn ra lệnh nếu ai không giết tín đồ Phật Giáo sẽ bị xử tử.

    Sankaracarya, một vị thầy Vedanta, cũng chịu trách nhiệm trong việc đàn áp Phật Giáo. Thật vậy, ông đã gieo sự khũng bố trong tâm tín đồ Phật Giáo. Theo truyền thống Tây Tạng, khi ông đến, tín đồ Phật Giáo trong các chùa bắt đầu phân tán tứ tung. Chính ông đã có lần viết trong Bhashya của kinh Phạm Thiên rằng: Phật Đà là một kẻ thù của quần chúng và đã dạy những điều mâu thuẫn và lộn xộn.

    Cách thức người Ấn Độ Giáo xử dụng để đẩy Phật Giáo ra khỏi nơi sinh sản ra nó được soi sáng trong câu chuyện thần thoại Gaya Asura ghi trong Gaya Mahatmya, một phần trong Thánh thư Vaya. Theo huyền thoại nầy, Gaya Asura (con quỉ) đạt được quả vị thần thánh đến mức độ bất cứ ai thấy hay chạm được nó là sanh về cỏi trời. Yama, vua Diêm Vương, nổi lòng đố kỵ, cầu chư thần giảm bớt năng lực của Gaya Asura. Các vị thần đợi Gaya và xin nó bố thí sự trong sạch và thân thể thánh thiện của nó để tế lễ. Đáp ứng lại điều đó, Gaya đến và nằm xuống, cái đầu đặt tại vị trí xưa là Gaya. Các thần đặt một tảng đá trên đầu nó. Nhưng điều đó chưa đủ chứng minh nó có thể nằm yên. cuối cùng Gaya Asura trở nên bất động khi thần Vishnu ngồi trên tảng đá để giữ không cho nó cử động, và hứa rằng tảng đá trên đầu nó sẽ được tuyên dương, là nơi linh thiêng nhất trên trái đất; chư thiên sẽ nghỉ trên tảng đá đó; chỗ đó sẽ được đặt tên là Gaya-Kashetra; và rằng ai cúng dường bánh trong tang lễ và thực hành tang lễ ở đó thì chính mình được phước và làm cho tổ tiên được sinh lên trời, nơi của Phạm Thiên.

    Câu chuyện về Gaya Asura xưa đến độ nào chúng ta khó biết. Dù luận điệu của những người Ấn Độ Giáo chính thống về sự cổ xưa của Gaya như thế nào, chúng ta thấy rõ rằng thành phố Gaya đã được nâng lên địa vị như ngày nay trong thế giới Ấn Độ Giáo chỉ sau khi Phật Giáo suy sụp ở Ấn Độ.

    Theo quan điểm của tiến sĩ Rajindralah Mitra, một học giả với tầm nhìn về lịch sử có một không hai, câu chuyện thần thoại khó tin trong Thánh thư Vayu hàm chứa một biểu tượng về sự chiến thắng cuối cùng của Bà La Môn giáo đối với Phật Giáo, tôn giáo đã từng nẩy nở mạnh mẽ trong và quanh Gaya suốt nhiều thế kỷ. Xin trích một đoạn của ông:

    - Những người Ấn Độ Giáo tin rằng câu chuyện nầy là có thật theo nghĩa đen, nhưng tiến sĩ Buchanan gọi đó là một chuyện thần thoại quái đản và có thể là vậy. Thoạt nhìn qua không có gì có thể hồ đồ và ngu xuẩn hơn câu chuyện nầy; nó vi phạm mọi ý nghĩa khuôn phép, và ngay cả giá trị về tính chân thật trong sự kể chuyện của nó cũng không có. Đồi Brahmayoni, cũng là núi Kalahala, dài ba dặm, và tưởng tượng đặt trên đó một người 125 yojan (do tuần) hay 576 dặm bề cao, và 268 dặm chu vi không thể nào làm được, cho dù là người có đầu óc nghèo nàn nhất cũng nhận được. Một chiếc đầu một dặm chu vi trên một cơ thể 576 dặm cao, cũng giống như cây kim nằm trên cơ thể của một người bình thường. Sự vô dụng của các thần để giữ một con ma đang nằm và những cố gắng vô ích của họ để giữ con ma không cựa quậy, quả thật trẻ con. Và trong trường hợp nầy, một vấn đề được đặt ra: Làm thế nào tác giả của thánh thư Vayu trong đó Gaya Mahatmya là một bộ phận, tạo ra một câu chuyện quá trẻ con để bảo đảm sự tôn kính và sùng bái của số đông quần chúng đối với địa danh nầy? Ông không thiếu sự thông minh, vì ông đã thảo luận những vấn đề triết học khó hiểu với tài xử trí và khéo léo đáng lưu ý. Cũng vô lý và không thật khi nói rằng ông không thể phân biệt sự hợp lý với tính trẻ con và hàm hồ. Vì vậy, coi câu chuyện nầy như là một thứ hồ đồ, theo ý tôi, là một kết luận vội vàng, và là dấu hiệu của sự thiếu kiên nhẫn. Chúng tôi cần đứng trên quan điểm của một sử gia triết học để giả thiết rằng có một cái gì đó bí mật dấu sau lớp vỏ bên ngoài của câu chuyện; với một ý nghĩa bí mật. Tôi tin tưởng, điều nầy dễ nhận thấy, câu chuyện nầy là một phúng dụ về sự thành công của Bà la môn giáo đối với Phật Giáo:

    - Gaya được gọi là một Asura, thông thường có nghĩa là người khổng lồ, một ma quỷ, một con ma dụ dỗ, một người chửi rủa các thần và tôn giáo; nhưng nó không được vẽ ra như vậy. Nó không ham mê trong tội lỗi, không làm thương tổn ai, và không chống lại các thần cũng như tôn giáo bằng lời nói hay hành động. Ngược lại, nó được diễn tả là một người sùng kính Vishnu, hiến mình cho sự sám hối nghiêm nhặt, và những cuộc thiền định kéo dài, và cho những yêu cầu làm trong sạch tột cùng thể xác và tâm hồn; một người mà chỉ chạm đến là có thể rửa sạch những tội lỗi lớn nhất của con người và được sinh vào cõi trời. Sự buộc tội nghiêm trọng nhất đối với y là đã làm sự cứu rỗi quá đơn giãn và ngắn gọn. Trong trường hợp của y, vì vậy, sự việc chỉ có nghĩa là y đã không theo tín ngưỡng của người Bà la môn, cũng không theo đường hướng của họ, tóm lại y là một người dị giáo. Tính chất nầy đã luôn luôn được gán cho những người lãnh đạo trong khối Phật Giáo. Họ sùng tín, họ biết sống khổ hạnh, họ hết lòng dấn thân vào sự sám hối và thiền định; nhưng họ tránh xa sự tế tự và những cuộc lễ của người Bà La Môn, và vì vậy Gaya có thể được coi như sự nhân cách hóa Phật Giáo. Thân thể của nó đo được 576 x 268 dặm, và khu vực từ Kalinga đến Hy mã lạp sơn, và từ Trung Ấn đến Bengal, khu vực mà Phật Giáo đã lan tràn trong thời gian câu chuyện được viết ra bao trùm khắp không gian đó, và còn hơn nữa. Tổng hành dinh của Phật Giáo là Gaya; và thị trấn Gaya, ngay cả ngày nay, có bề rộng vừa một dặm. Cố gắng của các thần để đặt xuống chiếc đầu của con ma là một điển hình cho cố gắng của người Ấn Độ Giáo tấn công Phật Giáo ở trung tâm gây cảm hứng cho nó, trung tâm đầu não, và đòn gậy của Vishnu chỉ cho phương sách đã dùng để tấn công khi sự thuyết dụ không đạt được kết quả cuối cùng. Tảng đá tôn giáo được đặt lên đầu của kẻ không theo đạo, sức mạnh của các thần giữ nó cố định và không thể lay chuyển. Cũng chính là phúc lành của chư thần đã thánh hóa cái nôi của Phật Giáo trở thành một nơi tôn nghiêm của tín ngưỡng Ấn Độ Giáo. Chúng ta biết quá rõ về những phương tiện được dùng đến ở Puri, Bhuvnesvana, và những nơi khác để biểu hiện những biểu tượng Phật Giáo. Những nơi thiêng liêng của Phật Giáo, và ngay cả những tượng Phật Giáo có ích cho sự lễ bái của Ấn Độ Giáo, và không vô lý một chút nào khi giả thuyết cùng một tiến trình đã được xử dụng tại Gaya.

    Ngoài sự đàn áp của vua chúa và tôn giáo, Phật Giáo còn là đối tượng đàn áp và tẩy chay của xã hội. Chúng ta thấy rõ rằng khi Phật Giáo bắt đầu suy tàn, người Ấn Độ Giáo đã lợi dụng sự nghèo khó của tín đồ Phật Giáo, cho phép họ vào lại cộng đồng Ấn Độ Giáo nhưng lên án họ là những người Không Thể Chạm Đến, ghép vào giai tầng thấp nhất, ở ngoài bốn giai cấp của Ấn Độ Giáo. Họ hoàn toàn bị rút phép thông công với xã hội, và bị gán cho danh hiệu là Pariah, Pamchama, Avarna, Ati-Shudra là những người mà chỉ chạm vào hay chạm vào bóng là có thể làm ô uế giai cấp Ấn Độ Giáo. Họ bị buộc phải sống ở bên ngoài làng và đã là mục tiêu cho nhiều chứng bịnh xã hội. Họ bị từ chối khả năng học hành, và chỉ có thể làm những nghề nghiệp thấp thỏi hèn hạ. Không những họ bị cấm không được xử dụng nước giếng, hồ chứa nước, và những nơi công cộng, họ còn không có quyền có sở hữu. Tóm lại, họ bị coi là những người nô lệ, họ không có chọn lựa nào khác hơn là phục dịch cho những cái gọi là giai cấp cao hơn mà không có một phần thưởng nào. Chúng ta không nghi ngờ, khi bị đè dưới gánh nặng của nghèo nàn, cộng với sự đàn áp và bốc lột của xã hội, những đệ tử của Đức Phật đã quên di sản huy hoàng của họ và cam chịu số phận đau thương. Sự đối xử lỗ mãng đối với người Không Thể Chạm Đến, ngày nay là những giai cấp phụ bởi giai cấp Ấn Độ Giáo chỉ có thể được giải thích, đó là kết quả của thành kiến và thù ghét của họ đối với Phật Giáo. Bằng không, tại sao một khối người lớn lao lại bị tước đoạt phương tiện và bị nguyền rủa là Không Thể Đến Gần, Không Thể Nói Chuyện, và Không Thể Va Chạm.

    Việc những Người Không Thể Chạm Đến, hay là những Giai Cấp Phụ ở Ấn Độ ngày nay là những tín đồ Phật Giáo ngày xưa có thể được chứng minh:

    - Đầu tiên, hầu hết những phong tục và tính chất của họ nền tảng là Phật Giáo.

    - Thứ hai, họ không quan tâm nhiều đến những thần linh Ấn Độ Giáo. Giống như tín đồ Phật Giáo, họ thờ phụng Đức Phật, vị Thầy vĩ đại nhất của họ và họ tôn thờ những vị Thầy như Ravidas, Chokhamela, Kabir, v.v. Như vậy, giống như tín đồ Phật Giáo, họ là những người Gu-bhaju, những người tôn thờ Thầy, chứ không phải là những Dev-bhaju, những người thờ phụng thần linh như trong trường hợp những người Ấn Độ Giáo.

    - Thứ ba, một vài giai cấp phụ ở Punjab, Himachal Pradesh, Delhi, và Rajasthan tự xưng là Ad-Dharmi hay Adi-Dharmi. Chữ Ad có nghĩa là cổ, xưa hay nguyên thủy và người Ad-Dharmi tin tưởng rằng họ là tín đồ của một tín ngưỡng cổ xưa. Không nghi ngờ rằng những từ như Ad-Dharmi hay Adi-Dharmi có mầm giống Phật Giáo vì chúng tương tự những thành ngữ Phật Giáo như Adi-Buddha và Adi-Dharma mà theo truyền thống Đại thừa, chúng biểu thị cho trí tuệ hay Tâm và Vật. Hơn nữa, những tín đồ Phật Giáo từ lâu đời đã gọi tôn giáo của họ là Dharma hay Saddharma, và những tín đồ Phật Giáo ở Orissa gọi họ là Mahima Dharmi (những tín đồ của Giáo Pháp đáng tán dương).

    Thật vậy những người nầy đã là những tín đồ Phật Giáo trong quá khứ. Điều xảy ra sau nầy dường như là do sự đàn áp và không được học hành, họ đã quên tên Phật Đà hay có thể họ từ bỏ tên của Đấng Pháp Vương để không còn chịu gian khổ như Achyutananda một thi sĩ ở Orissa vào thế kỷ thứ mười sáu, an ủi họ bằng cách nói rằng: vì sự đáng ao ước trong Kaliyuga mà những tín đồ Phật Giáo phải cải trang.

    Sự xâm nhập của người Hồi Giáo đẩy mạnh sự điêu tàn của Phật Giáo trên đất Ấn. Khi người Hồi Giáo đến, họ có hai đối tượng trước mắt:

    - Thứ nhất là nắm quyền chính trị,
    - Thứ hai là truyền bá Hồi Giáo.

    Để đạt được mục đích thứ hai, họ có kế hoạch khử trừ những đền chùa Phật Giáo và Ấn Độ Giáo, các tăng sĩ và thầy tế của Bà La Môn, vì chúng là những kho tàng tư tưởng tôn giáo. Họ có khuynh hướng chống những tu sĩ Phật Giáo, những người đã truyền bá thông điệp bình đẳng do đức Như Lai dạy. Khuynh hướng nầy được trù hoạch vì người Hồi Giáo, thấy rằng họ gặp khó khăn trong việc truyền dạy thông điệp tiên tri của họ về bình đẳng dưới quan điểm của những giáo lý tương tự như của Đức Phật. Do đó, những người Hồi Giáo cuồng tín san bằng các tu viện, và thủ tiêu hầu hết các tăng sĩ trong tu viện đó. Thiểu số may mắn thoát khỏi lưỡi gươm của Hồi Giáo, họ phải chạy trốn để giữ mạng và tìm nơi ẩn náu ở những nước láng giềng. Hai ông vua Hồi Giáo đáng chú ý đã tàn phá những nơi thiêng liêng của Phật Giáo là Mahmud Gazinavi và Bakhtiaruddin Khilji. Ông vua trước đã cướp bóc những chùa chiền ở Kot Kangra (Mimachal Pradesh) vào thế kỷ thứ mười, và ông vua sau đã phá hũy những tu viện Nalanda, Vikramasla, và Odentapuri là những trụ sở sống động cho đến thế kỷ thứ mười hai. Nói về sự xâm lăng của Hồi Giáo, tiến sĩ Ambedkar nói:

    - Những người xâm lăng Hồi Giáo cướp phá những Đại Học kể ra một số ít là Nalanda, Vikramasila, Jagaddala, Odantapuri. Họ nhổ tận nền những tu viện Phật Giáo rãi khắp nơi trong nước. Tăng sĩ hàng ngàn người chạy trốn qua nước Nepal, Tây Tạng, và những xứ ngoài Ấn Độ. Một số rất lớn bị giết bởi những người lính Hồi giáo. Tu sĩ Phật Giáo bị tàn hại dưới lưỡi gươm của những người xâm lăng Hồi giáo như thế nào đã được các sử gia Hồi Giáo ghi lại. Tóm tắt tài liệu liên quan đến sự tàn sát tu sĩ Phật Giáo của tướng Hồi Giáo gây ra ở Bihar khi ông đem quân xâm lăng vào năm 1197 sau Tây lịch, Ông Vincent Smith viết:

    - Tướng Hồi Giáo đã làm cho mọi người biết tên ông trong lúc khủng bố bằng những cuộc viễn chinh cướp bóc nhiều lần ở Bihar, chiếm đoạt kinh đô bằng những trận đánh táo bạo. Sử gia đương thời, gặp một trong những người sống sót trong toán tấn công vào năm 1243 sau Tây lịch, và được cho biết là pháo đài của Bihar bị chiếm lấy do một nhóm quân chỉ gồm hai trăm kỵ binh, họ lao vào cửa Đông một cách dũng cảm và chiếm lấy vị trí. Một số lượng lớn đồ cướp bóc được thu thập và sự tàn sát những ỔNgười Bà La Môn Đầu TrọcỖ, chỉ những tu sĩ Phật Giáo, hoàn toàn hoàn tất, và khi người chiến thắng tìm một người có thể giãi thích được những sách trong thư viện các chùa, thì không còn tìm được một người nào còn sống để có thể đọc những sách đó. Chúng tôi được cho biết rằng: ỔNgười ta khám phá ra rằng toàn bộ pháo đài ở thành phố đó là một trường cao đẳng, và theo cách nói củangười Ấn Độ Giáo thì họ gọi là trường Bihar.

    Sự tàn sát giới tu sĩ Phật Giáo do những người Hồi giáo xâm lăng gây ra là như vậy. Vì muốn tiêu diệt Phật Giáo, nên Hồi Giáo giết giới tu sĩ Phật Giáo. Đó là cuộc khủng bố lớn lao nhất làm cho tôn giáo của Phật Đà suy tàn ở Ấn Độ. Tôn giáo cũng giống như ý thức hệ khác, có thể được duy trì chỉ bằng sự truyền bá. Nếu sự truyền bá thất bại, tôn giáo phải biến mất. Lưỡi gươm của Hồi Giáo gieo mạnh xuống giới tu sĩ. Họ bị tiêu diệt hay trốn thoát ra nước ngoài. Không còn ai ở lại đểthắp sángngọn lửa Phật Giáo.

    Một số hành giả Ấn Độ Giáo lợi dụng tình trạng người Hồi Giáo gây ra trong việc xâm chiếm những nơi thờ phụng của Phật Giáo ở Bihar được Dharmasvamim, một người hành hương Tây Tạng viếng Bihar khoảng ba thế hệ sau cuộc tai biến, diễn tả một cách sống động. Theo ông Ratnabodhi, thư viện lớn nhất ở Nalanda, thoát khỏi sự tàn phá dưới bàn tay người Hồi Giáo, đã bị những khất sĩ Ấn Độ Giáo đốt cháy. Ôngnói:

    - Họ (những người Ấn Độ giáo) thực hiện một Yana, lễ tế lửa, và liệng những than hồng và tro lấy từ hầm tế vào những ngôi chùa Phật Giáo, v.v. Điều nầy gây nên một đám cháy lớn thiêu rụi Ratnabodhi, thư viện chín tầng của Đại Học Nalanda.

    Việc những kẻ đối lập Phật Giáo trong hàng ngũ Ấn Độ Giáo đã không lùi bước trong việc tàn phá những nơi thiêng liêng của Phật Giáo, ở những nơi khác cũng được thấy rõ từ những đống tro tàn, những hình ảnh bị đốt cháy, và xương của những tăng sĩ được các nhà khảo cổ tìm thấy ở Sarnath và vùng phụ cận. Rõ ràng, các chùa bị thiêu hủy do những người cuồng tín và việc nầy dường như đã xãy ra nhiều lần, như thiếu tá Kittoe, người tiến hành công việc khai quật ở Sarnath vào năm 1851 đã nói:

    - Tất cả mọi thứ đều bị cướp phá và thiêu hủy, tu sĩ, chùa, tượng, tất cả cùng với nhau, vì ở một số nơi, xương, sắt, gỗ, và đá được tìm thấy từng khối lớn, và việc nầy xảy ra nhiều lần.

    Sự suy tàn của những trung tâm Phật Giáo thổi đến một ngọn gió định mệnh cho tín đồ Phật Giáo, họ không thể phục hồi trở lại nền tảng đã mất. Vì vậy, trải qua những thế kỷ kế tiếp, Phật Giáo một mặt bị chính những người hâm mộ nó thờ ơ, và mặt khác, hàng ngàn chùa chiền của nó bị những kẻ đối lập hủy diệt, cướp bóc hay chiếm đoạt. Những công trình Phật Giáo tiếp tục bị tiêu hủy, cướp bóc trong nhiều thế kỷ chỉ vì vật chất, sẽ được cho thấy rõ ràng với một vài trích dẫn sau đây:

    1) Ngôi tháp tráng lệ Bharut ở Madhya Pradesh, từ đó nó được gọi tên và nổi tiếng khắp thế giối về những mẫu tinh vi nhất của Nghệ Thuật và Điêu Khắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, đã bị những người địa phương ngu dốt kéo sập chỉ để lấy gạch làm nhà riêng của họ. Cunningham, người đã khám phá và khai quật ngôi tháp nầy vào năm 1873-74, nói rằng làng ngày nay là Bharhut gồm đến hai trăm ngôi nhà đều hoàn toàn được xây bằng gạch lấy từ ngôi tháp này. Việc làm của dân làng Bharhut làm cho những làng lân cận bắt chước. Họ tháo dở một số lớn những cột trụ và chấn song mang về dựng nhà của họ. Cunningham đã khám phá ra sáu cây trụ ở làng kế bên là Batanmara và tám trụ ở Pathora. Ông cũng khám phá ra một số những tảng đá điêu khắc từng các chấn song của tháp trong hầu hết các làng rộng lớn xung quanh Bharhut, đặc biệt là ở Uchahara, Batamara, Pathora, và Madhogarh (hay Patharhat).

    2) Tháp Dharmarajika ở Sarnath bị Jagat Singh tháo dỡ vào năm 1794 chỉ để lấy gạch xây chợ ở Varanasi. Chợ nầy ngày nay được biết đến với tên là Jagatganj. Trụ của vua A-Dục cũng bị đập vỡ.

    3) Về ngôi tháp danh tiếng Amaravati ở Andhra Pradesh, V.R. Narla, một người có thẩm quyền về nghệ thuật Phật Giáo ở Andhra, nói:

    - Hầu hết những tàn tích ngày nay đều rủi ro không còn. Ngay cả vào thời Đại tá Colin Mackenzie người đã thấy tháp Amaravati vào cuối thế kỷ thứ mười tám, nhiều tảng đá hoa điêu khắc đã bị tiêu hủy. Chúng bị đào lên và đốt thành vôi do người cầm đầu ở nơi đây, người nầy vào năm 1797 đã dời tổng hành dinh về Amaravati, đám tro tàn của nó mang nhiều tính chất lịch sử và được truyền thống thánh hóa, và làm một sự cố gắng yếu ớt để dựng một thành phố mới gần chùa Amaresvara. Và ngay cả những tác phẩm điêu khắc thoát khỏi sự phá hoại văn hóa nầy, ngày nay cũng bị phân rải nhiều nơi.

    4- Vào năm 1840, ngôi tháp Phật Giáo ở Gudivada trong xứ Andhra Pradesh bị phá hủy để lấy vật liệu sửa sang con đường giữa Bezwada và Bandar. Đề cập đến sự phá hoại văn hoá nầy, ông Rea nói:

    - Thật là hối tiếc, tất cả những công trình nầy đã phải chịu hủy hoại bởi những bàn tay của những người cầm vật liệu để xây dựng đường và những công việc tương tự. Mặc dù những công trình kiến trúc cổ xưa nhất còn tồn tại một nền văn minh cổ, tính chất thái cổ của chúng không có sự bảo vệ cho chúng khỏi những bàn tay tước đoạt.

    PHẬT GIÁO BỊ ĐỒNG HÓA

    Để đối đầu tương xứng với Phật Giáo, Ấn Độ Giáo đã sớm tiến hành việc sửa đổi và tự biến dạng. Về việc nầy họ đã vũ trang hệ thống của họ bằng những tính chất tốt đẹp của Phật Giáo cả trong lý thuyết và thực hành. Trong tiến trình cải cách nầy, người Ấn Độ Giáo tiếp nhận lý tưởng Bất Sát (Ahimsa) và từ bỏ việc tế súc vật; và cũng bắt đầu tổ chức theo cách thức trong các tu viện Phật Giáo. Xa hơn, để chấm dứt việc đấu khẩu lâu dài và khó khăn để giành phần thắng của những tín đồ của hai tôn giáo, Đức Thích Tôn được họ đặt vào trong các thần Ấn Độ Giáo, như là một Hóa Thân (Avatara) của thần Vishnu. Và điều nầy được công bố trong quảng đại quần chúng do các tác giả Purana. Bên cạnh thánh thư Varaha, nói rằng nhờ tuân theo lời nguyện của Buddhavadasi, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đã được thần Vishnu xuống làm con dưới hình tướng Phật Đà. Đức Phật đã bị coi là một Avatara của Vishnu trong Matsya, Bhagavata, Garuda, và Linga Purana. Không chỉ vậy, những người thờ thần Shiva tiếp thâu những yếu tố tu viện và chiêm nghiệm của Phật Giáo, và những người thờ thần Vishnu tiếp thâu những yếu tố sùng bái và nhân đạo của Phật Giáo để bảo đảm tính phổ biến trong quần chúng. Những người thờ thần Vishnu còn sửa đổi thái độ của họ về vấn đề hệ thống giai cấp. Họ chấp nhận nó như là một thể chế xã hội, không chuyên chở một sự theo đuổi tôn giáo hay tâm linh nào. Như tiến sĩ Radhakrishnan nói:

    - Một tiến trình thâm nhập và sửa đổi từ từ đã phát triển, như việc ủng hộ thuyết cho rằng Đại Thừa Giáo chỉ là một giai đoạn phân phái trong trào lưu lớn những người thờ thần Vishnu, Tiểu Thừa Giáo, với tính chất khổ hạnh nhiều hơn, được coi như một phái của người thờ thần Shiva. Khi tín ngưỡng Bà La Môn khắc sâu tình thương mọi loài và sùng bái thần linh và tuyên bố rằng Đức Phật là hóa thân của Vishnu, hồi chuông báo tử của Phật Giáo ở Ấn Độ đã vang lên.

    NHỮNG NGUYÊN NHÂN BÊN TRONG

    Bên cạnh những nguyên nhân bên ngoài, chắc chắn là những nguyên nhân chính cho sự thoái hoá và biến mất của Phật Giáo, còn có một số ít những hạn chế và lầm lỗi bên trong cũng đã làm cho sự biến mất cuối cùng của Phật Giáo trên quê hương nó xảy ra một cách nhanh chóng.

    Chúng ta phải thừa nhận rằng chính những tín đồ Phật Giáo lãnh phần trách nhiệm lớn cho số phận đáng buồn của tôn giáo của họ. Đức Phật đã vạch ra con đường cho các vị Tỳ kheo không những là người đi tìm sự giác ngộ bằng thực hành những giới luật đạo đức và tâm linh, nhưng cũng là người phụng sự xã hội hay là người bạn, triết gia và người hướng đạo cho quần chúng. Đức Phật là một vị thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Độ, hay nói đúng hơn là toàn thế giới, cổ vũ những đệ tử của mình đi và đi khắp nơi vì hạnh phúc và lợi ích của nhiều người. Thêm nữa, Ngài là người đầu tiên đưa ra lý tưởng hy sinh, quên mình và phục vụ cho kẻ khác. Ngài nói rằng một Tỳ kheo phải xin ăn, phải sống bằng vật bố thí, phải hạn chế chỉ ăn ngày một bửa. Theo những lời dạy của Thầy những vị Tỳ Kheo đầu tiên đã đạt đến những tiêu chuẩn cao nhất của lòng kính tín, hy sinh và phụng sự. Điều nầy đã thành tựu rực rỡ và làm cho Phật Pháp trở thành một tôn giáo phổ biến và được tôn kính nhất ở Ấn Độ. Nhưng bất hạnh thay, các tăng sĩ về sau đã không giữ những tiêu chuẩn dành cho họ. Khi các tu viện trở nên giàu có, thì hoạt động chính của họ được coi là đào sâu việc nghiên cứu từ chương thay vì truyền bá Giáo Pháp, tăng sĩ đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng, và tương quan giữa tăng sĩ và cư sĩ bị thụt lùi. Các vị Tỳ Kheo trở nên xao lãng và thụ động đối với những mục đích thực tiễn. Điều nầy làm cho Phật Giáo suy yếu. Tình trạng Tăng Già trong những năm chấm dứt thời kỳ vinh quang của Phật Giáo tại Ấn Độ có thể được đánh giá từ những điều mà Cunningham, một nhà khảo cổ, thám hiểm, và học giả vĩ đại nhất nói vấn đề nầy. Ông nói:

    - Phật Giáo đã thật sự trở nên một tín ngưỡng già nua và kiệt lực, những vị khất sĩ không còn đi khất thực, nhưng từ lâu đã được hổ trợ bằng đất đai dành riêng cho các tu viện. Các vị Sa Môn và Tỳ Kheo không giống như những người của thời xưa, những người uyên bác và trí tuệ, sự tiết độ về thân xác và sự nhứt tâm thiền quán cộng với những chủ trương thực tiễn và gương mẫu trong sạch, đã kích thích lòng sùng kính của quần chúng. Những tín đồ Phật Giáo hiện đại rơi vào tình trạng mục nát, họ bằng lòng sống một đời sống thụ động trong những công việc tẻ nhạt hằng ngày của đời sống tu viện, nơi đó còn một vài dấu hiệu tôn giáo bề ngoài; nhưng không còn sự tha thiết nồng nhiệt trong sinh hoạt thiếu sinh khí của những công việc tẻ nhạt hằngngày đó, và lòng hăng say đã có thời đốt cháy trong tim của mỗi người tu sĩ Phật Giáo trong việc truyền bá tôn giáo của họ đã dập tắt từ lâu.

    Trong những ngày xa xưa, tăng sĩ và tu viện là huyết mạch của Phật Giáo. Nó nẩy nở, bao giờ những tu viện còn, các tăng sĩ còn cẩn trọng. Một khi các tăng sĩ trở nên thờ ơ và đánh mất cái tầm nhìn vào sứ mệnh của họ, Phật Giáo suy tàn. Và khi các tu viện làm mồi cho sự phá hoại văn hoá, Phật Giáo đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn. Rất nhiều sách vở Phật Giáo, hầu hết được cất giữ trong các tu viện, cũng hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ do sự phá hủy các tu viện. Lý do là những tín đồ Phật Giáo không có tổ chức cư sĩ để giảng dạy, truyền bá, và bảo vệ tôn giáo của họ. Với sự thiếu vắng những tổ chức như vậy, họ chỉ đứng nhìn mà không giúp được gì khi các tu viện bị cướp phá, xúc phạm và các tăng sĩ bị trục xuất hay giết hại.

    Sự thiếu vắng những tập quán và nghi thức cho những cuộc lễ lộc trong xã hội như đám cưới, v.v. của Phật Giáo cũng là một trong những yếu tố làm cho Phật Giáo suy tàn ở Ấn Độ. Đức Phật chống lại chủ nghĩa nghi thức, cũng như độc quyền của những người Bà La Môn là giai cấp thầy tế, không cho phép những tăng sĩ hành động như những thầy tế trong những cuộc lễ có tính cách xã hội. Cũng không có những cuộc lễ đặc biệt về sinh nhật, cưới hỏi, v.v. được đề ra. Như vậy giới cư sĩ tiếp tục thực hành theo những phong tục và lễ lộc đang lưu hành, phần lớn do những người Bà La Môn đề ra. Thái độ không xen vào của Phật Giáo, như tiến sĩ Joshi nói:

    - Mặc dù giúp cho sự truyền bá tôn giáo được trôi chảy, đã đem đến kết quả trên chặng đường dài làm suy giãm ảnh hưởng của nó trong xã hội.

    Một nguyên nhân bên trong khác, lót đường cho sự suy tàn của Phật Giáo, là sự chiều chuộng quá đáng của những tín đồ đại thừa nhiệt tình đối với những sự mê tín của Ấn Độ giáo. Để truyền bá rộng tín ngưỡng của họ, không những họ đã nhân lên và thần thánh hóa Đức Phật, lại còn đưa một số thần và nữ thần Ấn Độ Giáo vào làm các vị thần Phật Giáo, dưới dạng những Bồ Tát để nhân cách hóa những năng lực của Phật Đà. Việc nầy làm cho Phật Giáo không còn khác biệt, ngọai trừ tên gọi, với các thần thánh Ấn Độ Giáo, sự khác biệt giữa hai tôn giáo bị xóa bỏ. Và khi Ấn Độ Giáo đưa Đức Phật vào danh sách các thần của họ để chứng minh rằng Phật Giáo là một phái của họ. Phật Giáo đánh mất tính riêng biệt.

    * * *

    KẾT LUẬN

    Mất sự bảo trợ của giới vua chúa có thể được coi là một nguyên nhân khác làm sự suy tàn của Phật Giáo mau chóng. Ví dụ, phải trên hai trăm năm để Phật Giáo mọc những chiếc rễ vững chãi và có được hình thái của một trào lưu giãi phóng xã hội lớn trên quê hương của nó. Việc nầy xảy ra với sự ra đời của vua A Dục (Ashoka) vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch. Tuy nhiên trong vòng năm mươi năm vua A Dục qua đời vào năm 232 trước Tây lịch, Đế quốc Khổng Tước (Maurya) sụp đỗ và Phật Giáo mất sự bảo trợ của giới vua chúa chỉ trở lại 300 năm sau với sự ra đời của Ca Nhị Sắc Ca (Kanishka) vào năm 78 sau Tây lịch. Với sự sụp đỗ của vương triều Quý Sương (Kushana) vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, Phật Giáo lại mất sự bảo trợ của giới vương giả. Giai đoạn sau Quý Sương là một giai đoạn rối ren chính trị, cuối cùng đã đưa đến sự nổi lên của vương triều Cấp Đa (Gupta) ở nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Những vị vua của vương triều Cấp Đa là những người theo Bà La Môn giáo và triều đại của họ được đánh dấu là đã làm phục hồi Bà La Môn giáo. Người bảo trợ có quyền hành cuối cùng cho Phật Giáo là vua Giới Nhật (Harsha) nắm quyền vào năm 606 sau Tây lịch, có nghĩa là năm trăm năm sau vua Ca Nhị Sắc Ca. Sau khi vua Giới Nhật mất vào năm 647, Phật Giáo lại mất sự bảo trợ của giới vương giả, và không bao giờ có lại được sự bảo trợ trên một phạm vi rộng lớn. Một khi sự bảo trợ của giới vua chúa không còn, và bị thay thế bằng sự đàn áp của giới vua chúa và tôn giáo, thành lũy cuối cùng của Phật Giáo sụp đổ nhanh chóng hơn có thể tưởng. Những gì còn lại chưa bị những người phản động Ấn Độ Giáo phá hủy hết lại bị dẹp sạch bởi những người cuồng tín Hồi Giáo. Như một nhà văn đã viết:

    - Màn cuối cùng trong vở kịch Phật Giáo trên sân khấu đất mẹ của nó, bắt đầu bị khủng bố, và chấm dứt trong câm lặng, một sự câm lặng lãng quên. Những nơi thiêng liêng đổ nát, bị rừng rậm che khuất, chùa chiền của nó chuyển sang tôn giáo khác. Đức Phật biến mất trong đám đông các thần Ấn Độ Giáo và ra khỏi ký ức của con người.

    Dù lý do nào đưa đến sự suy tàn và biến mất của Phật Giáo khỏi đất nước Ấn Độ đi nữa, một việc chắc chắn đó là điều bất hạnh nhất khi tôn giáo của Đức Phật, một tôn giáo hoàn cầu đầu tiên, đánh mất ảnh hưởng trên đất tổ của nó. Sự việc nầy xảy ra, Ấn Độ đã phải trả một giá rất đắt, đó là sự thật lịch sử. Nước Ấn Độ sung mãn cho đến khi Phật Giáo vẫn còn là một tôn giáo sống động, và khi Phật Giáo suy tàn, Ấn Độ đã mất đi tinh thần tự do, danh tiếng giảm sút, và sự tiến bộ bị ngăn trở.

    D.C. Ahir
    Trần Đức Phi Bằng
    dịch

    Giảng sư

    • Đôi nét về đạo Phật và Giáo hội Phật giáo Việt Nam

      Thứ Tư, ngày 5 tháng 5 năm 2021 - 08:57 Đã xem: 58507
      • A+
      • A-
      • Tại sao Phật Giáo có nguồn gốc ở ấn Độ những người dân ấn Độ lại không theo Đạo Phật

      Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội đương thời.

      ĐÔI NÉT VỀ ĐẠO PHẬT

      Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 624 trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.

      Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật.

      Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như dòng họ thế tục ngoài đời).

      Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.

      Về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Phật:

      Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):

      - Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.

      - Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.

      - Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.

      Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng vĩ đại. Riêng Đại tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những trước tác, bình luận, giải thích giáo lý và rất nhiều các lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý học được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.

      *Giáo lý:

      Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.

      Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý).

      Lý Nhân duyên

      Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không (mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân - duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên. Nhânvà duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó đượctạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp - tan của các nhân - duyên có trước để tạo ra nhân - duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.

      Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành - Trụ - Hoại - Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.

      Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân - duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của "Hành", Hành là duyên của "Thức", Thức là duyên của "Danh sắc", Danh sắc là duyên của "Lục nhập", Lục nhập là duyên của "Xúc", Xúc là duyên của "Thụ", Thụ là duyên của "Ái", Ái là duyên của "Thủ", Thủ là duyên của "Hữu", Hữu là duyên của "Sinh", Sinh là duyên của "Lão tử". Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.

      Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là "có"; khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt, lại trở về là "không". Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đờicon người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối.Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.

      Tứ diệu đế

      Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau khổ, do đó Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao con người ta lại đau khổ và làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn nguyên nguồn cội của sự khổ đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem kiến thức của mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.

      Song giai đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức Phật nói ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó Phật đã chuyển đổi phương phápgiảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.

      Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

      - Khổ đế:Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành 8 loại khổ (bát khổ):

      + Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);

      + Lão (tuổi già sức yếu là khổ);

      + Bệnh (đau ốm là khổ);

      + Tử (chết là khổ);

      + Ái biệt ly khổ(những người thân yêu phải xa nhau là khổ);

      + Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng khổ);

      + Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);

      + "Ngũ ấm xí thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được gọi là thân ngũ ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân ngũ đại của con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất tình, lục dục lôi cuốn… làm cho khổ sở).

      Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc sống để trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn mà điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết cho tốt đẹp.

      - Tập đế:nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quátnguyên nhân nỗi khổ thành “Thập kết sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó là: tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu không đúng, mê tín dị đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính ngay trong con người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3 điều: Tham - Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân chính của sự khổ đau.

      - Diệt đế:Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt cái nguyên nhân gây ra đau khổ.

      - Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế, vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát khổ để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và càng thêm đau khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ căn cơ của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện cho phù hợp với bản thân mình.

      Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:

      - Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ đến): quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ thị khổ.

      - Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành): tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.

      - Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được phát triển): Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.

      - Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.

      - Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.

      - Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định,xả.

      - Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế để tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói ở trên, Bát chính đạo được coi là pháp môn chính quan trọng nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi thời đại và mọi người. Giá trị của Bát chính đạo là giúp người ta tu dưỡng thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.

      * Giáo luật

      Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.

      Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.

      - Ngũ giới là 5 giới cấm:

      + Không sát sinh;

      + Không nói sai sự thật;

      + Không tà dâm;

      + Không trộm cắp;

      + Không uống rượu.

      - Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:

      + Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;

      + Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;

      + Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.

      Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi tiết vàcụ thể đối với từng loại xuất gia.

      -Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:

      Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:

      + Tỳ kheo phải giữ 250 giới.

      + Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.

      Theo Nam truyền Luật tạng thì:

      + Tỳ kheo phải giữ 227 giới

      - Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là:

      + Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.

      + Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.

      + Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa.

      + Không giữ vàng bạc.

      + Không ăn phi thời (quá giờ quy định).

      Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.

      -Đối với Phật tử tại gia:

      Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính, gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.

      Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8 giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa:

      + Không trang điểm

      + Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng và cũng không xem nghe ...).

      + Không ăn uống không đúng giờ.

      - Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người trong cách sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần Lục hòa (6 điều hòa hợp):

      + Thân hòa đồng trụ

      + Giới hòa đồng tu

      + Khẩu hòa vô tranh

      + Ý hòa đồng duyệt

      + Kiến hoà đồng giải

      + Lợi hòa đồng quân

      Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt Nam.

      * Lễ nghi

      Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người sáng lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản và đồng nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông phái và du nhập vào các dân tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng của người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…

      Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch):

      - Tết Nguyên đán

      - Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên

      - Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia

      - Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn

      - Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát

      - Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát

      - Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát

      - Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát

      - Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh

      - Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát

      - Ngày 14/7: Lễ Tự tứ

      - Ngày 15/7 : Lễ Vu lan

      - Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát

      - Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư

      - Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà

      - Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo

      Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống người Khmer, như:

      - Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây - Tết dân tộc của người Khmer);

      - Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…

      - Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);

      - Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).

      Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu nghị mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá - tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung tâm Liên hợp quốc trên thế giới.

      TỔ CHỨC CỦA PHẬT GIÁO

      Phật giáo chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần quyền, không có tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có những nhóm người cùng nhau đi truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáo đoàn. Tăng già có từ 4 người trở lên.Thành phần của đoàn thể Tăng già có thểbao gồm cả 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.

      Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng nhất trong đoàn thể được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng đoàn. Ngoài ra còn một số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.

      Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc gia, Phật giáo đã theo tinh thần Khế lý - Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh hoạt tăng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.

      HỆ PHÁI, TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO

      * Hệ phái Phật giáo

      Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã tuỳ theo căn cơ, đối tượng người nghe; tuỳ vào từng vấn đề; tuỳ vào phạm vi thời gian, không gian, điều kiện, hoàn cảnh…mà thuyết giảng. Sau khi Phật nhập Niết bàn, các vị Bồ tát, Thánh tăng đã tổ chức 4 lần kết tập kinh điển để lưu truyền giáo lý của Phật về sau cho các hàng đệ tử có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành.

      - Kết tập kinh điển thứ nhất được tổ chức tại thành Vương Xá sau khi Phật nhập diệt 7 ngày (có sách nói là 3 tháng) tập trung vào việc các Đại đệ tử của Phật tổng hợp và tụng lại các phần Kinh – Luật – Luận, tuy nhiên kết tập kinh điển lần này chỉ là sự tổng hợp và truyền tụng lại cho nhau qua lời nói, chưa có điều kiện để lưu lại trên văn tự.

      - Kết tập kinh điển thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới luật và tranh luận về 10 điều luật mới một bộ phận Tỳ kheo trẻ đưa ra.

      - Kết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức tại Thành Hoa Thị sau khi Phật nhập diệt 236 năm và cho đến lúc này cả 3 tạng Kinh – Luật – Luận mới chính thức được ghi chép bằng văn tự Pa li vào các lá bối.

      - Kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La sau khi Phật nhập diệt khoảng 600 năm. 3 tạng Kinh – Luật – Luận thời kỳ này đã được khắc bằng chữ Phạn vào các lá đồng dát mỏng rồi được lưu giữ tại một ngôi tháp lớn ở nước Kế Tân.

      Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo xuất hiện từ lần kết tập kinh điển thứ 2. Trong 10 điều luật mới một bộ phận tỳ kheo trẻ đưa ra và cho là hợp chính pháp, đó là: giáo diêm tịnh (được đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các món ăn khi không đủ muối); lưỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ 2 ngón tay vẫn được ăn); tụ lạc gian tịnh (trước ngọ ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn được phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy); tuỳ ý tịnh (quyết nghị đã được Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (được uống sữa pha nước sau giờ ngọ); thuỷ tịnh (rượu mới lên men được pha với nước uống trị bệnh); bất ích lũ Ni sư đàn tịnh (được dùng tọa cụ không viền, kích thước lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (được nhận tiền vàng bạc cúng dàng). Các vị tỳ kheo lớn tuổi không chấp nhận và cho đó là10 điều phi pháp. Các vị tỳ kheo trẻ không chịu, tách ra thành lập một đoàn thể riêng vớichủ trương hành đạo theo tinh thần "Khế lý - khế cơ", phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh từng thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Vì các vị chiếm số đông nên gọi là phái Đại chúng bộ. Các vị cao tăng với chủ trương giữ y giới luật như ngày Đức Phật còn tại thế, đa số là những người đạo cao, đức trọng nên gọi là phái Thượng toạ bộ.

      Phái Thượng toạ bộ truyền sang phía Nam qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia nên gọi là hệ phái Phật giáo “Nam truyền” hay “Nam tông”. Phái Thượng toạ bộ chủ trương tôn trọng lối truyền thừa và chủ trương tự độ, tự giác.

      Phái Đại chúng truyền sang Trung Quốc rồi truyền vào Việt Nam và Triều Tiên, Nhật Bản ... được gọi là hệ phái Phật giáo “Bắc truyền” hay “Bắc tông”. Phái này chủ trương linh động, khoan dung trong giới luật, không cố chấp vào từng chữ trong kinh để rút ra những bài học về triết lý thực hành với tinh thần nhập thế, phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh cùng giác ngộ như mình, có nghĩa là: Tự độ, độ tha; Tự giác, giác tha.

      * Tông phái Phật giáo

      Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp cận, nhìn nhận khác nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế lý - khế cơ, từ hai phái lớn của Phật giáo lại được phân thành nhiều tông phái khác nhau. Có thể nói, sự hình thành các tông phái không phải là sự phân liệt, tranh chấp trong Phật giáo về quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng không phải là sự phủ định lẫn nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên vững chắc.

      Trước đây, Phật giáo có nhiều tông phái, sau này phần nhiều các tông phái có cùng khuynh hướng sát nhập lại với nhau, còn lại 10 tông phái:

      1.Câu Xá tông

      2.Thành Thật tông

      3.Tam Luận tông

      4.Pháp Tướng tông

      5.Thiên Thai tông

      6.Hoa Nghiêm tông

      7.Luật tông

      8.Thiền tông

      9.Tịnh độ tông

      10.Mật tông

      Chín tông phái (từ 1 đến 9) thuộc loại bộ Hiển giáo. Trong Hiển giáo lại được chia ra Nam tông (1,2) và Bắc tông (từ 3 đến 9). Hiển giáo là thứ giáo lý có thể dùng ngôn ngữ để phát biểu, diễn đạt được. Hiển giáo là do Báo thân và Ứng thân Phật thuyết pháp.

      Đối với Mật tông thuộc loại bộ Mật giáo, là thứ giáo lý không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Mật giáo là do Pháp thân Phật thuyết pháp, do đó giáo phái này còn được gọi là Chân Ngôn hay Chân Ngôn tông.

      QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO PHẬT VÀO VIỆT NAM

      Theo sử sách Phật giáo Việt Nam còn ghi lại, đạo Phật du nhập vào Việt Nam cả 2 hệ phái: Phật giáo Nam tông (từ phía Nam truyền xuống) và Phật giáo Bắc tông (từ phía Bắc truyền sang) qua 2 con đường:

      - Đường bộ: năm 198 Phật giáo chính thức được truyền vào Việt Nam qua đườngbộ từ Trung Quốc xuống với tên tuổi của các danh Tăng nổi tiếng như: Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La...

      - Đường thuỷ: đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ 2 hướng:

      + Thế kỷ XIII, đạo Phật được truyền từ Srilanca vào “Thuỷ Chân Lạp”, nay là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

      + Khoảng giữa thế kỷ XVI, vào thời nhà Thanh ở Trung Quốc, khi đời sống xã hội bất ổn, một số thiền sư thuộc Thiền phái Lâm Tế đã đi theo các tàu buôn sang lánh nạn ở Việt Nam và địa phương nơi tiếp nhận phái thiền này đầu tiên là khu vực tỉnh Bình Định ngày nay.

      Có một số nhà nghiên cứu cho rằng có dấu hiệu đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ III (trước công nguyên) tại khu vực Đồ Sơn (thành phố Hải Phòng) do một số Tăng sĩ Ấn Độ đi cùng các thương nhân đến buôn bán ở Việt Nam. Như vậy, có thể nói dù đạo Phật truyền vào Việt Nam thời gian nào thì cũng phải khẳng định đạo Phật là một tôn giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm so với các tôn giáo khác và có sự gắn bó, hoà đồng với truyền thống, văn hoá, bản sắc của dân tộc Việt, được người Việt chấp nhận để có thể tồn tại và phát triển đến ngày nay.

      Phật giáo khi truyền vào Việt Nam lúc đầu phát triển theo đơn vị gia cư, mỗi cơ sở Phật giáo như là một gia đình, gọi là “Trụ xứ tòng lâm”, từ đó lại phát triển ra nhiều chùa theo một sư tổ, thành một dòng họ và được gọi thành tên khác nhau ở mỗi miền: ở miền Bắc gọi là “Sơn môn”, ở miền Trung gọi là “Môn phái” và miền Nam gọi là “Môn phong”.

      ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM VỚI ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ

      Trải qua các triều đại phong kiến, thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần và qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Phật giáo Việt Nam đều có những đóng góp to lớn trong công cuộc hộ quốc, an dân. Công lao của Phật giáo Việt Nam đã được các triều đại, nhà nước và lịch sử Việt Nam ghi nhận. Thời nhà Đinh có Thiền sư Ngô Chân Lưu (933 – 1011) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Khuông Việt Đại sư và phong chức Tăng thống đứng đầu Phật giáo cả nước vì những đóng góp quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Thời nhà Lý có Thiền sư Vạn Hạnh được vua Lý Công Uẩn phong làm Quốc sư vì đã có nhiều cống hiến để xây dựng nên sự thịnh vượng của vương triều Lý; ngoài ra còn có các vị Thiền sư: Đa Bảo, Sùng Phạm, Không Lộ, Mãn Giác, Viên Thông ... là những danh tăng đã hết lòng phù trợ triều đình để xây dựng đất nước phát triển rực rỡ trong một thời gian dài... Thời nhà Trần, đạo Phật tuy không trực tiếp tham gia vào các công việc triều chính như thời kỳ trước nhưng lại có đóng góp rất to lớn về các mặt tư tưởng, văn hoá, xã hội. Các Thiền sư, Hoàng đế thời Trần đã lập nên một hệ tư tưởng cho Phật giáo Việt Nam, đó là Thiền phái Trúc Lâm và tiêu biểu là Đức vua Trần Nhân Tông sau khi rời bỏ ngai vàng đã khai sáng ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.

      Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta, nhiều Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử Phật giáo Việt Nam đã tham gia đoàn quân cứu nước và nhiều vị đã anh dũng hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Nhiều ngôi chùa Phật giáo Việt Nam đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, dự trữ lương thảo, quân nhu ... phục vụ quân đội trong suốt những năm tháng chiến tranh.

      Đánh giá về công lao của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trong buổi tiếp các đại biểu của Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam: “Trong quá khứ, Phật giáo Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo mà từ bản chất, bản sắc từ trong thực tiễn hoạt động của mình đã biểu hiện truyền thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc”.

      GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

      * Lịch sử hình thành GHPGVN

      Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật tồn tại và phát triển theo truyền thống sơn môn. Các sơn môn sinh hoạt độc lập, ít có sự liên hệ và chịu sự chi phối của các sơn môn khác.

      Khi thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, cũng là lúc Pháp mang theo văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo phương Tây truyền bá vào Việt Nam, mặt khác ra sức kỳ thị, chèn ép Phật giáo với mưu đồ xoá dần tín ngưỡng, tôn giáo, văn hoá truyền thống của người dân Việt. Trong nước, Phật giáo không còn được sự ủng hộ như trước đây ... Bản thân Phật giáo lúc này nặng về tín ngưỡng hơn tư duy. Từ bối cảnh đó, một số Tăng Ni, Cư sĩ có tâm huyết và tinh thần đạo pháp, dân tộc đã quyết tâm chỉnh đốn lại bằng cách mở trường Phật học, dịch kinh điển sang chữ quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử dễ học, dễ hiểu, xây dựng các cơ sở xã hội, ra các tờ tạp chí với mục đích giúp đỡ nhau cùng học Phật và hoằng pháp, nêu cao tinh thần dân tộc. Chương trình học văn hoá cũng được đưa vào giáo dục cho Tăng Ni.

      Phong trào “Chấn hưng Phật giáo” ở cả 3 miền Trung - Nam - Bắc trong những thập niên 30, 40 của thế kỷ XX đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm đối với Dân tộc và Đạo pháp của Tăng Ni, Phật tử, nhất là sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Cùng với các tổ chức cứu quốc khác, Phật giáo cứu quốc ra đời…

      Phật giáo Việt Nam đã ý thức được rằng muốn có sức mạnh thật sự phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp nhau trong một tổ chức để chấn hưng đạo pháp, bảo vệ văn hoá truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là lý do để Phật giáo tiến hành các cuộc vận động thống nhất Phật giáo trong cả nước:Cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất (năm 1951) với sự tham dự của 6 đoàn thể Phật giáo ở 3 miền; Cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở các tỉnh, thành phố phía Bắc (năm 1957, 1958); Cuộc vận động thống nhất Phật giáo năm 1964 tại miền Nam để thành lập nên "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất". Tuy nhiên, sự thống nhất của 3 cuộc vận động này chưa được trọn vẹn vì đây không phải là sự thống nhất của Phật giáo trên toàn quốc màchỉ là sự thống nhất của một số tổ chức Phật giáo hay của một miền.

      Cuộc vận động thống nhất Phật giáo cả nước, thành lập GHPGVN

      Đầu năm 1980, thể theo nguyện vọng của toàn thể Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử, các vị Giáo phẩm đại diện cho các tổ chức hệ phái lớn của Phật giáo họp tại thành phố Hồ Chí Minh và quyết định thành lập “Ban Vận động thống nhất Phật giáo” để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước, bao gồm đại diện của 9 tổ chức, hệ phái:

      - Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (ở miền Bắc);

      - Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Ấn Quang);

      - Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố HồChí Minh;

      - Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam;

      - Giáo hội Tăng già nguyên thuỷ Việt Nam;

      - Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Tây Nam bộ (Phật giáo Khmer);

      - Giáo phái Khất sĩ Việt Nam;

      - Giáo hội Thiên Thai giáo quán tông;

      - Hội Phật học Nam Việt.

      Tháng 11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ đại diện cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên để thành lập nên một tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là"Giáo hội Phật giáo Việt Nam"(GHPGVN). Tại Lời nói đầu của Hiến chương, GHPGVN đã khẳng định: Sự thống nhất Phật giáo Việt Nam đặt trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuynhiên, các truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trì”,và xác định“Phương châm hoạt động của GHPGVN là: Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, “GHPGVN là tổ chức Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước”.Hiến chương GHPGVN đã khẳng định:"Mục đích của GHPGVN là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”.

      * Các kỳ Đại hội của GHPGVN

      GHPGVN ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng đoàn kết, thống nhất Phật giáo Việt Nam của đông đảo Tăng Ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam đểthực hiện sự nghiệp truyền bá và duy trì giáo lý Phật giáo, đóng góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đến nay, GHPGVN đã trải qua 6 kỳ Đại hội.

      - Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1981 - 1987) của GHPGVN chính là Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1981. Đâyđược coi là thời kỳ xây dựng nền móng cho GHPGVN. Về hệ thống tổ chức GHPGVN có 2 cấp: cấp TW và cấp tỉnh dưới sự lãnh đạo của 2 Hội đồng: Hội đồng Chứng minh (HĐCM) và Hội đồng Trị sự (HĐTS); giúp việc cho TW Giáo hội có 2 Văn phòng: Văn phòng I (đặt tại Hà Nội) và Văn phòng II (đặt tại thành phố Hồ Chí Minh) và 6 ban hoạt động (Ban Tăng sự; Ban Giáo dục Tăng Ni; Ban Hướng dẫn nam nữ Cư sĩ Phật tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban Văn hóa), thành lập được 28 Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh.

      - Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1987 - 1992) GHPGVN tổ chức vào tháng 10/1987. Đây là giai đoạn phát triển các mặt hoạt động theo chương trình nội dung 6 điểm của Giáo hội trong thời kỳ đổi mới của xã hội và đất nước, số lượng Ban Trị sự được thành lập lên tới 33 đơn vị và bổ sung thêm 2 ban ngành hoạt động (Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội; Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam)thành 8 ban chuyên môn.

      - Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1992 - 1997) GHPGVN tổ chức vào tháng 11/1992. Đây là giai đoạn tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của Giáo hội. Giáo hội đã có 10 ban, viện hoạt động và được duy trì cho tới ngày nay (thành lập thêm Ban Phật giáo Quốc tế và tách Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội thành 2 ban: Ban Kinh tế Tài chính và Ban Từ thiện xã hội)và 41 Ban Trị sự Phật giáo.

      - Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 1997 - 2002) GHPGVN tổ chức vào tháng 11/1997. Giáo hội đã thành lậpđược 45 đơn vị tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước với 10 ban, viện hoạt động.

      - Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2002 - 2007) GHPGVN tổ chức vào tháng 12/2002. Đây là nhiệm kỳ GHPGVN củng cố các ban, viện. Kết thúc nhiệm kỳ, GHPGVN đã có 54 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo.

      - Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2007 - 2012) GHPGVN tổ chức vào tháng 12/2007. Đại hội được coi là một bước thay đổi lớn trong quá trình phát triển của GHPGVN, nổi bật là cải tiến về vấn đề nhân sự tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Phật giáo ở các cấp, đặc biệt quan tâm đến sự kế thừa trong Giáo hội, ưu tiên trọng dụng đội ngũ Tăng Ni trẻ có trình độ và uy tín, năng lực. Đại hội cũng đã thông qua bản Hiến chương sửa đổi có quy định về Đạo kỳ, Đạo ca và hệ thống tổ chức được nâng lên 3 cấp thay vì 2 cấp như trước đây: cấp TW - cấp tỉnh - cấp huyện; tăng số lượng thành viên tham gia HĐCM, HĐTS và Ban Trị sự Phật giáo.

      Trên cơ sở hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của Đạo Phật và các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động tôn giáo, GHPGVN đã trải qua 6 kỳ Đại hội với 4 lần sửa đổi Hiến chương (tại Đại hội lần thứ II, III, IV và VI) và đã có những điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn nhất định cho phù hợp với yêu cầu và thực tế khách quan để củng cố tổ chức và đáp ứng được yêu cầu đề ra.

      * Về số lượng:Tính đến tháng 6/2010, GHPGVN có 56/63 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, 01/63 Ban Đại diện Phật giáo cấp thị xã (chưa có tổ chức bộ máy Phật giáo cấp tỉnh); 14.775 cơ sở thờ tự, 44.498 Tăng Ni[1](trong đó Bắc tông có 32.165 vị, Nam tông có 9.379 vị, Khất sĩ có 2.954 vị) và trên 10.000.000 tín đồ được phân bố trên phạm vi toàn quốc.

      * Thành phần tham gia GHPGVN

      Thành phần của GHPGVN gồm các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni và Cư sĩ thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam đã hợp nhất, hình thành GHPGVN và chấp nhận Hiến chương của GHPGVN.

      Thành phần Tăng, Ni trong GHPGVN gồm 2 thành phần: giáo phẩm và đại chúng.

      - Thành phần giáo phẩm

      + Giáo phẩm Tăng: Hoà thượng, Thượng tọa

      + Giáo phẩm Ni: Ni trưởng, Ni sư

      - Thành phần đại chúng: gồm những Tăng, Ni đã thụ giới Tỳ kheo (Đại đức), Tỳ kheo Ni (Sưcô), Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni.

      *Cơ cấu tổ chức

      - Cấp Trung ương

      + HĐCM: gồm các vị Hoà thượng tiêu biểu của các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam có 70 tuổi đời, 50 tuổi đạo trở lên, không giới hạn số lượng và được Đại hội Phật giáo toàn quốc suy tôn. HĐCM suy cử một Ban thường trực do một vị Hoà thượng Pháp chủ đứng đầu. Ban thường trực HĐCM có nhiệm vụ: Chứng minh các Hội nghị Trung ương và Đại hội GHPGVN; Hướng dẫn và giám sát các hoạt động của Giáo hội về mặt đạo pháp và giới luật; Phê chuẩn tấn phong chức vị giáo phẩm Hoà thượng, Thượng toạ, Ni trưởng, Ni sư của GHPGVN; Ban hành Thông điệp về Phật đản, Thư chúc tết và tình hình GHPGVN trong những tình huống đặc biệt.

      + HĐTS: gồm các vị Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức, Tăng Ni và Cư sĩ của Giáo hội do Ban thường trực HĐTS tiền nhiệm đề cử và Đại hội đại biểu GHPGVN suy cử. HĐTS là cấp điều hành cao nhất của Giáo hội về các mặt hoạt động của Giáo hội giữa hai kỳ Đại hội, ấn định chương trình hoạt động hàng năm của Giáo hội theo đúng Nghị quyết của Đại hội đại biểu GHPGVN và đôn đốc, kiểm soát việc thực hiện chương trình đó. HĐTS có nhiệm vụ suy cử một vị Hoà thượng Chủ tịch đứng đầu và suy cử Ban thường trực để Ban này thay mặt HĐTS điều hành hoạt động của GHPGVN theo nội quy của mình và có đệ trình để HĐCM biết.

      Bộ máy giúp việc cho hoạt động ở cấp TW gồm có 9 ban, 1 viện(Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Hướng dẫn Phật tử (gồm 2 phân ban: Cư sĩ Phật tử và Gia đình Phật tử), Ban Hoằng pháp, Ban Nghi lễ, Ban Văn hóa, Ban Kinh tế - Tài chính, Ban Từ thiện xã hội, Ban Phật giáo Quốc tế, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (có 1 phân viện đặt tại Hà Nội))và 4 vị ủy viên kiểm soát,2 ủy viên pháp chế, 2 văn phòng.

      Các ban, viện hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban. Chương trình hoạt động phải phù hợp với Nội quy hoạt động của Ban thường trực HĐTS và được Ban thường trực HĐTS thông qua mới được thực hiện. Các ban, viện có thể thành lập các phân ban, phân viện để phụ trách các chuyên ngành hoạt động theo nội quy riêng được Ban thường trực HĐTS chuẩn y.Việc sửa đổi, bổ sung nội quy do từng ban, ngành, viện đề xuất và được Ban thường trực HĐTS GHPGVN xét duyệt, chấp thuận.

      Hai văn phòng GHPGVN: có trách nhiệm giúp việc cho HĐCM, HĐTS và phối hợp với các ban, viện triển khai công tác Phật sự trong lĩnh vực hành chính, văn phòng.

      Nhiệm kỳ hoạt động của Ban thường trực HĐCM, HĐTS và các ban, viện, ủy viên, văn phòng là 5 năm, tương ứng với nhiệm kỳ Đại hội.

      - Cấp tỉnh:Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo có trách nhiệm điều hành hoạt động của Phật giáo địa phương theo đúng Hiến chương của Giáo hội và phù hợp với pháp luật Việt Nam, đồng thời triển khai các công việc Phật sự theo sự chỉ đạo của HĐTS GHPGVN.

      - Cấp huyện:Ban Đại diện Phật giáo là cơ quan giúp việc cho Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, thực hiện các công việc Phật sự ở địa phương mình theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ theo nội quy do Giáo hội ban hành.

      Những phường xã, thị trấn có nhiều cơ sở thờ tự và Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử thì Ban Đại diện Phật giáo giới thiệu để Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh bổ nhiệm một đại diện phường, xã, thị trấn hay liên phường, xã, thị trấn tại địa phương làm đầu mối để giúp Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện liên hệ với các cơ sở của Giáo hội về mặt sinh hoạt tín ngưỡng.

      *Một số hoạt động cơ bản của GHPGVN

      - Hoạt động Tăng sự:Hàng năm, Ban Tăng sự đều triển khai các công tác: Thống kê Tăng Ni, Tự Viện để bổ sung vào danh bộ của Giáo hội; cấp Giấy chứng nhận cho Tăng Ni để công nhận là nhà sư thuộc GHPGVN; tổ chức An cư Kiết hạ để chấn chỉnh quy củ sinh hoạt và nề nếp của Tăng Ni, đồng thời giúp cho Tăng Ni có thời gian và điều kiện học tập, trau dồi đạo hạnh, trí tuệ; tổ chức các Giới đàn thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni và thụ Thập thiện và Bồ Tát giới cho hàng Phật tử tại gia, đây là sự ghi nhận về sự tăng trưởng đạo pháp của GHPGVN đối với hàng đệ tử xuất gia và tại gia, đồng thời cũng hướng cho họ tu học theo đúng chính pháp; bổ nhiệm sư trụ trì tại các cơ sở thờ tự của GHPGVN để quản lý và phục vụ tín ngưỡng Phật giáo cho nhân dân; bồi dưỡng hành chính và trụ trì cho Tăng Ni để trang bị kiến thức cho các vị thực hiện mọi hoạt động tuân thủ Hiến chương của Giáo hội và pháp luật của Nhà nước.

      Công tác Tăng sự của GHPGVN đã góp phần quan trọng trong việc ổn định sinh hoạt Phật giáo ở TW cũng như địa phương, giúp cho HĐTS GHPGVN quản lý tổng thể và tương đối toàn diện về sự phát triển (trên cả 2 mặt: số lượng và chất lượng) của Giáo hội để đề ra những chủ trương, phương hướng hoạt động trong từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với phương châm Giáo hội đã đề ra.

      - Hoạt động giáo dục Tăng Ni:Ngay từ sau khi thành lập, GHPGVN đã mở trường Cao cấp Phật học Việt Nam (đến ngày 23/6/1997 đổi tên thành “Học viện Phật giáo Việt Nam”) cơ sở 1, đặt tại Hà Nội và khai giảng khoá I vào tháng 12/1981; cơ sở 2 đặt tại thành phố Hồ Chí Minh và khai giảng khoá I vào tháng 10/1984. Đến nay, GHPGVN đã có 4 Học viện Phật giáo, 8 lớp Cao đẳng Phật giáo (tháng 8/2009, Trường Trung cấp Phật học thành phố Hải Phòng được Chính phủ chấp thuận cho nâng cấp lên thành Trường Trung - Cao đẳng Phật học) và 32 trường Trung cấp, hàng trăm lớp sơ cấp Phật học và thường xuyên tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho Tăng Ni, Cư sĩ thuộc thành viên Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Giảng huấn các trường tham dự… GHPGVN đã đào tạo được hàng ngàn Tăng Ni có trình độ Cử nhân Phật học và Cao đẳng Phật học, hàng vạn Tăng Ni có trình độ Trung cấp Phật học. Ngoài ra, GHPGVN còn cử hàng trăm Tăng Ni đi du học làm Nghiêncứu sinh, Thạc sĩ Phật học và rất nhiều Tăng Ni đi học Phật học cũng như thế học, ngôn ngữ ở nước ngoài. Hiện nay đã có trên 200 Tăng Ni về nước tham gia các ban, viện TW, Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo địa phương và các cơ sở giáo dục Phật giáo...

      - Hoạt động hoằng pháp:Công tác hoằng pháp được đặt ra ngay từ khi thành lập GHPGVN. Hàng năm Ban Hoằng pháp TW tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng, hội thảo nghiệp vụ cho Giảng sư đoàn TW cũng như đoàn Giảng sư các tỉnh; tổ chức các Hội thi giáo lý cho Cư sĩ, Phật tử; thuyết giảng tại các đạo tràng, hướng dẫn Phật tử tu tập Bát quan trai...

      Trong những năm qua công tác hoằng pháp của GHPGVN đã hướng dẫn được đông đảo Phật tử tu học theo đúng chính pháp của Đức Phật, góp phần nâng cao nhận thức giáo lý Phật giáo cho Phật tử, bài trừ tệ nạn lợi dụng tín ngưỡng Phật giáo để hành nghề mê tín dị đoan và giữ gìn sự đoàn kết, ổn định trong một bộ phận xã hội.

      - Hoạt động hướng dẫn Phật tử:Công tác hướng dẫn Phật tử được chia thành 2 phần chính: hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử và hướng dẫn Gia đình Phật tử. Công tác hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử nổi bật nhất là thông qua hướng dẫn hoạt động của các đạo tràng như: Pháp Hoa, Dược sư, Tịnh độ, tu Thiền… cho các giới nam, nữ Phật tử tại các cơ sở tự viện của GHPGVN trong toàn quốc. Công tác hướng dẫn Gia đình Phật tử sinh hoạt trong các nhà chùa cũng được quan tâm.

      - Hoạt động văn hoá:Đến tháng 6/2010, GHPGVN đã có 6 ấn phẩm Phật giáo được phép xuất bản, đó là: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp chí Văn hoá Phật giáo, Tạp chí Khuông Việt, Tạp chí Nguyên Thuỷ, Tuần báo Giác Ngộ và Nguyệt san Giác Ngộ. Bên cạnh đó, hàng năm GHPGVN ở TW và địa phương đã xin xuất bản hàng trăm đầu kinh sách và băng, đĩa để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, đọc tụng, học tập, nâng cao sự hiểu biết về văn hoá Phật giáo gắn với văn hoá dân tộc cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.

      - Hoạt động kinh tế tài chính:GHPGVN với chủ trương tự chủ về kinh phí hoạt động và góp phần xây dựng đất nước, do đó kinh phí được Giáo hội huy động tập trung từ một số nguồn cơ bản: vận động các cơ sở thờ tự tạo nguồn kinh tế nhà chùa; thành lập Công ty kinh doanh các ấn phẩm Phật giáo và tổ chức các tour du lịch Phật giáo trong và ngoài nước; vận động Tăng Ni, Tự viện đóng góp… và thực tế đã chứng minh, trong gần 3 thập kỷ qua GHPGVN đã tồn tại, phát triển và có nhiều đóng góp cho đất nước trong các công tác từ thiện, nhân đạo … bằng chính nội lực của mình.

      - Hoạt động từ thiện xã hội:Công tác từ thiện xã hội là những hoạt động Phật sự mang tinh thần nhân đạo, thể hiện sự nhập thế của Phật giáo Việt Nam, là một trong những công tác trọng tâm của Giáo hội. GHPGVN hiện có 126 Tuệ Tĩnh đường và phòng phát thuốc từ thiện; hàng trăm phòng thuốc chẩn trị y học dân tộc; trên 1000 lớp học tình thương; nhiều cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú, trẻ mồ côi, khuyết tật; nhiều trường dạy nghề miễn phí, hàng chục cơ sở chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS… và rất nhiều các hoạt động khác. Chỉ riêng nhiệm kỳ V (2002 - 2007), GHPGVN đã tổ chức cứu trợ đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh và các hoạt động nhân đạo từ thiện khác vớitổng số kinh phí trên 400 tỷ đồng. Bên cạnh đó, GHPGVN còn tham gia các hoạt động ủng hộ, cứu trợ nhân dân thế giới bị ảnh hưởng bởi các cuộc thiên tai, bão lũ …

      - Hoạt động Phật giáo quốc tế:Trong xu thế toàn cầu hoá, với tinh thần hoà bình, hữu nghị, hợp tác với Phật giáo các nước trên thế giới, hoạt động Phật giáo quốc tế của GHPGVN đã ngày càng phát triển và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. GHPGVN luôn tích cực tham gia các tổ chức và hoạt động Phật giáo tiến bộ trên thế giới, như:

      + Tham gia là thành viên của tổ chức ABCP (Asian Buddhist Confrence for Peace - Tổ chức Phật giáo Châu Á vì hoà bình). Mục tiêu của ABCP là đấu tranh vì hoà bình, hạnh phúc cho con người, chống chiến tranh.

      + GHPGVN tham gia các kỳ Đại lễ Vesak (ngày tam hợp đức Phật: ngày Phật sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn). Đại Hội đồng Liên hợp quốc tại phiên họp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự (ngày 15 tháng 12 năm 1999) đã chính thức công nhậnĐại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc, tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật. Năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc với sự tham gia của Phật giáo 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.

      + Tham gia tổ chức Ni giới thế giới: Đây là tổ chức hoạt động nhằm khẳng định quyền bình đẳng nam nữ, tạo cơ hội cho nữ giới trong các hệ phái Phật giáo tu học, hoạt động vì mục tiêu hòa bình và công bằng xã hội. GHPGVN đã đăng cai tổ chức Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ 11 tại Việt Nam (vào tháng 12/2009) đạt kết quả tốt.

      + Tham gia là thành viên của Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế giới (tên đầy đủ làHội Phật giáo Thế giới truyền bá chánh pháp).

      Ngoài ra, GHPGVN có quan hệ ngoại giao, thân hữu với rất nhiều nước có Phật giáo như: Srilanca, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Singapore, Indonesia... Tăng Ni GHPGVN còn có các quan hệ cá nhân hoặc trong sơn môn, pháp phái với Tăng Ni, Phật tử người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, tập trung ở một số nước như: Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Ucraina, ...

      Hiện nay đã có trên 300 ngôi chùa Việt Nam ở gần 30 nước trên thế giới.

      - Hoạt động nghiên cứu Phật học:Tập trung vào một số lĩnh vực: nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản kinh sách, Tạp chí Phật học;tổ chức và tham dự các cuộc hội thảo, hội nghị, các hoạt động Phật giáo trong nước và quốc tế (ví dụ: giới thiệu về lịch sử Phật giáo và Phật giáo Việt Nam; phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo về các vị danh tăng thuộc Phật giáo Việt Nam có công với đạo Pháp và dân tộc …); tổ chức các thư viện, phòng đọc sách phục vụ nhu cầu nghiên cứu và học tập của Tăng Ni, Phật tử;…

      Hoạt động nghiên cứu Phật học của GHPGVN đã góp phần vào làm phong phú kho tàng tri thức của Phật giáo Việt Nam và có những đóng góp nhất định vào sự tìm hiểu mối tương quan giữa văn hoá Phật giáo với văn hoá dân tộc Việt Nam.

      - Hoạt động nghi lễ của GHPGVN:GHPGVN được hợp thành bởi 9 tổ chức, hệ phái Phật giáo khác nhau và mỗi tổ chức, hệ phái lại có những đặc thù và truyền thống riêng, do đó với tinh thần tôn trọng sự biệt truyền của từng hệ phái GHPGVN khó có thể đưa ra một quy định nghi lễ thống nhất trong toàn Giáo hội, tuy nhiên GHPGVN đã có hướng dẫn các địa phương, các hệ phái tổ chức những ngày lễ trọng của Phật giáo (như: Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan Báo hiếu, Lễ Tưởng niệm …) trên tinh thần chung là bảo tồn nét văn hoá truyền thống của Phật giáo Việt Nam, đó là đoàn kết, trang nghiêm, đảm bảo nếp sống văn hoá mới, giữ gìn an ninh trật tự và không trái với quy định của luật pháp nhà nước. Thực tế những năm qua cho thấy, các nghi lễ trong lễ hội Phật giáo cũng như các hoạt động khác của Giáo hội đã góp phần làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần của một bộ phận đồng bào theo đạo, đồng thời có những đóng góp vào truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam.

      Ngoài các hoạt động nêu trên, GHPGVN còn có rất nhiều hoạt động khác để “dưỡng đạo”, “hành đạo” và “quản đạo”, không ngừng củng cố tổ chức Phật giáo từ TW đến các địa phương; tổ chức các kỳ Hội nghị, Đại hội; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển … chức sắc tôn giáo; xây, sửa cơ sở thờ tự;…

      * *

      *

      Gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi để giáo hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.

      Tiếp nối truyền thống đó của Phật giáo Việt Nam, GHPGVN đã và đang viết tiếp vào trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam, tiếp tục khẳng định chỗ đứng của Phật giáo trong lòng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu hoà bình, tôn trọng sự sống, GHPGVN hôm nay với phương châm hoạt động“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”luôn tích cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã hội bình đẳng và văn minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc-An dân”./.

      NguồnBan Tôn giáo Chính Phủ