Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

tiểu luận đánh giá học sinh tiểu học

Show

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.59 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
*******************
ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC
Hà Nội, 2014

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Nguyễn Công Khanh (2014), Kiểm tra đánh giá trong giáo dục, nxb ĐHSP
 Trần Thị Tuyết Oanh (2014), Đánh giá kết quả học tập, nxb ĐHSP
 Trần Bá Hoành (1995), Đánh giá trong giáo dục, Vụ Đại Học, HN
 Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Trường ĐH Ngoại ngữ, Dự án Đào tạo Việt Nam – Ôxtrâylia
(dự án VAT), Chương trình đào tạo giảng viên (tài liệu học phần 4), (10/2002)
 Lâm Quang Thiệp (2008), Trắc nghiệm và ứng dụng, nxb Khoa học và Kĩ thuật, HN
 Dương Thiệu Tống (2005), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập (phương
pháp thực hành), nxb Khoa học Xã hội.
 Phó Đức Hòa (chủ biên) (2008), Lí thuyết trắc nghiệm khách quan & thiết kế bài tập
trắc nghiệm khách quan ở tiểu học, nxb GD
 Phó Đức Hòa (2012), Đánh giá trong giáo dục tiểu học, nxb ĐHSP
 Bộ GD&ĐT, Dự án PTGVTH (2007), Đánh giá kết quả học tập ở tiểu học, nxb GD
 Bộ GD&ĐT: Quy định đánh giá & xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành kèm theo thông
tư số 30/2014/QĐ-BGDĐT, ngày 28/8/2014)

MỤC LỤC

PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Đánh giá (assessment)
Có nhiều định nghĩa về ĐG trong GD; tùy vào mục đích ĐG, cấp độ ĐG, đối tượng ĐG mà mỗi
định nghĩa nhấn mạnh hơn vào khía cạnh nào đó của lĩnh vực cần ĐG
Xem xét ở cấp độ chung nhất và nhấn mạnh tới khía cạnh giá trị, coi ĐG là sự thu thập & lí
giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về mặt giá trị. Như Beeby


(1997): Đánh giá là sự thu thập & lí giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới
sự phán xét về giá trị theo quan điểm hành động.
Theo Marger (1993): Đánh giá là việc miêu tả tình hình của HS & GV để quyết định công
việc cần phải tiếp tục và giúp HS tiến bộ. Định nghĩa này nhấn mạnh tới việc cần phải đi
đến quyết định nào đó, có thể là quyết định về người học, người dạy hay chương trình…
Theo Jean-Marie De Ketele (1989), đánh giá nghĩa là:
- thu thập một tập hợp thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy.
- xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này & một tập hợp tiêu chí phù hợp với
mục tiêu định ra ban đầu hay được điều chỉnh trong quá trình thu thập thông tin.
- nhằm ra một quyết định.
Theo R.Tiler (1984): Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện
các mục tiêu của chương trình giáo dục. Định nghĩa này nhấn mạnh sự phù hợp giữa mục
tiêu & việc thực hiện;
Nhìn chung, các quan niệm về đánh giá đều được xem xét phù hợp với mục đích & đối
tượng cụ thể cần đánh giá. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm chung về đánh giá trong
giáo dục như sau: Đánh giá là quá trình tiến hành có hệ thống để xác định mức độ mà đối
tượng đạt được các mục tiêu giáo dục nhất định. [1; tr9]
Đánh giá là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những nhận định, kết luận hay phán đoán
về trình độ, phẩm chất của người học; hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa
trên cơ sở những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra.
1.1.2. Đo lường (measurement)
a. Khái niệm đo lường
Khái niệm đo lường bắt nguồn từ khoa học vật lí. Trong vật lí học, đo lường là sự so sánh
đại lượng cần đo với một đại lượng được coi là đơn vị để đo.
Gronlud cho rằng: đo lường là tiến trình đạt được sự mô tả bằng số lượng về mức độ mà
một cá nhân làm được trong một lĩnh vực cụ thể.

Đo lường là khái niệm chung để chỉ sự so sánh một vật hay một hiện tượng với một thước
đo hoặc chuẩn mực có khả năng trình bày kết quả về mặt định lượng. Trong GD, bộ thước
đo có thể bao gồm các tiêu chí & các chỉ số ứng với các lĩnh vực. Đó có thể là chỉ số định


lượng (điểm số) hoặc có thể là chỉ số định tính (nhận xét của người đánh giá)
Đo lường là một cách để tiến hành kiểm tra đánh giá - đó là việc ghi ra các con số (điểm)
hay các mức độ dựa trên một số hệ quy tắc.
Ví dụ: Điểm 9 trên 10 với một bài viết luận là một cách đo lường. Và một cách xếp
hạng có thể so sánh được cho một bài luận như vậy sẽ là A tính theo thang điểm từ A
đến E.
Đo lường có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như các bài kiểm tra, thang đo lường,
bảng kiểm. Mỗi một trong số các phương tiện này đều có thể dùng để đo lường
Ví dụ: có thể đo lường ý kiến của người học về mức độ điều kiện, địa điểm học tập
bằng sử dụng thang 5 điểm đơn giản như sau: Bạn đánh giá như thế nào về điều kiện
địa điểm học tập nói chung (phòng học, phòng thí nghiệm, các buổi thực hành?). Hãy
đánh dấu () vào ô nào phù hợp với ý kiến của bạn
Rất hài lòng 
Hài lòng 
Vừa phải 
Kém 
Rất kém 
Nhận xét: Nếu có nhiều người học đánh giá các điều kiện này từ “vừa phải” đến “rất
kém” thì đó là một đo lường rõ ràng về việc người học không hài lòng với điều kiện
địa điểm học tập.
b. Đặc trưng của đo lường trong GD
- Đo lường trong GD có liên quan trực tiếp đến con người - vừa là chủ thể đánh giá, vừa
là đối tượng của sự đánh giá.
- Các phép đo lường chủ yếu được thực hiện một cách gián tiếp. Trong GD, có nhiều biến
số không thể đo trực tiếp được (kiến thức, kĩ năng, thái độ) mà phải suy ra từ những chỉ
số khác. Các biến số cũng dễ thay đổi nên các phép đo lường trong giáo dục thường khó
khăn và có những sai số nhất định trong các số đo. Lượng sai số lớn hay nhỏ phụ thuộc
vài công tác chuẩn bị-triển khai đo & các phương pháp đo lường.
- Đo lường trong GD gồm cả định tính & định lượng; định lượng thể hiện ở các con số,
(điểm số, số lần), số liệu, bảng xếp loại; định tính thể hiện ở sự nhận xét, mô tả.


c. Các thang đo lường trong GD


Thang định danh (nominal scale)
• Thang thứ bậc hay thang định hạng (ordinal scale)

Thang khoảng cách hay thang định khoảng (interval scale)
• Thang định tỉ lệ (ratio scale)
CÁC THANG ĐO
LƯỜNG
Thang định danh (nominal scale)
Với thang đo này, các đối tượng đo được chia thành nhiều lớp khác biệt nhau và không cắt
nhau theo một dấu hiệu nào. Mỗi phần phân chia (lớp) đặc trưng cho một thuộc tính nào
đó của đối tượng và có một tên gọi (định danh)
Ví dụ: phân loại HS trong một lớp theo giới tính (nam-nữ); theo học lực (giỏi, khá,
trung bình, yếu, kém); theo tháng sinh, theo số báo danh của từng HS…
Thang định danh là phép đo khái quát- không nhằm cung cấp thông tin cụ thể, chính xác về
đối tượng đo. Những con số trong thang định danh là những số đã được mã hóa; chúng
không phải một đại lượng đo mà chỉ dùng để thiết lập sự phân biệt giữa các đối tượng hay
sự xuất hiện/không xuất hiện của một đối tượng/thuộc tính nào đó.
Thang thứ bậc hay thang định hạng (ordinal scale)
Thang thứ bậc chỉ thứ tự của một đối tượng (người, vật) hay một thuộc tính nào đó (thứ
nhất, thứ hai, thứ ba…) so với các đối tượng/thuộc tính khác; tức là đối tượng/thuộc tính
nào đó khi xếp ở thang thứ bậc sẽ hơn/kém bậc xếp ở dưới
Ví dụ: xếp hạng HS trong một lớp theo điểm trung bình các môn học từ cao xuống
thấp chỉ ra rằng mỗi mức độ ở vị trí sau là kém hơn mức độ ở vị trí trước; tuy nhiên
nó không chỉ ra cụ thể những đặc điểm của từng HS như thế nào.
Thang định hạng cũng là phép đo khái quát - không nhằm cung cấp thông tin cụ thể, chính
xác về đối tượng/thuộc tính; cũng không cho thấy khoảng cách, mức độ khác biệt giữa
chúng mà phép đo này chỉ ra vị trí của đối tượng/thuộc tính trong mối tương quan với các


đối tượng/thuộc tính khác như thế nào.
Ví dụ: để mô tả sự thành công của của HS trong một lớp học, ta có thể nói: em A học
tốt nhất, tiếp đó là em B, rồi đến em C… Những con số đo này đại diện cho những vị
trí trên một thang đo thứ bậc (A>B>C>…); tuy nhiên không nói lên được em A tốt hơn
em B bao nhiêu, cũng không có nghĩa là em đứng thứ 3 tốt hơn gấp 2 lần em đứng
thứ 6 (chẳng hạn em A đứng thứ 3, em B đứng thứ 6 về xếp loại nhưng ta không thể
nói em A giỏi gấp 2 lần em B).
Thang khoảng cách hay thang định khoảng (interval scale)

Thang định khoảng chỉ ra sự khác nhau giữa các đối tượng/thuộc tính thông qua các
khoảng chia trên thang đo. Tuy nhiên, nó không xác định toàn bộ các khoảng chia có thể có
trên thang đo.
Thang định khoảng cho thấy khoảng cách giữa hai điểm tương ứng nhưng không xuất
phát từ số 0 tuyệt đối; cũng không thể đưa ra tỉ lệ tương đối của các số định lượng khác
nhau đang được đo. Nói cách khác, thang định khoảng đo các dấu hiệu định lượng (nhưng
không có tính định lượng).
Một ví dụ về thang định khoảng là Thang chia độ Fahrenheit
Nghiên cứu đầu tiên trong ngành nhiệt động học nhằm đánh dấu & so sánh nhiệt độ,
nhờ đó mà phát minh ra các nhiệt biểu, là nghiên cứu của nhà khoa học người Đức
Gabriel Fahrenheit (1686-1736). Ông đã đề xuất ra thang đo nhiệt độ đầu tiên, gọi là
thang chia độ Fahrenheit. Trong thang nhiệt này, 32 độ F và 212 độ F là nhiệt độ
tương ứng với thời điểm nóng chảy của nước đá & thời điểm sôi của nước.
Năm 1742, nhà bác học Thụy Sĩ Anders Celsius (1701-1744) xây dựng nên thang đo
nhiệt độ đánh số từ 0-100 mang tên ông dựa vào sự giãn nở của thủy ngân.
Trong các thang đo nhiệt độ, mặc dù có điểm 0 nhưng điểm 0 này không đại diện cho
nhiệt độ thấp nhất, tức là không đại diện cho số 0 tuyệt đối. Thang chia độ cho ta biết
khoảng cách giữa hai nhiệt độ nhưng không thể đưa ra một đánh giá biểu thị tỉ số
giữa hai nhiệt độ. Chẳng hạn, có thể nói 60
o
cao hơn 30


o
một khoảng là 30
o
nhưng
không thể nói rằng 60
o
nóng gấp 2 lần 30
o
Ví dụ: Thang điểm các môn học
Xếp điểm của 5 HS A, B, C, D, E như sau: em A: 10; em B: 8; em C: 7; em D: 6; em E: 4.
Nhờ đó ta biết em A hơn em B là 2 điểm, em D cũng hơn em E là 2 điểm; nhưng không
biết giữa hai khoảng cách này có giống nhau không. Ngoài ra, tuy biết em B được 8,
em E được 4 nhưng không thể coi em B giỏi gấp 2 lần em E.
Thang định tỉ lệ (ratio scale)
Bao gồm các đặc trưng của các loại thang trên, thang tỉ lệ dùng để phân biệt các đối
tượng/thuộc tính thông qua các khoảng chia trên thang đo, trong đó có điểm 0 tuyệt đối
được coi như điểm xuất phát của độ dài trên thang & được xác định rõ.
Ví dụ: Thang đo độ dài (thước mét), thang đo trọng lượng (cân nặng), thang đo vận
tốc, thang chia tiền lương công nhân… là các thang tỉ lệ; trong đó:
 điểm 0 trên thang đó nghĩa là không có gì (điểm 0 tuyệt đối)
 10cm gấp 2 lần 5 cm; 10kg gấp 2 lần 5kg; hay 4K bằng ½ của 8K; nếu xe 1 chuyển
động với vận tốc v
1
= 60km/h; xe 2 chuyển động với vận tốc v
2
= 30 km/h thì ta nói
xe 1 chạy nhanh gấp 2 lần xe 2 (xác định được tỉ lệ tương đối của các số định
lượng trên thang đo)
NOTE: Tuy nhiên, trong giáo dục, nếu HS làm bài kiểm tra được 0 điểm thì không có nghĩa
HS không có chút kiến thức nào mà HS đã được học, đó chỉ là HS đã không làm được những


yêu cầu mà bài kiểm tra này đặt ra. Như vậy, điểm 0 trong đánh giá về kiến thức, kĩ năng,

thái độ…của người học trên thực tế không phải là số 0 tuyệt đối, mà là số 0 tự đặt
(arbitrary zero point).
1.1.3. Lượng giá
1.1.4. Kiểm tra (testing)
1.1.5. Định giá trị (to evaluation)
11.6. Bài kiểm tra (test)
Bài kiểm tra là phương thức/công cụ được sử dụng rộng rãi nhất để tiến hành đo lường
trong giáo dục. Có thể có nhiều hình thức bài kiểm tra; dưới đây trình bày một số hình thức
bài kiểm tra: (1) bài kiểm tra kết quả đạt được; (2) bài kiểm tra năng khiếu & (3) bài kiểm
tra chuẩn đoán.
i) Kết quả đạt được (achievement): BKT kết quả đạt được sẽ đo lường nội dung đã học
được sau một thời gian giảng dạy.
Ví dụ: sau một thời gian hướng dẫn về luật giao thông, bài kiểm tra thích hợp về kết
quả đạt được có thể là một bài kiểm tra lựa chọn.
ii) Năng khiếu (aptitude):
BKT năng khiếu được thiết kế để dự đoán trước sự thực thi công việc trong tương lai của
một người nhất định;
BKT năng khiếu liên quan đến việc giải quyết vấn đề ngoài kinh nghiệm trực tiếp của
người học;
iii) Chuẩn đoán (diagnostic): Các bài kiểm tra chuẩn đoán xác định ra những khó khăn hay
hình thức lỗi của một học viên. Bài kiểm tra chuẩn đoán thường được dùng để tạo nên căn
cứ cho hướng dẫn sửa chữa.
Ví dụ: điều quan trọng chủ yếu trong toán học là phải có khả năng nhận biết các kí
hiệu đại diện cho bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
Một loạt câu hỏi chuẩn đoán để giải quyết vấn đề này có thể bắt đầu bằng:
Câu 1: 14 x 7 =?
a. 98 b.21 c.7 d.2
Câu 2: 15 x 5 =?


a. 3 b.10 c.20 d.75

Câu 3: 16:4 =?
a.64 b.20 c.12 d.4
Và khi câu trả lời là:
- a, d, d cho thấy không có vấn đề gì tại cấp độ này với các dấu nhân & chia.
- trong khi: b, c, d: có sự nhầm lẫn giữa dấu nhân & chia
và d, a, a: gợi ý sự nhầm lẫn giữa dấu nhân & chia
Nếu những hình thức lỗi này xuất hiện kéo dài liên tục trong một số lượng câu tương
đối lớn thì GV có thể chuẩn đoán được các vấn đề đặc thù mà NH này đang gặp phải;

MÔ TẢ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC THUẬT NGỮ
Thuật ngữ “Kiểm tra đánh giá người học” hay “Đánh giá người học”?
“Kiểm tra đánh giá người học” (KTĐG-NH) là thuật ngữ khó đối với các nhà GD. Một số
người hiểu nghĩa là “kiểm tra”; một số khác thì cho là “phán xét” hay “đánh giá” (to
evaluate). Ngoài lĩnh vực GD, nó có thể bao hàm cả 3 nghĩa trên và còn có các ý nghĩa khác
nữa
Thu hẹp trong lĩnh vực GD, có thể định nghĩa thuật ngữ trên cho những gì có liên quan đến
cá nhân người học như sau: Kiểm tra đánh giá người học (KTĐG-NH) bao gồm việc đưa ra
phán xét về người học theo một hệ quy tắc hoặc chuẩn mực nào đó.
KTĐG-NH có thể gồm các bài kiểm tra với điểm số chấm theo một số quy tắc; song nó cũng
có thể mang tính phán xét hay căn cứ chủ yếu vào ý kiến & cảm giác.
Kiểm tra Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoạt động mà GV sử dụng để thu thập
thông tin về biểu hiện kiến thức, kĩ năng & thái độ của HS trong học tập
nhằm cung cấp dữ kiện làm cơ sở cho việc đánh giá.
Đánh giá
KQHT
Đánh giá KQHT là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những nhận định, rút
ra những kết luận hay phán đoán về trình độ, phẩm chất của người học;
hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa trên cơ sở những thông


tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra.
Đo lường Đo lường chỉ việc ghi nhận & mô tả kết quả làm bài kiểm tra của mỗi HS
bằng một số đo, dựa theo những quy tắc đã định.
Lượng giá Lượng giá là đưa ra những thông tin ước lượng trình độ kiến thức, kĩ năng
của người học bằng cách dựa vào các số đo đã có.
Lượng giá có 2 hướng:
 Lượng giá theo chuẩn: đây là sự so sánh tương đối kết quả đo lường được
với chuẩn chung của một tập hợp HS.
 Lượng giá theo tiêu chí: đây là sự đối chiếu kết quả đo lường được với
những tiêu chí đã đề ra.
Trắc nghiệm Trắc nghiệm là công cụ hoặc quy trình có tính hệ thống được dùng để đo
lường các hành vi học tập (ví dụ như tóm ý, giải thích, tính toán…).
- Nếu coi ĐG là một quá trình thì kiểm tra, đo lường là mỗi khâu trong quá trình ấy;
- Kiểm tra là khâu đầu tiên nhằm thu thập thông tin cho quá trình ĐG;
- Đo lường là khâu tiếp theo nhằm xem xét các thông tin; lượng hóa các thông tin và đối
chiếu với mục tiêu dạy học làm cơ sở để đưa ra những kết luận về mức độ đạt được mục
tiêu dạy học;
- ĐG gồm nhiều hoạt động: thu thập dữ liệu để đối chiếu, so sánh và sử dụng dữ liệu để đi
đến những quyết định nhằm cải thiện sự tiến bộ của cá nhân hay của tổ chức.







 
!"
#$%&
%'&


())
kiểm tra *'+,'"-
./0123$4
H1.1.Sơ đồ mô tả mối liên hệ giữa các thuật ngữ về kiểm tra đánh giá

1.2. Vai trò, chức năng của đánh giá trong GD
a. Vai trò của đánh giá trong GD
ĐG nhằm nâng cao chất lượng GD (bao gồm tất cả các hoạt động GD, chương trình GD, sản
phẩm GD…) Chất lượng GD được hiểu là sự phù hợp với mục tiêu GD, nghĩa là đánh giá xác
định mức độ đạt được các mục tiêu GD đã định ra.
ĐG đối với GV:
- Đánh giá cung cấp cho GV những thông tin để đưa ra những quyết định phù hợp liên
quan tới hoạt động giảng dạy.
- ĐG cung cấp cho GV những thông tin để đánh giá hiệu quả giảng dạy của chính mình.
- ĐG là cơ sở để GV điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học của HS và hướng dẫn HS tự điều
chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học của mình.
Đối với HS:
- Hình thành ở HS nhu cầu, thói quen tự kiểm tra đánh giá.
- ĐG cung cấp cho HS những thông tin ngược để điều chỉnh hoạt động học tập của mình.
- ĐG khuyến khích HS có ý thức rèn luyện, bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm và hình thành
thói quen tốt trong học tập.
Đối với các cấp quản lí:
- ĐG cung cấp thông tin để chỉ đạo & điều chỉnh kịp thời hoạt động của các đơn vị GD,
đảm bảo hoạt động có hiệu quả.
- ĐG cung cấp cơ cở để đưa ra các quyết định về nguồn lực, nhà trường, chương trình, đội
ngũ cán bộ quản lí, GV, HS…
- ĐG cung cấp cơ sở để đưa ra các quyết định với người học: quyết định để học tiếp lên
hay cần phải học lại, phân loại, sắp xếp…
- ĐG giúp các nhà quản lí đưa ra các quyết định để cải tiến và hoàn thiện nội dung hay chỉ
đạo đổi mới PPDH.


b. Chức năng của ĐG-KQHT
i) Chức năng định hướng
ĐG thực hiện chức năng định hướng đó là kết quả đánh giá có thể
1
đo lường & dự báo
trước khả năng của HS có thể đạt được trong quá trình học tập;
2
cung cấp các thông tin về
HS (khả năng, nhu cầu, hứng thú… của HS với các môn học) &
3
giúp GV xác định được điểm
mạnh, điểm yếu của mỗi HS cũng như xem xét sự khác biệt giữa các HS với nhau.
Vai trò:
- Giúp GV có cơ sở đưa ra những quyết định về việc lập kế hoạch giảng dạy, xác định mục
tiêu, chuẩn bị nội dung, điều kiện, phương tiện, PPDH và các yếu tố khác cho phù hợp
với trình độ, nhu cầu & hứng thú của HS;

- Giúp GV lựa chọn phương pháp dạy học & định hướng HS lựa chọn con đường học tập
phù hợp với khả năng của HS.
- Giúp GV có cơ sở lựa chọn & bồi dưỡng năng khiếu hoặc xếp nhóm HS để có tác động cho
hiệu quả.
Phương pháp & công cụ thực hiện chức năng định hướng:
- Nghiên cứu hồ sơ của HS (giúp GV nắm được thông tin cơ bản của HS, từ đó dự đoán
triển vọng của HS, giúp việc giảng dạy diễn ra nhanh hơn);
- Kiểm tra khảo sát (bằng các bài kiểm tra viết) trước mỗi khóa học/kì học/năm học.
ii) Chức năng hỗ trợ
ĐG thực hiện chức năng hỗ trợ là chuẩn đoán, điều chỉnh để hỗ trợ việc học tập; giúp cho
quá trình dạy học có hiệu quả;
Vai trò:
- Giúp liên kết các giai đoạn khác nhau của cả quá trình học tập.


- Thúc đẩy, củng cố, mở rộng & nâng cao chất lượng vốn kiến thức
- Tạo lập mối liên hệ chặt chẽ giữa chất lượng của cả tiến trình đã thực hiện được với yêu
cầu của tiến trình học tập.
Phương pháp & công cụ thực hiện chức năng định hướng:
- Quan sát thái độ học tập hàng ngày của HS;
- Đặt câu hỏi cho HS, giao bài tập về nhà, theo dõi việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập,
sử dụng các bài kiểm tra thường xuyên
Yêu cầu khi thực hiện chức năng hỗ trợ:
- GV & HS cùng tham gia tích cực vào quá trình đánh giá.
- Thường xuyên theo dõi những thiếu sót trong bài làm của HS để phát hiện những khó
khăn của HS & giúp đỡ HS vượt quá khó khăn đó.
iii) Chức năng xác nhận
ĐG thực hiện chức năng xác nhận là nhằm xác định mức độ mà HS đạt được các mục tiêu
học tập, đồng thời làm căn cứ để đưa ra những quyết định phù hợp.
Vai trò:
- Cung cấp những số liệu để thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành
khóa học, chương trình học hoặc môn học để đi đến các quyết định (cấp chứng chỉ, cấp
bằng, cho lên lớp ).
- Giúp xếp loại người học theo mục đích nào đó, nhằm phân biệt trình độ khác nhau giữa
các HS để xếp hạng hay tuyển chọn.
Phương pháp & công cụ thực hiện chức năng xác nhận: các bài kiểm tra, bài thi xác nhận
trình độ (thường được tiến hành sau một giai đoạn học tập).

1.3. Nguyên tắc đánh giá trong GD
a. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
Gồm những quy tắc cần thực hiện khi KTĐG nhằm đảm bảo cho kết quả thu thập được ít
chịu ảnh hưởng từ những yếu tố bên ngoài - khác với mục tiêu & nội dung cần đánh giá.
Các quy tắc đảm bảo tính khách quan:
- Đánh giá kết quả bài làm của HS như nó vốn có, không phụ thuộc ý muốn chủ quan của
người đánh giá.


- Đánh giá phải phản ánh đúng năng lực thực tế của HS theo mục tiêu &nội dung học tập
đã định (không đánh giá quá chặt chẽ/dễ dãi), giúp HS nhận thức đúng khả năng của
bản thân.
- Kết hợp nhiều phương pháp & kĩ thuật đánh giá (kết hợp đánh giá định tính & định
lượng; kết hợp kĩ thuật đánh giá truyền thống & hiện đại )
- Bảo đảm môi trường & cơ sở vật chất không ảnh hưởng đến việc thực hiện các bài tập
đánh giá của HS; kiểm soát các yếu tố khác ngoài khả năng của HS có thể ảnh hưởng
đến việc thực hiện bài tập đánh giá hay kết quả làm bài của các em.
b. Nguyên tắc đảm bảo tính công bằng
Gồm những quy tắc cần thực hiện khi KTĐG nhằm đảm bảo rằng những HS thực hiện các
hoạt động học tập với cùng một mức độ & cùng nỗ lực học tập sẽ nhận được kết quả đánh
giá như nhau;
Các quy tắc đảm bảo tính công bằng:
- Giúp mỗi HS tích cực vận dụng phát triển kiến thức & kĩ năng đã học.
- Nội dung kiểm tra phải giúp HS có cơ hội vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào giải
quyết các vấn đề cũng như vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
- Bài kiểm tra không hàm ý đánh đố HS; ngôn ngữ sử dụng trong bài kiểm tra phải đơn
giản, rõ ràng, phù hợp với trình độ của HS.
- Bảo đảm rằng hình thức bài kiểm tra là quen thuộc với mọi HS.
- Xây dựng thang điểm/thang đánh giá cụ thể, rõ ràng để việc chấm điểm/xếp loại & ghi
nhận xét phản ánh đúng khả năng làm bài của HS.
c. Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện
Gồm những quy tắc cần thực hiện khi KTĐG nhằm đảm bảo kết quả đánh giá phản ánh
được các mặt đức - trí - thể - mỹ & các mức độ năng lực, phẩm chất của HS;
Các quy tắc đảm bảo tính công bằng:
- Nội dung KTĐG cần bao quát được toàn bộ các nội dung trọng tâm; mục tiêu đánh giá
cần bao quát nhiều loại kiến thức, kĩ năng & các mức độ nhận thức; công cụ đánh giá
cần đa dạng.

- Công cụ KTĐG không chỉ đo lường khả năng ghi nhớ, tái hiện mà còn đánh giá khả năng


phân tích, tổng hợp, khái quát, vận dụng ;
- Công cụ KTĐG không chỉ đánh giá kiến thức, kĩ năng môn học mà còn đánh giá các
phẩm chất & kĩ năng xã hội
d. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống
Các quy tắc đảm bảo tính hệ thống:
- Việc xác định và làm rõ các mục tiêu, tiêu chí đánh giá phải được đặt ở mức ưu tiên cao
hơn việc xác định công cụ và tiến trình đánh giá.
- Mục tiêu & phương pháp ĐG phải tương thích với mục tiêu & phương pháp giảng dạy.
- Chuẩn đánh giá phải phù hợp với mục tiêu và chương trình dạy học trong từng giai
đoạn cụ thể, với mọi đối tượng HS & với điều kiện dạy học cụ thể của phần đông các
trường bình thường.
- Kĩ thuật đánh giá phải được lựa chọn dựa trên mục đích đánh giá.
- Tiến trình đánh giá (đi từ việc thu thập tài liệu, thông tin đến việc đưa ra những kết
luận về việc học tập của HS) cần phải tường minh.
- Kết hợp KTĐG thường xuyên (quá trình) với KTĐG tổng kết.
- Phải tăng dần độ khó của các bài tập hay hoạt động ĐG theo sự phát triển của cấp lớp.
e. Nguyên tắc đảm bảo tính phát triển
- Phương pháp & công cụ ĐG góp phần kích thích dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS; chú trọng thực hành, rèn luyện & phát triển các kĩ năng.
- Công cụ ĐG tạo điều kiện cho HS khai thác & vận dụng kiến thức, kĩ năng liên môn.
- Đánh giá hướng đến duy trì sự phấn đấu & tiến bộ của người học; góp phần phát triển
động cơ học tập đúng đắn của HS.
- Đánh giá đúng góp phần xây dựng lòng tự tin, tự trọng & ý thức phấn đấu học tập của
HS; hình thành & phát triển năng lực tự đánh giá của HS.
f. Nguyên tắc đảm bảo tính công khai
- HS cần được biết các tiêu chuẩn & yêu cầu đánh giá của các nhiệm vụ hay bài tập, bài
kiểm tra mà HS sẽ thực hiện.
- HS cần được biết cách tiến hành các nhiệm vụ để có thể đạt được tốt nhất các tiêu chuẩn
& yêu cầu đã định.
g. Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục


- Đánh giá nhất thiết phải góp phần nâng cao việc học tập của HS.
- Qua ĐG, HS thấy được sự tiến bộ của bản thân & sự thừa nhận của GV về khả năng của
họ, đồng thời xác định được những gì cần cố gắng hơn nữa trong môn học.

1.4. Các loại hình đánh giá trong GD
Theo thời điểm ĐG Theo mục đích ĐG Theo phương thức thu
thập thông tin để ĐG
Theo phương hướng
sử dụng kết quả ĐG
 ĐG thường xuyên  ĐG quá trình  ĐG định tính (ĐG
bằng nhận xét)
 ĐG theo chuẩn (ĐG
đối chiếu)
 ĐG theo tiêu chí
 ĐG định kì  ĐG tổng kết  ĐG định lượng (ĐG
bằng điểm số)
a. ĐG thường xuyên & ĐG định kì
Đánh giá thường xuyên
ĐG thường xuyên là quá trình ĐG được tiến hành một cách liên tục trong lớp học (thực
hiện hàng ngày trong các tiết học/buổi học theo quy định của Chương trình) nhằm kịp thời
điều chỉnh hoạt động dạy & học của GV & HS.
Vai trò: loại ĐG này được dùng để theo dõi sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng
dạy nhằm:
- Cung cấp các thông tin phản hồi liên tục cho GV & HS về hiệu quả việc day-học.
- Giúp GV có biện pháp điều chỉnh kịp thời việc giảng dạy
- Giúp HS nhận ra những tiến bộ & chưa tiến bộ của bản thân để tự điều chỉnh & phát
triển → động viên, khuyến khích, thúc đẩy HS tích cực học tập một cách liên tục (thực
hiện tốt chức năng hỗ trợ).
Phương pháp & công cụ KTĐG thường xuyên:
- Quan sát HS trong các hoạt động học tập hàng ngày (khi trả lời câu hỏi, khi thảo luận,


khi giải quyết các nhiệm vụ học tập);
- bài kiểm tra miệng;
- bài kiểm tra viết (dưới 20’);
- bài thực hành vận dụng kiến thức, kĩ năng;
Đánh giá định kì
ĐG định kì là quá trình ĐG được tiến hành sau từng giai đoạn học tập (sau khi học xong
một phần chương trình, giữa kì hay cuối một học kì) nhằm xác định KQHT của HS theo
từng thời điểm.
Vai trò:
- Giúp GV & HS nhìn nhận kết quả dạy & học sau một thời gian nhất định: HS học được gì
sau một thời gian/đơn vị học tập → từ đó kịp thời củng cố, điều chỉnh nội cung học tập
& định hướng cho quá trình học tập ở những thời điểm tiếp theo;
- Cung cấp thông tin cho các cấp quản lí để quản lí, chỉ đạo quá trình học tập của HS &
giảng dạy của GV.
Phương pháp & công cụ KTĐG định kì:

- Môn học ĐG bằng nhận xét: QS hoạt động học tập của HS, bài tập thực hành & căn cứ
vào các nhận xét trong quá trình học tập (không có bài kiểm tra định kì)
- Môn học ĐG bằng điểm số (kết hợp nhận xét): bài kiểm tra miệng, kiểm tra viết tự luận
và/hoặc trắc nghiệm khách quan
b. ĐG quá trình & ĐG tổng kết
Đánh giá quá trình (formative)
ĐG quá trình (còn gọi là ĐG đột xuất chuẩn đoán) là loại ĐG được tiến hành không theo
những thời điểm ấn định trước trong suốt quá trình học tập nhằm xác định những hành vi
học tập điển hình của HS (những điều HS đạt được trong điều kiện học tập bình thường,
không có sự chuẩn bị hay nỗ lực tối đa). Hình thức ĐG này có thể xem là ĐG thường xuyên
vì chúng cùng thực hiện một chức năng;
Vai trò:
- Chuẩn đoán, phát hiện những mặt còn tồn tại trong quá trình dạy học để kịp thời điều
chỉnh, đổi mới phương pháp dạy & học đạt hiệu quả.


- Cung cấp các thông tin cho việc thanh tra/quản lí nhằm xác định trình độ HS của một
trường so với trình độ của một nhóm chuẩn hay so với hệ thống tiêu chí về kiến thức, kĩ
năng mà HS cần đạt được ở một cấp học nào đó
Đánh giá tổng kết (summative)
ĐG tổng kết là loại ĐG được tiến hành vào cuối mỗi học kì hoặc cuối năm học/khóa học
nhằm xác nhận KQHT HS đã đạt được so với các mục tiêu đã đặt ra (những điều HS đạt
được khi đã nỗ lực hết mình & có sự chuẩn bị tối đa); từ đó mà đề ra mục tiêu tiếp theo cho
người học hoặc đưa ra quyết định/xếp loại HS (cấp bằng/chứng chỉ, khen thưởng, cho lên
lớp hay thi lại, học lại ). Đây là ĐG mang tính tổng hợp về trình độ, năng lực học tập của
HS;
Hai loại đánh giá nêu trên được tiến hành theo những cách hoàn toàn khác nhau. Trong
giảng dạy ở nhà trường, các cách ĐG trong tiến trình thường gắn chặt với GV, còn ĐG kết
thúc thường bám sát vào mục tiêu dạy học đã đề ra, và có thể tách khỏi GV.
c. ĐG định tính & ĐG định lượng
• ĐG định lượng (ĐG khách quan: objective assessment): loại ĐG chủ yếu căn cứ vào điểm
số & quy tắc
• ĐG định tính (ĐG chủ quan: subjective assessment): loại ĐG chủ yếu dựa vào các ý kiến &
cảm giác.
Trên thực tế KTĐG người học hiếm khi thuần túy khách quan hay chủ quan. Chẳng hạn: xét
bề ngoài một câu hỏi đúng/sai có vẻ là rất khách quan; tuy nhiên cần nhớ rằng quyết định
để hỏi câu này – bao gồm ý kiến cho rằng đó chính là câu hỏi cần phải đưa ra - và ý kiến
như vậy là chủ quan.

Ví dụ: một cô gái đăng kí vào vị trí đánh máy cho một hãng quảng cáo.
Cô gái được giao một BKT đánh máy & được người phụ trách văn phòng phỏng vấn.
Kết quả kiểm tra cho thấy cô ta có thể đánh được 42 từ/phút và mỗi trang không quá
2 lỗi - đó là kiểm tra đánh giá khách quan;
Người phụ trách văn phòng xem bài của cô và thấy rằng phần trình bày rất tốt, tuy
nhiên sau khi phỏng vấn, bà báo cáo lại là cô gái này tỏ ra ngượng nghịu & miễn
cưỡng khi trả lời các câu hỏi; thêm vào đó trang phục không phù hợp - Những phán


xét về phần trình bày, sự ngượng nghịu và vẻ bề ngoài nếu chúng chỉ đơn thuần phản
ánh ý kiến & giá trị của bà phụ trách văn phòng thì chúng đều là ĐG chủ quan.
Như vậy ta có thể chuyển ĐG chủ quan thành ĐG khách quan: trường hợp nêu trên ta
có thể chuyển bằng cách viết ra một bảng kiểm (công cụ đo lường) về các tiêu chí:
“trình bày”, “mức độ ngượng nghịu” & “diện mạo bên ngoài”; sau đó có thể xếp hạng
người dự tuyển theo từng mục bảng kiểm & đưa ra được sự ĐG khách quan về cả 3
đặc tính đó.
d. ĐG theo chuẩn & ĐG theo tiêu chí
Ví dụ: Câu chuyện dưới đây khái quát sự khác biệt giữa hai loại ĐG này:
Sau khi khám cho một bênh nhân bị tai nạn giao thông, người nhà bệnh nhân đã hỏi
bác sĩ Wun về khả năng phục hồi. Bác sĩ Wun lắc đầu và trả lời: “Thận của cô ta bị
thương nặng và chúng tôi không thể cầm máu bên trong. Tôi e rằng cô ta chỉ còn rất
ít cơ hội”.
Không thỏa mãn với những lời báo trước này, gia đình bệnh nhân này quyết định hỏi
ý kiến bác sĩ thứ hai là bác sĩ Too. Khi được hỏi cùng câu hỏi, bà bác sĩ mỉm cười và
nói: “Bệnh nhân sẽ chậm phục hồi, nhưng so với các phụ nữ khác trong phòng bệnh
thì các cơ hội phục hồi của bệnh nhân này là khá tốt”
Khi phán xét về cơ hội phục hồi của bệnh nhân liên quan tới các tiêu chí “thận bị
thương nặng & chảy máu bên trong”, bác sĩ Wun đã đưa ra lời ĐG theo tiêu chí.
Lời phán xét của bác sĩ Too căn cứ vào các cơ hội sống sót của bệnh nhân với cơ hội
của các bệnh nhân khác ở trong phòng bệnh là đánh giá đối chiếu.
Đánh giá theo chuẩn (norm-referrenced)
- ĐG theo chuẩn (ĐG đối chiếu) được sử dụng để xác định mức độ thực hiện của một cá
nhân nào đó so với các cá nhân khác trong một nhóm mà ở đó việc ĐG được thực hiện.
- Trong ĐG theo chuẩn, BKT được sử dụng để xác định việc thực thi của một cá nhân về
một hệ các nhiệm vụ xác định có liên quan tới việc thực thi của những người khác cùng
hoàn thành bài kiểm tra đó.
Ví dụ: một BKT về lắp ráp & vận hành máy bao gồm 20 câu hỏi ngắn khác nhau về độ
khó, sắp xếp từ dễ đến khó, được dùng để so sánh việc thực thi của các học viên trong
một lớp. Bài kiểm tra đó là BKT đánh giá đối chiếu


Đánh giá theo tiêu chí (criterion-referrenced)

- ĐG theo tiêu chí được sử dụng để xác định mức độ thực hiện của một cá nhân nào đó so
với các tiêu chí xác định cho trước.
- Trong ĐG theo tiêu chí, BKT được sử dụng để xác định việc thực thi của một người theo
một số chuẩn mực nhất định.
Ví dụ: một BKT đánh vần, trong đó GV tuyên bố rằng trong số 10 câu hỏi, phải làm
đúng 9 câu mới được xem là ‘đạt”. Bài kiểm tra này là BKT đánh giá theo tiêu chí
(chuẩn mực là 9 câu đúng trong số 10 câu).
Phên biệt ĐG đối chiếu & ĐG theo tiêu chí
- ĐG đối chiếu cung cấp sự so sánh với các cá nhân khác nhau, ĐG theo tiêu chí so sánh
giữa cá nhân đó với một số mục tiêu hay nhiều mục tiêu đã định ra từ trước
- BKT dùng trong ĐG đối chiếu thường đưa ra một loạt điểm số, nghĩa là có xu hướng dàn
trải những người học ra. Điểm số của BKT theo tiêu chí thường gom những người học
lại với nhau; vấn đề ở đây là việc dàn trải người học ra theo một hạng là không cần thiết
cho một bài kiểm tra theo tiêu chí.
Hình dung việc kiểm tra nhảy xa: BKT theo tiêu chí giống nhau về bước nhảy trong đó
vạch nhảy xa đặt cố định là 1m. Bất kì người nào tham dự kiểm tra này hoặc là người
nhảy xa thành công (qua vạch 1m) hoặc không thành công. Lưu ý rằng vấn đề không
phải là người dự kiểm tra vượt được mốc ở mức độ nào mà nhiệm vụ đơn giản chỉ là
vượt qua mốc (tức là qua bài kiểm tra).

1.5. Nội dung đánh giá trong GD

1.6. Đánh giá trong lớp học

PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC
3.1. Đánh giá theo hướng tiếp cận mới: [ĐG vì sự thành công của người học]
3.3.1. Xu thế đổi mới trong KTĐG
3.3.2. Đánh giá quá trình


3.3.3. Đánh giá năng lực thực hành
3.3.4. Đánh giá năng lực sáng tạo

3.2. [CHUYÊN ĐỀ] Đánh giá theo tiếp cận năng lực
3.2.1. Đổi mới Chương trình Giáo dục Phổ thông theo tiếp cận năng lực
Các khái niệm trong CT-GDPT mới của Việt Nam (sau 2015)
Về CT-GDPT mới (sau 2015)
Về mối liên hệ CT-GDPT & ĐG
Xu thế đánh giá năng lực của người học
3.4.1. Khái niệm năng lực
3.4.2. Hệ thống năng lực của HS phổ thông
3.4.3. Tại sao phải ĐG năng lực của HS?
ĐG theo năng lực có gì khác so với ĐG theo kiến thức, kĩ năng?
3.4.5. Quy trình thiết kế & thực hiện các kĩ thuật ĐG trên lớp học


3.2. [CHUYÊN ĐỀ] Đánh giá học sinh tiểu học theo tiếp cận hiện nay
3.2.1. Quy định ĐG-HSTH theo Thông tư 30 (28/8/2014)
3.2.2. ĐG quá trình học tập & ĐG vì quá trình học tập
3.2.3. ĐG thường xuyên & ĐG định kì
3.2.4. ĐG bằng nhận xét & ĐG bằng điểm số
a. ĐG bằng điểm số (định lượng)
Thế nào là ĐG bằng điểm số?
i) ĐG bằng điểm số là hình thức ĐG trong đó GV sử dụng các mức điểm khác nhau trên một
thang điểm để chỉ ra mức độ về kiến thức & kĩ năng mà HS đã thể hiện được qua một hoạt
động hay sản phẩm học tập.
ii) Thang điểm là một tập hợp các mức điểm liền nhau theo trật tự số từ cao đến thấp hoặc
ngược lại; thường gồm hai phần:
- Các mức điểm
- Hướng dẫn chấm điểm/đáp án: phần miêu tả các tiêu chí tương ứng cho từng mức điểm


(tức là miêu tả những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng cho mỗi mức điểm). Những tiêu chí
được miêu tả cho từng mức điểm ở phần này là căn cứ để GV giải thích ý nghĩa của các
điểm số & cho những nhận xét cụ thể về bài làm của HS (thiếu phần hướng dẫn này làm
các điểm số trở nên mơ hồ, đặc biệt là với BKT tự luận).
Ví dụ (2, tr29): Thang điểm 5 cho bài tập làm văn lớp 5
Mức
điểm
Chính tả (CT),
ngữ pháp (NP)
Sự phong phú và cụ
thể của ý tưởng
Tổ chức diễn đạt ý
tưởng
Hiệu quả
giao tiếp
5 Không lỗi CT,
NP
Ý cụ thể, nhiều chi
tiết thú vị.
Mạch lạc, trình tự
hợp thể loại.
Người đọc
hiểu dễ dàng.
4 1, 2 lỗi CT, NP Ý cụ thể, khá nhiều
chi tiết thú vị.
Mạch lạc, trình tự
hợp thể loại.
Người đọc
hiểu dễ dàng.
3 2, 3 lỗi CT, NP Ý cụ thể, một số chi


tiết thú vị.
Một vài chỗ không
mạch lạc.
Vài chỗ còn
khó hiểu.
2 Hơn 4 lỗi CT,
NP
Vài chỗ ý chung
chung, mơ hồ.
Không mạch lạc. Vài chỗ còn
khó hiểu.
1 Nhiều lỗi CT,
NP
Ý mơ hồ. Rời rạc, trình tự
lộn xộn.
Khó hiểu.
Note: Cách thức & phương tiện ghi nhận KQHT bằng điểm số/số lần thực hiện theo các quy
tắc đã tính trong kiểm tra mang tính chất định lượng; còn bản thân điểm số (vẫn chỉ là
những kí hiệu gián tiếp phản ánh trình độ học lực của mỗi HS) không có ý nghĩa về mặt

định lượng - mà mang ý nghĩa định tính. Ví dụ: trong thang điểm 10, không thể nói HS đạt
điểm 8 có trình độ cao gấp đôi HS đạt điểm 4.
iii) Điểm số có ưu điểm là đề cập tới kết quả một cách nhanh chóng song lại khó lí giải,
nhất là khi BKT có độ tin cậy thấp. Chẳng hạn, nếu không chỉ ra được các tiêu chí cụ thể
(trong đáp án/thang điểm) thì không/khó giải thích được điểm số đó một cách có giá trị về
kết quả đạt được, sự nỗ lực, khả năng, hành vi…
Giải thích ý nghĩa điểm số
GV phải lí giải được ý nghĩa của điểm số mà mình đã đưa ra (đặc biệt khi điểm số được xem
là căn cứ để xác định ngưỡng thành công của HS) bởi vì:
- Điểm số được xem là kí hiệu phản ánh trình độ học lực & phẩm chất của HS. Việc lí giải


các kết quả HS đạt được thể hiện qua điểm số có tác dụng thúc đẩy HS học tốt hơn, tiến
bộ hơn.
- Giúp GV & nhà quản lí nắm được chất lượng dạy & học một cách cụ thể hơn, từ đó có thể
đưa ra những quyết sách phù hợp để điều chỉnh quá trình dạy học.
- Giúp phụ huynh hiểu được ý nghĩa các mục tiêu sư phạm thể hiện qua điểm số đó
- Việc chạy theo các điểm số có thể là nguyên nhân sinh ra những áp lực không cần thiết
với mỗi HS và tạo ra bệnh thành tích trong quản lí dạy & học. Để hạn chế điều này thì
cần thiết phải giải thích rõ ý nghĩa của điểm số.
Những việc cần làm khi ĐG bằng điểm số
 Xác định mục đích & nội dung ĐG: xác định rõ những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng,
thái độ hay năng lực nào cần đánh giá.
 Thiết kế các bài kiểm tra: chuẩn bị kĩ các BKT ở lớp học để có thể có một sản phẩm
giá trị làm căn cứ cho điểm & qua điểm số đó ĐG được trình độ, năng lực của HS.
 Thiết kế đáp án & thang điểm
 Chấm bài: đối chiếu kết quả bài làm của HS với đáp án & cho điểm
 Chữa bài, nhận xét
b. ĐG định tính (ĐG bằng nhận xét)
Thế nào là ĐG bằng nhận xét?
i) ĐG bằng nhận xét là hình thức ĐG trong đó GV đưa ra những phân tích, phán đoán về
học lực hoặc hạnh kiểm của HS bằng cách sử dụng các nhận xét được rút ra từ việc quan
sát các hành vi hay sản phẩm học tập của HS theo những tiêu chí GD đã xác định trước.
ii) Nhận xét tốt: GV cần/nên đưa ra nhận xét tốt với HS
Nhận xét tốt: nhận xét có tác dụng động viên & hướng
dẫn HS điều chỉnh việc học
Nhận xét không có tác dụng
động viên & hướng dẫn HS điều
chỉnh việc học

 Thực tế: hướng lời nhận xét đến những vấn đề mà
người học có thể làm được.


 Cụ thể: đưa ra những chứng cứ hay chi tiết cụ thể để
giải thích hay chứng minh những nhận xét, nhờ đó HS
hình dung ra rõ ý nhận xét.
 Nhạy cảm với những quan tâm, mục đích hay cố gắng
của người học: Không cho là HS sai hay không tốt khi
các em không đáp ứng được những yêu cầu/mục đích
mà GV đã đề ra. Khi tạo ra một sản phẩm học tập nào
đó, HS đều có những mục đích cụ thể của mình. Hãy cố
gắng nhận biết mục đích ấy và có một cách nhìn nhận
thích hợp. Kết hợp lời nhận xét của GV với những ý
định được thể hiện qua bài làm hay qua hoạt động
của các em.
 Khuyến khích: khẳng định những điều HS đã làm được
với những chứng cứ cụ thể.
 Hướng dẫn: hướng dẫn HS cách thức khắc phục
những điều chưa đạt được cũng như cách thức thực
hiện nhiệm vụ học tập tiếp theo cho tốt hơn.
 Kịp thời, không chậm trễ.
 Nói thẳng, không úp mở, không bóng gió.
 Cho những ý kiến hay cảm nghĩ riêng thay vì đưa ra
những lời nhận định áp đặt, uy quyền (Cô nghĩ/Cô
cảm thấy là )
Chung chung, không cụ thể.
Nhằm mục đích phê bình, phê
phán.
Không đáp ứng nhu cầu của
người nhận phản hồi.
Không đề nghị điều mà người
học có thể có hoặc có thể làm.
GV làm thế nào để đưa ra một nhận xét tốt?


i) Xác định rõ nội dung ĐG, phương pháp & công cụ ĐG để có căn cứ cho nhận xét
 Trường hợp nội dung QS nhỏ hẹp, GV cần thường xuyên tham khảo các tiêu chí đã
được xác lập để có thể hình dung rõ những tiêu chí cần đánh giá.
 Trường hợp nội dung QS hoặc kiểm tra rộng lớn & phức tạp, hay những bài tập lớn
mà kết quả của nó sẽ được chính thức sử dụng để xếp loại học sinh thì cần phải xây
dựng bảng hướng dẫn đánh giá.
ii) Thu thập các chứng cứ để ĐG:
- Cần thu thập thông tin đầy đủ, phù hợp, tránh định kiến.
- Cần QS, ghi nhận các biểu hiện/hành vi của HS theo những tiêu chí đã định.
- Trước khi bắt đầu đưa ra một nhận định nào, GV cần xem xét các vấn đề:
 Chứng cứ (biểu hiện) thu thập được có thích hợp không?; Chứng cứ đó đã đủ cho việc
đưa ra những nhận xét về người học chưa?
 Đối với nhận xét dựa trên các tiêu chí học tập, phải xem xét xem những yếu tố nào
khác ngoài bài thực hành hay kiểm tra có thể ảnh hưởng đến KQ thực hiện của HS.
 Khi viết một nhận xét nào đó nên cố gắng phát biểu rõ ràng những lí do đưa ra nhận
xét ấy.
iii) Ghi nhận xét
Cần tránh:


Tiểu luận: Đánh giá chất lượng đào tạo thông qua đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan

23 402 17

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Tiểu luận: Đánh giá chất lượng Giáo dục Đại học Công lập và Ngoài công lập: Thực trạng và đề xuất

42 548 41

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Giáo trình Đánh giá kết quả giáo dục ở tiểu học: Phần 1

55 454 36

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển năng lực đánh giá giáo dục cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học

243 167 8

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Tiểu luận Đo lường và đánh giá trong giáo dục: Xây dựng ngân hàng câu trắc nghiệm kiểm tra học kỳ II, môn Tin học 9

25 45 4

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Thuyết trình giáo dục đại học: Đánh giá chất lượng giáo dục đại học

43 384 38

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động đánh giá giáo viên tiểu học ở thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh theo Chuẩn nghề nghiệp

130 70 5

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng kỹ năng đánh giá học sinh cho giáo viên tiểu học huyện Lâm Bình, tỉnh tuyên Quang

105 72 2

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động đánh giá kết quả học tập môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường Tiểu học thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh

125 80 4

Tiểu luận học phần đánh giá kết quả học tập ở tiểu học

Giáo trình Kiểm tra đánh giá kết quả học tập ở tiểu học: Phần 2 - Vũ Thị Phương Anh, Hoàng Thị Tuyết

Giáo trình Kiểm tra đánh giá kết quả học tập ở tiểu học được biên soạn nhằm mục đích phát triển những hiểu biết và kĩ năng cơ bản của giáo viên trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học. » Xem thêm

Chủ đề:

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. PHẦN HAI NỘI DUNG MÔĐUN ... ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Ở TIỂU HỌC Tiểu môđun 1: Khái niệm cơ bản và chức năng cửa đánh giá kết quả học tập Tiểu môđun 2: Nguyên tắc đánh giá kết quả học tập ở tiểu học Tiểu môđun 3: Hình thức kiểm tra và đánh giá kết quả học tập ở tiểu học Tiểu môđun 4: Nội dung đánh giá kết quả học tập ở tiểu học Tiểu môđun 5: Kĩ thuật đánh giá kết quả học tập ở tiểu học 9
  2. TIỂU MÔĐUN 1 KHÁI NIỆM CƠ BẢN VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Chủ đề 1:NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Hoạt động 1: TÌM HIỂU NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ "ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP" NHIỆM VỤ: a) Trước khi đọc thông tin cơ bản về “Khái niệm cơ bản về đánh giá kết quả học tập”, học viên, bằng kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, phát biểu trả lời câu hỏi: Đánh giá kết quả học tập là gì? b) Sau đó, học viên đọc thông tin cơ bản ở bên dưới, đối chiếu thông tin này với phát biểu trên. THÔNG TIN CƠ BẢN Những khái niệm cơ bản về đánh giá kết quả học tập 1. Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động giáo viên sử dụng để thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ kiện làm cơ sở cho việc đánh giá. 2. Đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những nhận định, rút ra những kết luận hoặc phán đoán về trình độ, phẩm chất của người học, hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa trên cơ sở những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra. Trong khuôn khổ tài liệu này, đánh giá kết quả học tập được hiểu là đánh giá học sinh về học lực và hạnh kiểm thông qua quá trình học tập các môn học cũng như các hoạt động khác trong phạm vi nhà trường. 3. Đo lường chỉ việc ghi nhận và mô tả kết quả làm bài kiểm tra của mỗi học sinh bằng một số đo, dựa theo những quy tắc đã định. 4. Lượng giá là đưa ra những thông tin ước lượng trình độ kiến thức, kĩ năng của người học bằng cách dựa vào các số đo đã có. Có hai hướng lượng giá : – Lượng giá theo chuẩn : Đây là sự so sánh tương đối kết quả đo lường được với chuẩn chung của một tập hợp học sinh. – Lượng giá theo tiêu chí : Đây là sự đối chiếu kết quả đo lường được với những tiêu chí đã đề ra. 10
  3. 5. Trắc nghiệm là công cụ hoặc quy trình có tính hệ thống được dùng để đo lường các hành vi học tập (ví dụ như tóm ư, giải thích, tính toán…). Hoạt động 2: TÌM HIỂU VỀ KIỂM TRA THEO HƯỚNG ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG NHIỆM VỤ: a) Trước khi đọc thông tin cơ bản về “Kiểm tra theo hướng định tính và định lượng”, xem và diễn giải sơ đồ bên dưới. Ghi vào vở học tập ư kiến diễn giải của bạn. b) Nêu tên các môn học ở tiểu học được kiểm tra theo hướng định tính và các môn học được kiểm tra theo hướng định lượng. c) Đọc thông tin cơ bản về “Kiểm tra theo hướng định tính và định lượng” ngay dưới sơ đồ, đối chiếu những điều đã diễn giải với thông tin đã nắm được. Kiểm tra Phương pháp Phương pháp định lượng định tính Đánh giá THÔNG TIN CƠ BẢN Kiểm tra định tính và định lượng Xét theo phương thức và công cụ thu thập thông tin để đánh giá kết quả học tập, hoạt động kiểm tra được thực hiện theo hai hướng: định lượng và định tính. Dựa trên kết quả được ghi nhận theo hướng định tính hoặc định lượng, giáo viên đưa ra những phán đoán, những kết luận, những quyết định về người học hoặc về việc dạy học. Kiểm tra theo hướng định tính là phương thức thu thập thông tin về kết quả học tập và rèn luyện của học sinh bằng cách quan sát và ghi nhận xét dựa theo các tiêu chí giáo dục đã định. Kiểm tra theo hướng định lượng là phương thức thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh bằng số như điểm số hoặc số lần thực hiện của những hoạt động nào đó. Cách và phương tiện ghi nhận kết quả học tập của học sinh bằng điểm hay số lần thực hiện theo những quy tắc đã tính trong kiểm tra là mang tính chất định lượng. Còn chính điểm số vẫn chỉ là những kí hiệu gián tiếp phản ánh trình độ học lực của mỗi học sinh mang ư nghĩa định tính. Như vậy, bản thân điểm số không có ư nghĩa về mặt định lượng; ví dụ trong thang điểm 10, không thể nói trình độ của học sinh đạt điểm 8 là cao gấp đôi học sinh đạt điểm 4. Chủ đề 1: CHỨC NĂNG CỦA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Ở TIỂU HỌC Hoạt động 3: TÌM HIỂU VỀ . CHỨC NĂNG CỦA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP 11
  4. NHIỆM VỤ: Đọc và trình bày vắn tắt ba chức năng cơ bản của đánh giá kết quả học tập. THÔNG TIN CƠ BẢN Ba chức năng của đánh giá kết quả học tập 1. Chức năng quản lí của đánh giá được thể hiện qua hai phương diện: (1) xếp loại hoặc tuyển chọn người học; (2) duy trì và phát triển chuẩn chất lượng. 2. Kiểm soát và điều chỉnh hoạt động dạy và học. Đối với giáo viên và nhà trường, đánh giá nhằm kiểm soát các hoạt động ngay trong quá trình dạy và học, sau đó ra quyết định điều chỉnh, cải tiến dạy học là cơ chế đảm bảo cho việc phát triển chất lượng dạy học. Đối với học sinh, thông tin kiểm tra đánh giá nhận được (điểm số, nhận xét) từ giáo viên và tự đánh giá của bản thân giúp người học kiểm soát, điều chỉnh việc học của mình. 3. Giáo dục và phát triển người học. Động viên Quá trình đánh giá kết quả học tập được thực hiện một cách hiệu quả có tác dụng phát triển động cơ học tập (lòng mong muốn học tập cho sự phát triển của bản thân) cho học sinh. Muốn như vậy, hoạt động kiểm tra phải được thực hiện thường xuyên và thông tin làm căn cứ cho đánh giá phải đa dạng, cụ thể và khách quan. Đánh giá góp phần phát triển toàn diện để chuẩn bị cho người học vào đời. Đánh giá học sinh ở tiểu học cần nhận thức sâu sắc về quan điểm giáo dục toàn diện. Muốn cho việc đánh giá có thể góp phần phát triển toàn diện cho người học, những điều dưới đây cần được thực hiện một cách hệ thống và nhất quán: – Đánh giá phải xác định được khối lượng học tập hợp lí cho học sinh để không đẩy các em vào thế học thuộc lòng, hay học đối phó, học chỉ để có điểm, chỉ để biết chứ không để hiểu và áp dụng. – Kết quả học tập cần được đánh giá một cách hiệu quả, đáng tin cậy để có tác dụng hướng dẫn và khuyến khích các phương pháp học tập tích cực, ủng hộ các thói quen học tập có giá trị. – Phương pháp, công cụ kiểm tra cần đa dạng (trắc nghiệm, tự luận, học nhóm, trò chơi, bài tập giải quyết vấn đề, làm đề án..) để kích thích người học tự bổ sung, phát triển những kiến thức, kĩ năng cần thiết cho cuộc sống cũng như nghề nghiệp về sau. Ngoài các kĩ năng học tập, đánh giá cũng cần góp phần phát triển cho người học những kĩ năng và phẩm chất xã hội như kĩ năng giao tiếp, làm việc hợp tác, ư thức cộng đồng, lòng tự trọng ..... Đây là những nhân tố quan trọng đối với con người trong xã hội hiện nay, giúp cho học sinh biết cách sống, cách làm việc với những người xung quanh. BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ Anh (chị) có nhận xét gì về cách ghi lời nhận xét cả năm học của giáo viên phụ trách trong hai trang học bạ dưới đây(1) ? Thực tiễn đánh giá kết quả học tập trong nhà trường tiểu học hiện nay đã thực hiện được ba chức năng của đánh giá như thế nào? ............................................................. 12
  5. (1) Những trang học bạ trích dẫn trong tài liệu chỉ là những ví dụ minh hoạ để trao đổi khi học tập, vì vậy tác giả xin không nêu họ tên, chữ kí của giáo viên cũng như tên của trường. 13
  6. ............................................................... 14
  7. THÔNG TIN PHẢN HỒI Hoạt động 1 : Các môn học ở tiểu học được kiểm tra theo hướng định tính ở lớp 1, 2 và 3 là Nghệ thuật, Tự nhiên-Xã hội, Đạo đức, Thể dục ; ở lớp 4 và 5 là Âm nhạc, Mĩ thuật, Kĩ thuật, Thể dục, Đạo đức. Các môn học ở tiểu học được kiểm tra theo hướng định lượng ở lớp 1, 2 và 3 là Tiếng Việt và Toán; ở lớp 4 và 5 là Toán, Tiếng Việt, Lịch sử, Địa lí và Khoa học. Học viên nắm những khái niệm cơ bản về đánh giá kết quả học tập, đặc biệt định nghĩa về đánh giá kết quả học tập được giới hạn trong tài liệu; và phân biệt sự khác nhau giữa kiểm tra với đánh giá cũng như mối tương quan giữa hai khâu này trong quá trình dạy học. Hoạt động 2 : Học viên phân biệt nét khác biệt cơ bản giữa kiểm tra (KT) định tính với KT định lượng là ở cách thu thập thông tin để đánh giá. Nếu trong hoạt động kiểm tra, người đánh giá miêu tả các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần đánh giá dưới dạng những chỉ số thì việc kiểm tra được thực hiện theo hướng định lượng. Còn nếu các yêu cầu ấy được miêu tả bằng lời thì kiểm tra được thực hiện theo hướng định tính. Về bản chất, đánh giá với ư nghĩa là đưa ra các phán đoán về trình độ người học hay đề xuất quyết định về việc dạy học luôn luôn mang ư nghĩa định tính. Căn cứ vào các kết quả thu thập được từ kiểm tra, người đánh giá đối chiếu với những tiêu chí dạy học đã đề ra, đưa ra những ước lượng trình độ kiến thức, kĩ năng của một học sinh. Hoạt động 3 : Học viên trình bày vắn tắt nội dung 3 chức năng của đánh giá: quản lí giáo dục; kiểm soát và điều chỉnh hoạt động dạy và học; giáo dục và phát triển, hình dung ra được một số việc làm cụ thể của người giáo viên trong dạy học thể hiện 3 chức năng của kiểm tra đánh giá. Bài tập đánh giá: Xem xét trang học bạ thứ nhất, có thể thấy các nhận xét của giáo viên về việc học các môn học của học sinh khá sơ sài. Những từ dùng để kết luận về trình độ, khả năng của người học ở từng môn là những tính từ mang ư nghĩa chung chung: làm tính nhanh, vẽ khéo, tích cực phát biểu, hát hay, chăm ngoan. Những nhận xét này mang ư nghĩa phân loại học sinh mà điểm số hay mức loại (A, B) đã tự thể hiện. Chẳng hạn như 7 hay 8 điểm là loại khá, A là tốt. Chúng ít có tác dụng giáo dục và động viên, phát triển người học. Ở trang học bạ thứ hai, qua nhận xét tổng quát về học lực và hạnh kiểm của người học, người đánh giá không cho chúng ta thấy những nét riêng biệt về khả năng và thái độ học tập của người học, cũng không cho thấy những nét cơ bản về sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập. Cách ghi nhận xét sơ sài và chung chung như trên phản ánh thực trạng đánh giá chỉ thiên về cung cấp thông tin tổng hợp nhằm xếp loại học lực của học sinh và để thi đua. Phần lớn giáo viên với tư cách là người đánh giá học sinh chưa đưa ra các thông tin phân tích, chưa đề cập đến những thông tin về quá trình học tập nhằm giúp cho nhà trường và các cán bộ quản lí môn học đưa ra những quyết định điều chỉnh kịp thời quá trình dạy học để cải thiện chất lượng học tập các môn học. Căn cứ trên những thông tin chung chung về tình hình học tập của người học, “những giải pháp về môn học đã và đang được đưa ra chưa hẳn giải pháp nào cũng phản ánh đúng tình hình thực tế, chưa phải các giải pháp đều giải toả trúng những khó khăn vướng mắc lớn trong thực tiễn dạy học ở tiểu học" (Nguyễn Thị Hạnh, 2003). 15
  8. TIỂU M Ô ĐU N 2 TIỂU MÔĐUN 2: NGUYÊN TẮC ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Ở TIỂU HỌC Hoạt động : TÌM HIỂU CÁC NGUYÊN TẮC ĐÁNH GIÁ NHIỆM VỤ Đọc và tìm hiểu thông tin cơ bản về nguyên tắc đánh giá kết quả học tập ở tiểu học dưới đây. Thông tin ấy cho anh (chị) những hiểu biết gì về bốn nguyên tắc đánh giá xếp loại học sinh tiểu học được ghi trong Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2005/QĐ- BGD & ĐT)? THÔNG TIN CƠ BẢN Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2005/QĐ-BGD & ĐT) đưa ra bốn nguyên tắc đánh giá học lực và hạnh kiểm của học sinh tiểu học như sau: 1. Kết hợp đánh giá định lượng và đánh giá định tính trong đánh giá và xếp loại Kết hợp đánh giá định tính với đánh giá định lượng trong đánh giá kết quả học tập là một phương hướng quan trọng nhằm bảo đảm tính khách quan và toàn diện của quá trình đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học. Ngoài ra, nguyên tắc này còn nhấn mạnh trọng tâm đổi mới đánh giá ở tiểu học hiện nay. Đó là tập trung tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ lối đánh giá thiên về định lượng trước đây và tăng cường sử dụng các hình thức đánh giá định tính để tạo điều kiện cho trẻ phát triển về mặt nhân cách và trí tuệ. Giáo viên không nên chỉ căn cứ vào điểm số của các bài kiểm tra định kì để đánh giá học sinh mà phải kết hợp với kiểm tra thường xuyên, với những ghi nhận quan sát hằng ngày để đánh giá đúng thực chất trình độ của học sinh. Ngoài ra, ở các môn đánh giá định lượng như Tiếng Việt và Toán, cùng với điểm số, giáo viên phải đưa ra những nhận xét để giúp học sinh biết mình đã đạt được những gì và chưa đạt được những gì. 2. Thực hiện công khai, công bằng , khách quan, chính xác và toàn diện Nguyên tắc này bao hàm các nguyên tắc truyền thống trong đánh giá kết quả học tập như là bảo đảm tính khách quan- chính xác, tính công bằng, tính công khai và tính toàn diện. 16
  9. 3. Coi trọng việc động viên, khuyến khích sự tiến bộ của học sinh “Coi trọng việc động viên, khuyến khích sự tiến bộ của học sinh” là nội dung cốt lõi của nguyên tắc bảo đảm tính nhân văn và tính giáo dục trong đánh giá học sinh. Quan điểm Coi trọng việc động viên, khuyến khích sự tiến bộ của học sinh trong khi đánh giá thể hiện cách tiếp cận nhấn mạnh mục đích phát triển của giáo dục và dạy học ở tiểu học, đồng thời phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh nhỏ. 4. Phát huy tính năng động, sáng tạo, khả năng tự học, tự đánh giá của học sinh, xây dựng niềm tin, rèn luyện đạo đức theo truyền thống Việt Nam Theo hướng phát triển các phương pháp dạy học tích cực để đào tạo những học sinh chủ động, sáng tạo, có khả năng tự học và tự đánh giá bản thân, việc kiểm tra đánh giá không chỉ dừng ở yêu cầu tái hiện kiến thức, rèn luyện các kĩ năng đã học mà còn phải khuyến khích khả năng vận dụng sáng tạo, phát hiện sự chuyển biến về thái độ và xu hướng hành vi của học sinh trước các vấn đề của đời sống gia đình và cộng đồng Việt Nam. Đó là cách tiếp cận phát triển trong dạy học và đánh giá. Đổi mới đánh giá kết quả học tập là nhằm tạo một phương thức đột phá góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục trên. Bốn nguyên tắc được nêu trong văn bản “Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học” đã bao quát được các nguyên tắc về đánh giá kết quả học tập mà nhiều tài liệu về lí luận giáo dục đã đưa ra như sau: * Đảm bảo tính khách quan – Kết hợp nhiều phương pháp và kĩ thuật đánh giá khác nhau: đánh giá định tính với đánh giá định lượng; kĩ thuật đánh giá truyền thống với đánh giá hiện đại. – Bảo đảm môi trường, cơ sở vật chất không ảnh hưởng đến việc thực hiện các bài tập đánh giá của học sinh. – Kiểm soát các yếu tố khác ngoài khả năng thực hiện bài tập đánh giá của học sinh có thể ảnh hưởng đến kết quả làm bài hay thực hiện hoạt động của các em. * Đảm bảo tính công bằng – Giúp mỗi học sinh có thể tích cực vận dụng phát triển kiến thức và kĩ năng đã học. – Bảo đảm rằng hình thức bài kiểm tra là quen thuộc với mọi học sinh. – Ngôn ngữ sử dụng trong bài kiểm tra đơn giản rõ ràng, phù hợp với trình độ của học sinh và bài kiểm tra không chứa những hàm ư đánh đố học sinh. * Đảm bảo tính toàn diện – Nội dung kiểm tra đánh giá cần bao quát được toàn bộ các nội dung trọng tâm. Mục tiêu đánh giá cần bao quát nhiều loại kiến thức, kĩ năng và các mức độ nhận thức. – Công cụ đánh giá cần đa dạng. – Công cụ kiểm tra không chỉ đo lường khả năng nhớ lại mà còn đánh giá khả năng vận dụng, phân tích tổng hợp và đánh giá. – Công cụ kiểm tra không chỉ đánh giá kiến thức, kĩ năng môn học mà còn đánh giá các phẩm chất và kĩ năng xã hội. * Đảm bảo tính hệ thống 17
  10. – Việc xác định và làm rõ các mục tiêu, tiêu chí đánh giá phải được đặt ở mức ưu tiên cao hơn công cụ và tiến trình đánh giá. – Chuẩn đánh giá phải phù hợp với mục tiêu và chương trình dạy học trong từng giai đoạn cụ thể, với mọi đối tượng học sinh, với điều kiện dạy học cụ thể của số đông các trường bình thường. – Kĩ thuật đánh giá phải được lựa chọn dựa trên mục đích đánh giá. – Tiến trình đi từ việc thu thập tư liệu, thông tin đến việc đưa ra những kết luận về việc học của học sinh cần phải được tường minh. – Mục tiêu và phương pháp đánh giá phải tương thích với mục tiêu và phương pháp giảng dạy. – Kết hợp kiểm tra thường xuyên (quá trình) với kiểm tra tổng kết. – Độ khó của các bài tập hay hoạt động đánh giá phải ngày càng cao theo sự phát triển của cấp lớp. * Đảm bảo tính công khai Học sinh cần được biết các tiêu chuẩn và yêu cầu đánh giá của các nhiệm vụ hay bài tập, bài kiểm tra mà học sinh sẽ thực hiện; cần được biết cách tiến hành các nhiệm vụ ấy để có thể đạt được tốt các tiêu chuẩn và yêu cầu đã định. * Đảm bảo tính giáo dục – Đánh giá nhất thiết phải góp phần nâng cao việc học tập của học sinh. – Qua đánh giá học sinh nhận thấy được sự tiến bộ của bản thân, những gì cần cố gắng hơn trong môn học, cũng như nhận thấy sự khẳng định của giáo viên về khả năng của họ. * Đảm bảo tính phát triển – Công cụ đánh giá tạo điều kiện cho học sinh khai thác vận dụng kiến thức, kĩ năng liên môn. – Phương pháp và công cụ đánh giá góp phần kích thích dạy học phát huy tích tự lực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong học tập, chú trọng thực hành, rèn luyện và phát triển kĩ năng. – Đánh giá hướng đến việc duy trì sự phấn đấu và tiến bộ của người học, góp phần phát triển động cơ học tập đúng đắn trong người học. – Đánh giá đúng góp phần phát triển lòng tự tin, tự trọng và ư hướng phấn đấu trong học tập cho học sinh, hình thành năng lực tự đánh giá cho học sinh. BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ: Học viên thực hiện 2 trong 4 bài tập dưới đây 18
  11. Bài tập 1 Việc đánh giá kết quả học tập dưới đây đã có thể thực hiện được nguyên tắc khách quan chưa? Tại sao? Theo chương trình môn Tiếng Việt lớp 3, sau khi học xong năm học lớp 3, về lĩnh vực kĩ năng viết văn, học sinh phải đạt được những kĩ năng sau đây: – Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu. – Biết viết một bức thư ngắn để báo tin tức, hỏi thăm người thân. Tập trình bày phong bì thư. – Biết viết đoạn văn ngắn kể lại một bức tranh đã xem, một văn bản đã học hoặc tóm tắt một truyện đã đọc. Giả định rằng: Việc xác lập khả năng viết văn và nhận xét, phân loại học sinh trong lĩnh vực viết văn năm học lớp 3 được thực hiện qua điểm số của bốn bài kiểm tra như sau: 1. Lần thứ nhất: học sinh viết một đoạn văn gồm 5 – 7 câu kể về tình cảm của bố mẹ hoặc người thân đối với em. 2. Lần thứ hai: học sinh viết một bức thư hỏi thăm người thân (bức thư này học sinh đã được viết ở lớp). 3. Lần thứ ba: học sinh viết một báo cáo hoạt động tháng thi đua vững mạnh gửi thầy cô tổng phụ trách theo mẫu cho sẵn (báo cáo này đã được học sinh viết và học thuộc lòng khi các em ôn thi học kì). 4. Lần thứ tư: học sinh kể về một cuộc thi đấu thể thao (bài này đã được viết ở lớp). Bài tập 2 Trong một lần kiểm tra định kì học kì II, ở một môn học, một giáo viên cho học sinh ôn tập bằng cách để các em học thuộc lòng khoảng mười câu hỏi với mười câu trả lời được cung cấp sẵn. Mười câu hỏi này bao quát được một số nội dung trọng tâm của môn học. Đề kiểm tra gồm ba câu hỏi hầu như tương tự với ba câu hỏi trong mười câu đã được ôn tập. Kết quả kiểm tra của học sinh rất cao. Như vậy, nếu dựa vào kết quả kiểm tra này để xác định khả năng học tập của học sinh sẽ có những ưu, nhược điểm gì? Bài tập 3 Thảo luận nhóm: Điều gì có thể xảy ra cho giáo dục và dạy học nếu như việc kiểm tra đánh giá thường không được thực hiện trên cơ sở xác lập một cách rõ ràng các mục tiêu dạy học/ chuẩn đào tạo? Bài tập 4 Những điều người giáo viên cần có và cần làm để có thể thường xuyên nêu được những nhận xét có tác dụng phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh? THÔNG TIN PHẢN HỒI 19
  12. Hoạt động Sau khi tìm hiểu các nguyên tắc đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học trong “Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học” (Ban hành kèm theo quyết định số 30/2005/QĐ-BGD & ĐT), học viên đối chiếu những hiểu biết ấy với thông tin cơ bản về nguyên tắc đánh giá kết quả học tập để phát biểu về những phương hướng cơ bản mà mình sẽ theo để thực hiện tốt các nguyên tắc đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học trong thực tiễn. Bài tập 1 Kết quả đánh giá kĩ năng viết văn trong trường hợp nêu trên có thể không khách quan bởi vì hầu hết các đề học sinh đã từng làm ở lớp. Do vậy, kết quả bài tập làm văn rất có thể phản ánh việc học sinh nhớ lại những điều học sinh đã được viết hơn là khả năng suy nghĩ, diễn đạt của các em. Bài tập 2 Lối ôn tập và kiểm tra như đã nêu khuyến khích kiểu học hời hợt, học tủ của học sinh. Kết quả của các bài kiểm tra như thế chắc chắn không phản ánh được toàn diện khả năng học tập của học sinh. Bài tập 3 Việc đánh giá không được thực hiện trên cơ sở xác lập một cách tường minh các mục tiêu dạy học sẽ gây ra nhiều hậu quả cho giáo dục. Hai hậu quả cơ bản nhất là: (1) không thực sự đo lường được năng lực người học; (2) không có cơ sở kiểm soát, điều chỉnh kịp thời và sát hợp quá trình dạy và học, do vậy không bảo đảm được chất lượng dạy học. Bài tập 4 Để có thể thường xuyên nêu được những nhận xét có tác dụng phát triển năng lực và khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh, – Giáo viên cần có: hiểu biết sâu về nội dung và mục tiêu học tập mà học sinh cần lĩnh hội; tình yêu và lòng quan tâm đối với học sinh… – Giáo viên cần làm: quan sát và ghi chép kĩ các hành vi, thái độ học tập của học sinh; nhận ra những tiến bộ của học sinh; dành thời gian để chọn từ ngữ để viết các lời nhận xét cụ thể đối với từng học sinh. 20
  13. TIỂU MÔĐUN 3 TIỂU MÔĐUN 3: HÌNH THỨC KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP Ở TIỂU HỌC Chủ đề 1: HÌNH THỨC KIỂM TRA Hoạt động 1: ĐỌC THÔNG TIN CƠ BẢN ĐỂ TÌM HIỂU CÁC HÌNH THỨC KIỂM TRA Ở TIỂU HỌC NHIỆM VỤ: a) Thảo luận nhóm: Bằng kinh nghiệm bản thân, hãy trả lời các câu hỏi sau đây: Trong thực tế dạy học ở tiểu học, những hình thức kiểm tra nào đã được thực hiện? Mục đích của mỗi hình thức kiểm tra ấy là gì? Cho ví dụ. b) Đọc thông tin cơ bản về các loại kiểm tra bên dưới. Hãy cho biết thông tin này giúp bạn biết thêm những điều gì mới về kiểm tra. THÔNG TIN CƠ BẢN Căn cứ vào mục đích sử dụng, kiểm tra có thể được chia thành hai loại: kiểm tra đột xuất chẩn đoán và kiểm tra tổng kết. Căn cứ vào thời điểm kiểm tra trong một năm học, có thể được chia kiểm tra thành hai loại: kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kì. Kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kì Kiểm tra thường xuyên là tiến trình thu thập thông tin về việc học tập của học sinh một cách liên tục trong lớp học. Các hình thức kiểm tra thường xuyên dùng để đánh giá những phương diện cụ thể hay những phần của chương trình học. Kết quả của kiểu kiểm tra này được dùng để theo dõi sự tiến bộ của người học trong suốt tiến trình giảng dạy và cung cấp những phản hồi liên tục cho học sinh và giáo viên, nhằm giúp giáo viên có những biện pháp điều chỉnh kịp thời việc giảng dạy, cũng như giúp học sinh nhận ra những tiến bộ và chưa tiến bộ của bản thân để từ đó tự điều chỉnh và phát triển. Kiểm tra định kì (KTĐK) là phưõng thức xem xét kết quả học tập của học sinh theo thời điểm. Mục đích của việc KTĐK là giúp giáo viên biết xem mỗi học sinh đã tiếp thu được gì sau mỗi một đõn vị bài học hay sau mỗi phần học để có thể kịp thời bổ khuyết hay điều chỉnh nội dung và phưõng pháp dạy học những phần kế tiếp. Kiểm tra đột xuất chẩn đoán và kiểm tra tổng kết 21
  14. Kiểm tra đột xuất chẩn đoán là phưõng thức xem xét kết quả học tập không theo những thời điểm được ấn định trước. Kết quả thu được từ các bài kiểm tra đột xuất phản ánh hành vi học tập điển hình của người học, nghĩa là những điều người học làm được trong điều kiện bình thường, không có sự chuẩn bị hay nỗ lực tối đa như trong hình thức kiểm tra tổng kết. Những đánh giá dựa trên kết quả của những bài kiểm tra đột xuất trong phạm vi lớp học thường được dùng để chẩn đoán các mặt tồn tại của quá trình dạy học, từ đó đề ra phưõng hướng hay quyết định điều chỉnh việc dạy và học. Trong trường hợp này, kiểm tra đột xuất có thể xem là kiểm tra thường xuyên vì chúng thực hiện cùng một chức nãng. Mặt khác, kiểm tra đột xuất còn được dùng như một công cụ thanh tra hoặc quản lí giáo dục nhằm xác định trình độ học sinh của một trường so với trình độ của nhóm chuẩn hay so với hệ thống tiêu chí về kĩ nãng và kiến thức mà người học cần lĩnh hội ở một cấp học nào đó. Kiểm tra tổng kết là phưõng thức xem xét thành quả học tập được thực hiện vào cuối khoá học/môn học. Các kết quả thu được từ kiểm tra tổng kết chỉ ra khả nãng người học có thể đạt là gì khi nỗ lực hết mình cũng như khi có sự chuẩn bị tối đa. Kiểm tra tổng kết trước hết được xem là phưõng tiện để đo mức độ lĩnh hội của học sinh trong các lĩnh vực học tập và được dùng để xếp loại học tập hoặc để xác định thành quả của người học đạt được so với những kết quả học tập tổng quát đã được xác định trong mục tiêu dạy học. Do vậy, kiểm tra tổng kết còn được gọi là hình thức đánh giá thành tích học tập của học sinh và có ư nghĩa quan trọng về mặt quản lí. BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ Thảo luận nhóm: Theo Vãn bản Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học (Ban hành kèm theo quyết định số 30/2005/QĐ-BGD & ĐT), kết quả của các bài kiểm tra hằng tháng của môn Tiếng Việt và Toán (kiểm tra thường xuyên) không được tính vào kết quả học kì và cả nãm của hai môn học này. Kết quả môn học toàn nãm là trung bình cộng của 4 điểm kiểm tra định kì trong nãm học như kiểm tra giữa kì I, giữa kì II, kiểm tra cuối kì I và kiểm tra cuối kì II. Đây là một nét đổi mới trong quy định kiểm tra đánh giá của chưõng trình tiểu học mới. Sự thay đổi này nhằm mục đích gì? Nó có ư nghĩa gì đối với học sinh, đối với giáo viên và đối với nhà quản lí giáo dục? Sự thay đổi trên có những điểm lợi và bất lợi gì ? CHỦ ĐỀ 2 : HÌNH THỨC ĐÁNH GIÁ 22
  15. Hoạt động 2: TÌM HIỂU CÁC HÌNH THỨC ĐÁNH GIÁ NHIỆM VỤ a) Dựa vào thực tiễn kiểm tra đánh giá học sinh của lớp các bạn đang phụ trách, hãy trao đổi về vấn đề sau đây: – Hãy miêu tả cách thức làm việc khi ghi nhận xét cho các môn học được đánh giá bằng nhận xét. Nêu những khó khăn trong quá trình thực hiện đánh giá bằng nhận xét? b) Hiện nay có ư kiến cho rằng hiện tượng điểm số vô hồn, điểm số ảo tồn tại khá phổ biến trong dạy học. Anh (chị) hiểu thế nào là điểm số vô hồn và điểm số ảo? Những biện pháp nào cần phải được thực hiện để hạn chế hiện tượng tiêu cực trên? c) Từ kết quả đã thực hiện ở nhiệm vụ (a) và (b), hãy đọc phần thông tin cơ bản để tìm hiểu các loại đánh giá ở tiểu học, tìm ra những thông tin mới về đánh giá nhận được từ bài đọc. (Có thể thực hiện nhiệm vụ này ở nhà). THÔNG TIN CƠ BẢN 1. ĐÁNH GIÁ BẰNG NHẬN XÉT a) Đánh giá bằng nhận xét là gì? Đánh giá bằng nhận xét là giáo viên đưa ra những phân tích hoặc những phán đoán về học lực hoặc hạnh kiểm của người học bằng cách sử dụng các nhận xét được rút ra từ việc quan sát các hành vi hoặc sản phẩm học tập của học sinh theo những tiêu chí được cho trước. b) Giáo viên làm thế nào để đưa ra được một nhận xét tốt? Muốn đưa ra được những nhận xét tốt, giáo viên cần: – Trong trường hợp nội dung quan sát nhỏ hẹp, giáo viên cần thường xuyên tham khảo các tiêu chí đã được xác lập để có thể hình dung rõ trong đầu các tiêu chí cần đánh giá. – Xây dựng bảng hướng dẫn đánh giá trong trường hợp nội dung quan sát hoặc kiểm tra rộng lớn và phức tạp, hoặc những bài tập lớn mà kết quả của nó sẽ được chính thức sử dụng để xếp loại học sinh. – Quan sát và ghi nhận các biểu hiện hành vi của học sinh theo các tiêu chí đã định. – Thu thập thông tin đủ, phù hợp và tránh định kiến. – Trước khi bắt đầu đưa ra một nhận xét hay nhận định nào, cần xem xét: + Chứng cứ (biểu hiện) thu thập được có thích hợp không? + Chứng cứ (biểu hiện) thu thập được đã đủ cho việc đưa ra những nhận xét về người học chưa? + Đối với nhận xét dựa trên các tiêu chí học tập, phải xem xét xem những yếu tố nào khác ngoài bài thực hành hay kiểm tra có thể ảnh hưởng đến kết quả thực hiện của học sinh. + Khi viết một nhận xét nào đó nên cố gắng phát biểu rõ ràng những lí do đưa ra nhận xét ấy. c) Tác dụng của nhận xét đối với học sinh 23
  16. – Động viên học sinh phấn đấu học tập thành công hơn – Hướng dẫn học sinh điều chỉnh việc học tập. Thế nào là một nhận xét tốt? Nhận xét có tác dụng động viên và hướng dẫn Nhận xét không có tác dụng học sinh điều chỉnh việc học động viên hướng dẫn học sinh điều chỉnh việc học – Thực tế: hướng lời nhận xét đến những vấn đề Chung chung, không cụ thể. mà người học có thể làm được. – Cụ thể: đưa ra chứng cứ hay chi tiết cụ thể để giải thích hay chứng minh những nhận xét, nhờ vậy học sinh hình dung ra rõ ư nhận xét. Nhằm mục đích phê bình, phê phán. – Nhạy cảm đối với những quan tâm, mục đích hay cố gắng của người học: không cho là học sinh sai hay không tốt khi các em không đáp ứng được những yêu cầu hay mục đích mà chúng ta Không đáp ứng nhu cầu của người nhận đề ra. Khi tạo ra một sản phẩm học tập nào đó, phản hồi. học sinh đều có những mục đích cụ thể của mình. Hãy cố gắng nhận biết mục đích ấy và có Không đề nghị điều mà người học có thể một cách nhìn nhận thích hợp. Kết hợp lời nhận có hoặc có thể làm. xét của chúng ta với những ư định được thể hiện qua bài làm hay qua hoạt động của các em. – Khuyến khích: khẳng định những điều học sinh đã làm được với những chứng cứ cụ thể, – Hướng dẫn: hướng dẫn học sinh cách thức khắc phục những điều chưa đạt cũng như cách thực hiện nhiệm vụ học tập kế tiếp tốt hơn. – Kịp thời, không chậm trễ – Nói thẳng, không bóng gió, úp mở. – Cho những ư kiến hay cảm nghĩ riêng thay vì đưa ra những lời nhận định đầy uy quyền. (“Cô nghĩ/ cô cảm thấy là ………….”). d) Cách ghi nhận xét kết quả các môn học theo quy định của Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học d.1) Yêu cầu đánh giá bằng nhận xét theo quy định Các môn học được đánh giá bằng nhận xét gồm: – Ở các lớp 1, 2, 3: Đạo đức, Thể dục, Tự nhiên và Xã hội, Nghệ thuật. – Ở các lớp 4, 5: Đạo đức, Thể dục, Âm nhạc, Mĩ thuật, Kĩ thuật. Các môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá theo hai mức: 24
  17. – Loại Hoàn thành (A): đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng của môn học được nêu trong Sổ theo dõi kết quả kiểm tra và đánh giá học sinh ở từng lớp. Học sinh đạt được mức hoàn thành khi có từ 50% số nhận xét trở lên trong từng học kì hay cả năm học. Những học sinh đạt loại Hoàn thành nhưng có biểu hiện rõ về năng lực học tập môn học, đạt 100% số nhận xét trong từng học kì hay cả năm được đánh giá là Hoàn thành tốt (A+) – Loại Chưa hoàn thành (B): Học sinh đạt Chưa hoàn thành (B) khi chưa thực hiện được những yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng của môn học. d.2) Cách thức ghi nhận xét kết quả các môn học đánh giá bằng nhận xét Những điều cần làm: – Tìm hiểu nội dung nhận xét được ghi trong Sổ theo dõi kết quả kiểm tra đánh giá và nội dung sách giáo khoa để xác định rõ các hành vi học tập của học sinh mà ta cần quan sát. – Để giúp ghi nhận cụ thể các hành vi tiêu biểu của học sinh khi quan sát trong những lớp học sĩ số lớp đông, giáo viên nên làm những mẫu ghi nhận cho từng môn như sau, mẫu này được đánh máy để dùng cho nhiều năm: Tên HS Môn Tự nhiên và Xã hội / Học kì I Nhận xét 1 Nhận xét 2 Nhận xét 3... a) Nói tên và chỉ đúng các bộ phận của cơ quan hô hấp, tuần hoàn, bài tiết nước tiểu và thần kinh trên hình vẽ. b) Nói viết được về chức năng của các cơ quan trên. c) Kể được từ 1 đến 2 việc cần làm để giữ vệ sinh các cơ quan trên. Hoa thực hiện (a) đạt; (b) nói được 1 chức năng; (c) đạt, ngoài ra còn nêu thêm lí do. Toàn – Sau mỗi tiết hay phần bài học, GV đưa nhận xét chung (hoàn thành, giỏi..) kèm với chứng cứ về điều học sinh đã làm được và chưa làm được. Ví dụ “Em Hoa đã hoàn thành tốt trong tiết học vì em không những đã kể được hai việc giữ gìn vệ sinh thân thể mà còn giải thích lí do vì sao phải giữ gìn vệ sinh.” – Khi đưa ra nhận xét tổng quát vào cuối học kì hay cuối năm, ngoài loại học sinh đạt được (hoàn thành hay chưa hoàn thành), giáo viên dựa vào các ghi nhận cụ thể có được trong năm, khái quát những hành vi mà học sinh thường làm thành những nhận định tổng quát về phẩm chất và năng lực của học sinh. Ví dụ: Qua những ghi nhận, GV thấy em Hoa nhiều lần đưa thêm phần giải thích lí do cho những hoạt động liên quan đến bản thân như giữ gìn vệ sinh, bảo vệ thú hoang dã, giữ gìn 25
  18. của công.... ; và Hoa giải thích rất nhiệt tình, trôi chảy. Dựa vào đây giáo viên có thể đưa ra nhận xét chung rằng: em có nhận thức khá sâu sắc về những vấn đề của cộng đồng, của xã hội cũng như của bản thân, nhiệt tình với những vấn đề chung, có khả năng giải thích lí do …. Những điều nên tránh: – Không hình dung rõ ràng những yêu cầu cần quan sát khi tiến hành một giờ học thuộc môn học đánh giá bằng nhận xét. – Chỉ ghi nhận bằng các dấu √ mà không kèm theo những chứng cứ về một vài biểu hiện tiêu biểu. – Ghi nhận xét như kiểu: A = Hoàn thành; B = Chưa hoàn thành. – Chỉ dùng một bài kiểm tra viết hằng tháng (đối với môn Đạo đức, Kĩ thuật, Tự nhiên và Xã hội..) rồi dựa vào đó đưa một nhận xét. – Không ghi những nhận xét vụn vặt, thể hiện những hành vi nhất thời của học sinh vào Học bạ, ví dụ: Môn Thể dục: tập đều đặn, thuộc động tác; Môn Tự nhiên và Xã hội: có học bài, hoặc thuộc bài, hoặc làm bài tốt. – Không ghi những nhận xét chung chung như: Tiến bộ, Khéo tay, Rèn thêm toán, Ngoan….. 2. ĐÁNH GIÁ BẰNG ĐIỂM SỐ a) Đánh giá bằng điểm số là gì? Đánh giá bằng điểm số là sử dụng những mức điểm khác nhau trên một thang điểm để chỉ ra mức độ về kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã thể hiện được qua một hoạt động hoặc sản phẩm học tập. Thang điểm là một tập hợp các mức điểm liền nhau theo trật tự số từ cao đến thấp hay ngược lại. Trong thang điểm, đi kèm với mỗi mức điểm là phần miêu tả những tiêu chí tưõng ứng cho từng mức điểm. Như vậy, một thang điểm đầy đủ bao gồm các mức điểm và phần miêu tả những yêu cầu về kiến thức hay kĩ nãng cho mỗi mức điểm. Phần miêu tả này có thể gọi là phần hướng dẫn chấm điểm hoặc đáp án. Thiếu phần hướng dẫn này, các điểm số trở nên mõ hồ, đặc biệt đối với kiểu bài kiểm tra tự luận. Nói khác đi, những tiêu chuẩn được miêu tả cho từng mức điểm là cãn cứ để giáo viên giải thích ư nghĩa của các điểm số, đồng thời để họ có thể cho những nhận xét cụ thể về bài làm của học sinh. Dưới đây là một ví dụ về thang điểm 5 cho bài tập làm vãn viết lớp 5: Mức Chính tả (CT), Sự phong phú Tổ chức diễn đạt Hiệu quả điểm ngữ pháp (NP) và cụ thể của ư tưởng giao tiếp ư tưởng 5 Không lỗi CT, NP Ư cụ thể, nhiều chi Mạch lạc, trình tự Người đọc hiểu dễ tiết thú vị hợp thể loại dàng 4 1, 2 lỗi CT, NP Ư cụ thể, khá Mạch lạc, trình tự Người đọc hiểu dễ nhiều chi tiết thú vị hợp thể loại dàng 26
  19. 3 2, 3 lỗi CT, NP Ư cụ thể, một số Một vài chỗ Vài chỗ còn khó chi tiết thú vị không mạch lạc hiểu 2 Hơn 4 lỗi CT, NP Vài chỗ ư chung Không mạch lạc Vài chỗ còn khó chung, mơ hồ. hiểu 1 Nhiều lỗi CT, NP Ư mơ hồ Rời rạc, trình tự Khó hiểu lộn xộn b) Giải thích ư nghĩa của điểm số Việc giải thích ư nghĩa của điểm số là một hoạt động phức tạp vì điểm số được xem là kí hiệu phản ánh trình độ học lực và phẩm chất của người học sinh. Người quản lí xem điểm số như là một chứng cứ xác định trình độ học vấn của học sinh và khả năng giảng dạy của giáo viên. Người giám hộ hay cha mẹ học sinh có xu hướng nhìn nhận trình độ của con em mình chủ yếu qua điểm số. Họ thường không hiểu được ư nghĩa của các mục tiêu sư phạm. Họ lưu tâm chừng mực đến các nhận xét liên quan đến nhân cách và thái độ của con cái họ. Bản thân trẻ cũng chỉ hiểu việc sửa bài của thầy qua số điểm đạt được. Người giáo viên phải có khả năng lí giải được ư nghĩa của điểm số mà mình đã cho, đặc biệt khi điểm số được xem là căn cứ xác định ngưỡng thành đạt của học sinh. Việc lí giải những kiến thức, kĩ năng hay năng lực của học sinh thể hiện qua điểm số có tác dụng thúc đẩy học sinh học tốt hõn, ngày càng thành công hõn. Đồng thời việc giải thích ư nghĩa của điểm số của học sinh cũng giúp giáo viên và nhà quản lí nắm được chất lượng dạy và học một cách cụ thể hơn, nhờ vậy, họ có thể đưa ra những quyết sách phù hợp để điều chỉnh quá trình dạy học. Để có thể diễn giải được ư nghĩa của điểm số, người giáo viên cần phải: – Xác định mục đích của đánh giá: Xác định kiến thức, kĩ nãng, thái độ, hay nãng lực nào cần đánh giá. – Chuẩn bị kĩ các bài kiểm tra ở lớp học để có thể có một sản phẩm giá trị làm cãn cứ cho điểm, và qua điểm số đó đánh giá được trình độ về nãng lực của học sinh : + Phải bao quát được nhiều mặt kiến thức hay kĩ nãng đã học trong nội dung đề bài kiểm tra. + Đề cập trong bài kiểm tra những mục tiêu của kế hoạch đã nêu ra trong tháng hay trong học kì. + Xây dựng thang điểm, nhưng có thể điều chỉnh trong quá trình chấm khi có những câu trả lời ngoài dự kiến. + Điều chỉnh các câu hỏi trong lúc đọc đề kiểm tra nếu phát hiện thấy có sự không rõ ràng. + Xác định ngưỡng đạt yêu cầu của bài kiểm tra. 27
  20. + Tập hợp nhiều loại thông tin khác nhau từ việc học của học sinh để làm chứng cứ hỗ trợ cho việc giải thích điểm số của học sinh. BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ Bài tập 1 Làm việc nhóm: So sánh phân tích và nhận xét hai bản nhận xét dưới đây. .......................................................................... 28

Tiểu luận - giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận - giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ..... KHOA .... BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: Giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan 1
  2. Mục lục Luận văn gồm 3 phần lớn: Phần mở đầu, nội dung và phần kết luận. Sau phần kết luận là tài liệu tham khảo và phụ lục. Mở đầu: Bao gồm các yêu cầu chung của đề tài. Nội dung: Gồm 3 chương - Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài. - Chương II: Cơ sở thực tiển. - Chương III: Giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan ở trường TCYT Đồng Tháp. Kết luận: MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài: Đánh giá kết quả học tập là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng đào tạo. Việc đánh giá có chất lượng là một vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay. Từ năm 1994, Bộ giáo dục và Đào tạo chủ trương đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập bằng hình thức trắc nghiệm nhằm nâng cao chất lượng đánh giá. Hiện nay nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã triển khai áp dụng việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. Việc đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay chưa được tiến hành một cách bài bản: Việc soạn thảo câu hỏi trắc nghiệm theo qui trình chuẩn hoá còn là một vấn đề mà nhiều trường chưa làm được, khâu tổ chức thực hiện còn nhiều vấn đề... Từ nhiều năm nay, Trường trung cấp y tế Đồng Tháp đã thực hiện việc đánh giá kết quả học tập bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. Các 2
  3. môn học đã được áp dụng thi hết môn bằng câu hỏi trắc nghiệm. Tuy nhiên số lượng các test của từng môn học chưa nhiều và chưa tiến hành xác định chất lượng một cách có hệ thống và chưa được soạn thảo theo quy trình chuẩn hoá. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài một số giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan ở trường TCYT Đồng Tháp. 2.Mục đích nghiên cứu: Nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên thông qua tmột số giải pháp tổ chức đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. 3.Khách thể- Đối tượng: *Khách thể nghiên cứu: Quá trình đánh giá kết quả học tập của sinh viên. *Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan ở trường TCYT Đồng Tháp. 4.Giả thuyết khoa học: Nếu các giải pháp đề xuất được áp dụng thì có thể nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. 5.Nhiệm vụ nghiên cứu: 5.1.Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận: Hệ thống hóa kiến thức liên quan định hướng cho việc nghiên cứu. 5.2.Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiển: Phản ánh thực trạng kiểm tra đánh giá kết quả học tập bằng hình thức trắc nghiệm khách quan ở các môn học do bộ môn điều dưỡng trường TCYT quản lý. 3
  4. 5.3.Xây dựng và đề xuất giải pháp. 6.Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này chỉ tiến hành nghiên cứu quá trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên ở các môn học do bộ môn điều dưỡng trường TCYT quản lý. 7.Phương pháp nghiên cứu: 7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá, các tài liệu có liên quan đến đề tài. 7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp quan sát: Quan sát cách tổ chức thực hiện việc kiểm tra đánh giá thường xuyên, định kỳ, hết môn học. - Phương pháp điều tra: Sử dụng các bộ phiếu điều tra đối với học sinh, giáo viên và cán bộ quản lý để phân tích thực trạng công tác kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan. - Phương pháp thực nghiệm: thăm dò tính khả thi của các giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của sinh dưới hình thức trắc nghiệm khách quan. 7.3.Phương pháp thống kê toán học: để xử lý số liệu. 8. Đóng góp của đề tài: - Phản ánh thực trạng đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan. - Đề ra các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. 9.Cấu trúc của luận văn: Luận văn gồm 3 phần lớn: Phần mở đầu, nội dung và phần kết luận. Sau phần kết luận là tài liệu tham khảo và phụ lục. 4
  5. Mở đầu: Bao gồm các yêu cầu chung của đề tài. Nội dung: Gồm 3 chương - Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài. - Chương II: Cơ sở thực tiển. - Chương III: Giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của sinh viên dưới hình thức trắc nghiệm khách quan ở trường TCYT Đồng Tháp. Kết luận: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1.1.1.Trên thế giới: Trắc nghiệm (kiểm tra, đánh giá) được hình thành khá sớm cùng với việc xuất hiện của xã hội loài người. Việc chọn người “phối ngẫu” trong các bộ lạc nguyên thuỷ có thể là loại kiểm tra, đánh giá sớm nhất. Người tù trưởng qua “kiểm tra” có thể chọn cho mình các phối ngẫu ưng ý. Những kiểu thử như vậy, mà phương Tây gọi là test (trắc nghiệm) có thể xuất hiện sớm hơn phương Đông so với các dạng kiểm tra khác. Theo Trần Trọng Thuỷ từ những năm 2000 trước Công nguyên (Tr CN), người Trung Hoa đã dùng trắc nghiệm trí tuệ để chọn người hầu, thê thiếp. Trong thực tế cuộc sống, những trắc nghiệm trước khi dùng được sử dụng phổ biến trong các thời đại ở Trung quốc cũng như các nước châu Á trong đó có Việt Nam. Các phép thử dùng để chọn tướng, dùng người... 5
  6. được miêu tả kỹ càng trong tam quốc chí. Những phép thử khi các sứ thần Việt Nam đi triều cống ở các vương triều Trung Quốc là tiêu biểu cho các phép trắc nghiệm tâm lý. Trong các truyện dân gian việc kén rễ, kén vợ, chọn dâu hiền, tôi trung... xảy ra phở biến. người ta còn tổng kết thành tục ngữ, ca dao, thành ngữ để chọn người... Việc kiểm tra- đánh giá thông thường có thể qua đối đáp (ngày nay chhúng ta gọi là trắc nghiệm nói), qua công việc như: thi nấu ăn, thi dệt vải, thi đấu võ, thi vật, thi vẽ... (ngày nay gọi là trắc nghiệm thực hành) và khi có chữ viết thì xuất hiện trắc nghiệm viết. Trong trường học Việt Nam và Trung Quốc thời xưa, bài viết được đánh giá qua các buổi bình văn, hoặc do quan trường chấm bài, thậm chí các kỳ thi quan trọng Vua cũng tham gia chấm bài. Một hình thức kiểm tra lý thú khác cũng xuất hiện khá sớm là kiểm tra bằng hình ảnh. Qua các cuộc kiểm tra, người ta thường đánh giá và chọn ra người thắng cuộc. Trắc nghiệm bằng lời nói, việc làm, hành động... nếu được xem là phép thử hay trắc nghiệm khách quan, thì trắc ngihệm khách quan có thể ra đời sớm hơn trắc nghiệm khác. Nhưng cái thiếu của những loại trắc nghiệm lúc đó chính là có một công cụ đo chính xác. Trong dạy học truyền thống người ta sử dụng các câu hỏi mở ( trắc nghiệm tự luận) để thí sinh trả lời theo diễn đạt của mình mà ta thường gọi là câu hỏi tự luận, sau đó hình thành khoa trắc nghiệm khách quan. Việc kiểm tra thường đi kèm với đánh giá xếp loại và tuyển chọn học sinh. Theo Vũ Cao Đàm: “Trắc nghiệm là phương pháp bán thực nghiệm được sử dụng để đánh giá chất lượng của đối tượng khảo sát với một chương trình đòi hỏi đối tượng thực hiện, nhưng không gây biến đổi bất cứ một thông số nào trên đối tượng. Trắc nghiệm là phương pháp đo lường khách quan những phản ứng của sự vật được trắc nghiệm, biểu hiện tâm lý và mức độ nhận thức của một 6
  7. người hoặc một nhóm người được trắc nghiệm. Công cụ được sử dụng trong nghiên cứu bằng trắc nghiệm có thể là ngôn ngữ hoặc công cụ phi ngôn ngữ. Nói trắc nghiệm là phương pháp bán thực nghiệm là vì, sự vật không bị bất cứ tác động nào làm biến đổi trạng thái, mà chỉ có các tình huống của môi trường hoạt động sự vật bị thay đổi. Qua trắc nghiệm, người nghiên cứu nhận biết được chất lượng của đối tượng khảo sát. Trắc nghiệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Chẳng hạn, trong lĩnh vực công nghệ, người ta có thể làm trắc nghiệm như thử nghiệm đánh hỏng vật liệu; thử nghiệm độ bền cơ học của vật liệu; thử nghiệm các điều kiện làm việc: thời gian ngắn, cường độ lao động cao; tải trọng thường xuyên biến đổi, điều kiện vật lý bất ổn định... Ở phương Tây, trắc nghiệm khách quan (sau đây gọi là trắc nghiệm) theo Questin Stodola, Kamer Stordahl..., các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu tiên được tiến hành vào thế kỷ XVII – XVIII ở khoa vật lý- Tâm lý và sau đó lan dần sang ngành động vật học. Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên được Wichelm Weent thành lập tại Leipizig (Đức) năm 1879. Ban đầu, các nhà nghiên cứu chú trọng đến các phép đo liên quan đến thính giác, thị giác, tốc độ phản xạ, sau đó mới nghiên cứu đến thời gian nhận thức, tốc độ học tập... Francis Galton (người Anh) đã vận dụng những nguyên tắc của Darwin trong tác phẩm “Nguồn gốc các loài” (Origin of species – 1859) về sự khác nhau giữa các loài vào khảo sát sự khác biệt giữa các cá thể về tính chất sinh lý và tâm lý liên quan đến yếu tố di truyền. Ông cho rằng các đặc điểm trí tuệ, thể lực và cả bản sắc cá nhân cũng được di truyền. Nhằm chọn lọc những người có thể làm cha mẹ tốt nhất, Galton đã triển khai các trắc nghiệm khách quan để đo các đặc diểm con người liên quan đến trí tuệ. 7
  8. James Mackeen Cattell (người Mỹ, học tập ở châu Âu) mang nhiều ý tưởng của Galton cho rằng các chức năng trí tuệ đo được bằng trắc nghiệm. Karl Pearson, học sinh của Galton, tìm ra các kỹ thuật thống kê giúp xử lý nhanh các kết quả của Galton, trong đó phép đo về sự tương quan. Đến năm 1904, Alfred Binet, nhà Tâm lý học người Pháp, trong quá trình nghiên cứu trẻ em mắc bệnh tâm thần, đã xây dựng một số bài trắc nghiệm của Alfred Binet ra tiếng Anh, từ đó trắc nghiệm trí thông minh được gọi là trắc nghiệm Stanford- Binet. Bài trắc nghiệm này được sửa chữa một số lần vào các năm 1937, 1960, và những năm gần đây... Theo Trần Bá Hoành, vào đầu thế kỷ XX, E. Thorm Dike là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm khách quan (TNKQ) như là phương pháp “khách quan và nhanh chóng” để đo trình độ học sinh, bắt đầu với môn Số học và sau đó là một số môn khác. Hiện nay có hàng trăm triệu bài trắc nghiệm với mục đích khác nhau, có nhiều công ty trắc nghiệm với mục dích kinh doanh đem lại lợi nhuận hàng triệu USD mỗi năm. TNKQ hiện nay rất phổ biến trong trường học ở các nước Âu Mỹ. Có rất nhiều nghiên cứu về kỹ thuật đo lường trong giáo dục bằng TNKQ như nghiên cứu kỹ thuật câu hỏi TNKQ, ưu và nhược điểm của chúng, đánh giá chính xác kết quả học tập kết hợp xử lý trên máy vi tính các số liệu về xây dựng và sử dụng nhanh chóng TNKQ, nghiên cứu tiêu chuẩn dùng để phân loại nhóm người của các tác giả: Lindquist E.F. , Stodola Q. và cộng sự, Ebel R.L., Howard B.L., Taylor C., Popham W.L., Glaser R... nghiên cứu ưu diểm của trắc nghiệm tiêu chí, nguyên tắc, thủ tục, kỹ thuật xây dựng loại câu hỏi trắc nghiệm này, tính toá độ giá trị, độ tin cậy của câu trắc nghiệm, bài trắc nghiệm, giải thích các điểm số của bài trắc nghiệm. 8
  9. Nhiều công trình nghiên cứu đo lường, đánh giá kết quả học tập đã được công bố: Erwin T.D., Hopkins K.D., Stanley K.D., Mehrens W.A., Lehmann I.J... các tác giả này đi sâu vào phương pháp đo lường từng lĩnh vực của mục tiêu giáo dục, phân biệt rõ từng loại trắc nghiệm, xác định nguyên tắc xây dựng và sử dụng từng loại trắc nghiệm. S.J. Osterlind nghiên cứu về xây dựng câu trắc nghiệm. Về kỹ thuật xây dựng và sử dụng MCQ (Multiple Choice Questions: câu hỏi trắc nghiệm khách quan dạng nhiều lựa chọn) trong kiểm tra đánh giá (KTĐG) và tự KTĐG, chúng tôi nhận thấy rằng các tác giả Alexander L.G., Zolene Gear là mẫu mực. Các bài đánh giá khách quan của họ được sử dụng rộng rãi trên thế giới và trong kiểm tra (KT) trình độ tiếng Anh. Đã có nhiều công trình nghiên cứu quy trình xây dựng và lựa chọn cách sử dụng câu hỏi trắc nghiệm (CHTN) như thế nào để đảm bảo hiệu quả cao cho việc đo lường và đánh giá tuỳ theo yếu cầu của từng môn học và từng mục đích đánh giá. Tuyển tập trắc nghiệm sử dụng trước khi vào học giáo trình (Pre-test) của nhiều tác giả do Douglas Sawyer chủ biên về tế bào học, đề cập đến các lĩnh vực như cấu trúc và chức năng của màng tế bào, sự vận chuyển các chất qua màng... . Trong lĩnh vực di truyền học, đáng chú ý là công trình của Janice Finkeltein, Golder Wilson về Pre-test dùng cho sinh viên Y khoa tự ôn tập, tự KTĐG khi họ di truyền người. Ở Liên xô cũ, một số nhà sư phạm ở Matxcơva, Kiep, Lêningơrat đã dùng TNKQ để chẩn đoán tâm lý nhân dân và kiểm tra kiến htức học sinh. Nhưng do sử dụng TNKQ mà không thấy được nhược điểm của chúng, nên ngày 4/9/1936 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã phê phán việc sử dụng trắc nghiệm. Mãi đến năm 1963, Nhà nước Liên xô mới cho phép sử dụng TNKQ trong đánh giá kết quả học tập. Công trình đáng lưu ý nhất là của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô do E.I. Monnetzen chủ trì. 9
  10. Nhiều công trình nghiên cứu TNKQ về nhiều lĩnh vực khoa học giáo dục khác nhau được công bố. Các kỳ thi Olympic quốc tế Sinh học (IBO) trong nhiều năm qua đã áp dụng TNKQ trong phần lớn các đề thi lý thuyết và thực hành. Như vậy, dạng câu hỏi và bài tập được sử dụng nhiều cho kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong dạy học chủ yếu là câu hỏi tự luận và TNKQ. 1.1.2.Ở Việt Nam: Lịch sử khoa cử ở Việt Nam được hình thành khá sớm, các cuốc thi chọn người tài, người có học vấn được tổ chức định kỳ. năm 1070, vua Lý Thái Tông cho lập Văn Miếu. Từ khi thành lập Văn miếu Quốc tử giám, việc học hành có bài bản hơn. Người ta xem Văn miếu Quốc tử giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khoa thi đầu tiên được tổ chức năm 1075 đời Lý Thái Tông. Trên đại thể, chế độ khoa cử thời phong kiến bắt buộc sĩ tử phải trãi qua ba kỳ thi để đạt học vị cao nhất: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Thi Hương, thí sinh thí đỗ trong kỳ thi này chia làm hai loại: loại thứ nhất có danh hiệu hương cống (còn gọi là cống cử, cống sinh), các ông cử này có quyền thi Hội. Loại thhứ hai là sinh đồ không được thi Hội. Người đỗ đầu được gọi là Giải nguyên. Đến đời Minh Mạng (1820- 1840) hương cống được gọi là cử nhân, sinh đồ được gọi là tú tài. Thi Hội, thi Đình cứ ba năm tổ chức một lần để chọn thái học sinh. danh từ Thái học sinh xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn (1232), đời Trần Thái Tông cho đến khoa Canh Thìn (1400). Từ năm 1232, đã có quy định đỗ Thái học sinh (Tiến Sĩ) làm 3 loại: đệ nhất giáp, đệ nhị giáp và đệ tam giáp. 10
  11. Năm 1246 đặt danh hiệu Trạng nguyên cho người đỗ đầu, năm 1247 đặt thêm danh hiệu “Tam khôi” cho 3 người đỗ đầu là Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Từ năm 1442 đời Lê Thái Tông, Thái sinh học gọi là tiến sĩ cho đến năm 1919. Nhà Nguyễn sau này không lấy trạng nguyên, người đỗ đầu được gọi là Đình nguyên. Thi Đình được tổ chức ngay trong sân nhà vua, thí sinh làm bài trong phòng riêng, nhận bút giấy trước mặt Vua và Vua chấm từng bài. Chỉ người đậu cả hai kỳ thi mới nhận học vị Tiến sĩ. Từ năm 1829, có chủ trương lấy thêm đỗ phó bảng cho những ai không đủ diểm để dự thi Đình. Khoa thi cuối cùng của Nho học vào năm 1919. Các kỳ thi đều được tổ chức bằng luận đề, người viết các bài luận của mình theo lối từ chương và có phát biểu ý kiến cá nhân, có đề thi thi Đình khá ngắn gọn như: “Người quân tử, kẻ tiểu nhân”, “Phong cảnh kinh thành mùa xuân”. Thi cử thời phong kiến Việt Nam có luật khá nghiêm ngặt, thể lệ khắc khe, bất công, nhưng cũng đào tạo tuyển chọn được hàng loạt trí thức tài giỏi góp phần quan trọng trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Song, giáo dục Nho học không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Từ năm 1920, chế độ thi cử ở Việt Nam đã chuyển sang chế độ tây học, tức là học và thi bằng tiếng Pháp theo chế độ giáo dục của Pháp. Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc học hành chủ yếu bằng chữ quốc ngữ. Việc thi cử chủ yếu theo lối tự luận. Sau năn 1954, trắc nghiệm khách quan được sử dụng ở miền Nam. Có thể nói ở miền Nam, trước năm 1975, TNKQ phát triển khá mạnh. Từ năm 1956 đến những năm 1960 trong các trường học đã sử dụng rộng rãi 11
  12. hình thức thi TNKQ ở bậc trung học, sớm nhất là trong Sinh học. Năm 1963, “Trắc nghiệm Vạn vật lớp 12” của Lê Quang Nghĩa được xuất bản. Năm 1964, “Phương pháp thi Vạn vật lớp 12” của Phùng Văn Hướng được xuất bản. Năm 1969, Dương Thiệu Tống đã giảng dạy “Trắc nghiệm thành quả học tập” cho các lớp Cao học và Tiến sĩ Giáo dục học tại ĐHSP Sài Gòn. Như vậy, khoa học TNKQ chính thức được đưa vào chương trình đào tạo giáo viên và các nghiên cứu về TNKQ cũng khá phát triển lúc bấy giờ. Nhà khảo thí ( trực thuộc Bộ giáo dục chế độ cũ) là nơi chuyên phát hành các đề thi TNKQ trong các kỳ thi cho các trường trung học. Năm 1974, kỳ thi tú tài toàn phần đã được thi bằng TNKQ. Sau năm 1975, một số trường vẫn áp dụng TNKQ song có nhiều tranh luận nên hay không nên áp dụng TNKQ trong thi cử. Thi cử ở miền bắc cho đến năm 1990 vẫn chủ yếu thi bằng hình thức tự luận. Những nghiên cứu đầu tiên về TNKQ ở miề Bắc là của Trần Bá Hoành. Năm 1971, ông công bố: “Dùng phương pháp test để kiểm tra nhận thức của học sinh về một số khái niệm trong chương trình Sinh học đại cương lớp 9”. Năm 1996 – 1997, ông đã đề cập nhiều đến TNKQ trong tài liệu “Đánh giá trong giáo dục”, “Tài liệu bồi dưỡng sách giáo khoa lớp 12 cải cách giáo dục môn Sinh học”. Năm 1986, khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp (ĐHSP Hà Nội I) đã tổ chức các hội thảo về “Phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi lực chọn đa phương án” do J. P. Herath trình bày và hướng dẫn, trong chương trình tài trợ của UNDP. Nhiều giảng viên đã triển khai xây dựng và áp dụng vào KTĐG ở một số bộ môn. Từ năm 1990, TNKQ thực sự được quan tâm và ứng dụng ở nhiều cấp học. Năm 1990, Bộ Y tế với sự giúp đỡ của đề án “Hỗ trợ hệ thống đào tạo” của chương trình hợp tác Việt Nam - Thụy Điền (03/SIDA) đã mở khoá 12
  13. tập huấn cho toàn bộ giảng viên các trường y tế, đã xây dựng được bộ công cụ đánh giá bằng TNKQ các chuyên khoa, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường y dược, Nguyễn Quang Quyền và cộng sự ở Bộ môn Giải phẫu học trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản cuốn “Mục tiêu bài giảng và câu hỏi trắc nghiệm Giải phẫu học”. Cuốn sách gồm 1000 câu hỏi (CH) TNKQ và đáp án, giúp học sinh tự học, tự KTĐG kiến thức Giải phẫu học của mình. Năm 1994, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương đổi mới KTĐG kết quả học tập, đã phối hợp với viện viện công nghệ Hoàng gia của Melbourne của Australia, tổ chức các cuộc hội thảo với chủ đề “Kỹ thuật xây dựng CH TNKQ”, tại các thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hà Nội. Hội thảo đã trang bị cho giáo viên các trường đại học và cao đẳng những lý luận cơ bản về TNKQ. Năm 1995, với sự tài trợ của UNESCO ( thuộc Liên hiệp quốc) Đại học tổng hợp Hà Nội cũng đã mở những lớp tập huấn về phương pháp xây dựng TNKQ cho nhiều giảng viên. Nhiều tài liệu về xây dựng và sử dụng TNKQ được xuất bản trong các năm này. 1.2. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm: 1.2.1.Khái niệm đánh giá: Có nhiều định nghĩa về đánh giá trong giáo dục. Theo Becby C.E: Đánh giá là sự thu thập và giải lý một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hành động. Griffin P.E. quan niệm: Đánh giá là đưa ra phán quyết về giá trị của một sự kiện, nó bao hàm việc htu thập thông tin sử dụng trong việc xác định giá trị của một chương trình, một sản phẩm, một tiến trình, một mục tiêu hay tiềm năng ứng dụng của một cách thức đưa ra nhằm đạt tới một mục đích nhất định. 13
  14. Glonlund N.E.: Đánh giá là một tiến trình có hệ thống của việc thu thập phân tích và giải thích thông tin nhằm xác định mức độ mà học sinh đã đạt được mục tiêu giảng dạy. Polonxki V.M. cho rằng: Đánh giá là sự xác định trình độ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh trong sự tương ứng với yêu cầu của chương trình học. Theo Trần Bá Hoành, đánh giá là: “Quá trình hình thành những nhận định, phán đoán kết quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải tiến thực trạng, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc”. 1.2.2.Đánh giá kết quả học tập của sinh viên: 1.2.2.1.Học tập và kết quả học tập (KQHT): Học tập xét về bản chất là hoạt động liĩnh hội của người học dưới sự hướng dẫn, tổ chức của nhà sư phạm để tiếp thu tri thức văn hoá của nhân loại chuyển chúng thành năng lực tri thức, năng lực tinh thần của mỗi cá nhân người học. Đối tượng của hoạt động học là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,... được thể hiện ở nội dung môn học, bài học bằng hệ thống khái niệm khoa học, khái niệm môn học. Thành quả học tập – thành tích học tập hay kết quả học tập thể hiện chất lượng của quá trình dạy học, xuất hiện khi có những biến đổi tích cực trong nhận thức, hành vi của người học, được hiểu theo khoa học và thực tế: - Là mức độ mà người học đạt được so với các mục tiêu đã xác định ( theo tiêu chí). - Là mức độ mà người học đạt được so với những người cùng học khác (theo chuẩn). 14
  15. 1.2.2.2.Đánh giá kết quả học tập của sinh viên: Đánh giá ở các trường trung học chuyên nghiệp bao gồm đánh giá tiến trình và đánh giá tổng kết (kết quả?). 1.Đánh giá tiến trình: gồm đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ. - Đánh giá thường xuyên bao gồm KT - đánh giá đầu giờ và kiểm tra 15 phút. Kiểm tra đầu giờ và kiểm tra 15 phút cần áp dụng kiểu TNKQ, nhất là câu hỏi dạng nhiều lựa chọn (MCQ). Bằng các câu hỏi được soạn sẵn, GV có thể phát cho học sinh phiếu làm bài, hoặc chiếu overhead khoảng 5- 10 câu, thời gian làm bài mỗi câu khoảng 1 phút. Phiếu chấm là bảng có sẵn đã đục lỗ, GV nhanh chóng có kết quả của một số lớn học sinh, để nắm được nhiều thông tin ngược cho việc dạy học của mình, đồng thời học sinh cũng nhận ra kiến thức hỏng của mình để bổ sung kịp thời Đánh giá này được sử dụng trong quá trình dạy học để nhận được các phản hồi từ học viên, xem xét mức độ thành công của việc dạy và học, chỉ ra trở ngại và tìm cách khắc phục. - Đánh giá định kỳ: Hình thức kiểm tra - đánh giá này thường được thực hiện sau một chương lớn, một phần của chương trình hay một học kỳ. Nó giúp học sinh và giáo viên nhìn lại kết quả dạy và học sau những kỳ hạn nhất định, đánh giá trình độ học sinh sau khi đã học một khối lượng lớn kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, củng cố mở rộng những điều đã học, đạt cơ sở tiếp tục học sang phần mới. 2.Đánh giá tổng kết: Thông thường đánh giá tổng kết thường được gọi là “thi”. Hình thức đánh giá này thực hiện vào cuối mỗi giáo trình, cuối năm học, nhằm đánh 15
  16. giá kết quả chung, củng cố mở rộng chương trình toàn năm của mỗi môn học, chuẩn bị điều kiện để tiếp tục học chương trình của năm học sau. 1.2.3. Sử dụng TNKQ trong đánh giá kết quả học tập của học sinh: 1.2.3.1. Khái niệm trắc nghiệm khách quan: Trắc nghiệm (test) trong tiếng Anh nghĩa là “thử” hay “phép thử”, ‘sát hạch”; trong tiếng Hán: Trắc có nghĩa là “đo lường”, nghiệm là “suy xét”, “chứng thực”. Theo Dương Thiệu Tống: Trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương thức - hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lới câu hỏi: Thành tích của các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh với một lĩnh vực các nhiệm vụ dự kiến. Gronlund N.E.: Trắc nghiệm là một công cụ hay một quy trình có hệ thống nhằm đo lường mức độ mà một cá nhân đã làm được trong một lĩnh vực cụ thể. 1.2.3.2. Các dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan và kỹ thuật soạn thảo: *Các dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan: Có thể phân chia các phương pháp trắc nghiệm ra làm 3 loại: loại quan sát, loại vấn đáp và loại viết. 1.Loại quan sát: giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu. 2.Loại vấn đáp: có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong một tình huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn... 16
  17. 3.Loại viết thường được sử dụng nhiều nhất. Trắc nghiệm viết được chia làm 2 nhóm chính: Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời theo dạng mở, thí sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Người ta gọi trắc nghiệm theo kiểu này là kiểu tự luận. Phương pháp tự luận rất quen biết với mọi người chúng ta. Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu. Người ta thường gọi nhóm phương pháp này là trắc nghiệm khách quan. Nhiều người thường gọi tắt phương pháp trắc nghiệm khách quan là trắc nghiệm. Thuận theo thói quen ấy, từ nay về sau khi dùng từ “trắc nghiệm” mà không nói gì thêm thì chúng ta ngầm hiểu là nói đến trắc nghiệm khách quan. Trong trắc nghiệm khách quan có thể phân chia ra nhiều câu hỏi khác nhau: 1.Câu ghép đôi: Cho 2 cột nhóm từ, đòi hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột với nhau sau cho phù hợp về nội dung. Có 2 điều cần tránh khi soạn thảo những câu trắc nghiệm loại này: (trắc nghiệm tâm lý) - Không nên đặt số câu lựa chọn ở cột bên phải bằng số câu hỏi trong phần gốc ở cột bên trái, nên dành cho cột bên phải số lựa chọn nhiều hơn số câu hỏi ở phần gốc. - Phần gốc cũng như phần lựa chọn không được quá dài. Vì như thế học sinh sẽ mất nhiều thì giờ đọc và tìm câu tương ứng để cặp đôi. Khi lập câu trắc nghiệm loại này cần chú ý: - Câu điền vào chỗ trống phải gợi được ý nghĩa của chữ phải điền. 17
  18. - Tránh lấy lại ý tưởng hay câu văn của bài học hay sách giáo khoa. - Chữ phải điền thường là một danh từ, tránh các chữ liên từ, tính từ, trạng từ... hay cả một mệnh đề. - Chữ phải điền là một chữ có ý nghĩa nhất trong câu 2.Câu điền khuyết: Nếu một mệnh đề có khuyết một bộ phận nào, thí sinh phải nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào ô trống. 3.Câu trả lời ngắn: Là câu trắc nghiệm đòi hỏi chỉ trả lời bằng một câu rất ngắn. Khi soạn câu này tránh, cần chú ý những điểm sau: - Câu hỏi phải ngắn gọn để chỉ trả lời bằng một chữ hay một câu ngắn. tránh lập câu quá dài, ý tứ rườm rà. - Tránh lập câu hỏi có thể trả lời bằng nhiều cách. Câu hỏi chỉ dẫn đến một câu trả lời mà thôi. 4.Câu đúng sai: Đưa ra một nhận định, thí sinh phải lựa chọn một trong hai phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai. Loại này rất thông dụng, nhưng cũng là loại bị chỉ trích nhiều nhất. Thông dụng vì nó đơn giản, ít tốn công phu soạn thảo và có thể đặt được nhiều câu hỏi trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng loại này có nhiều nhược điểm nên cần chú ý: - Chỉ nên sử dụng loại này một cách dè dặt, nhất là với những giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm về trắc nghiệm. Trong nhiều trường hợp có thể cải biến thành loại câu có nhiều lựa chọn mà không làm giảm tính chính xác của việc đo lường. - Những câu xác định cần phải dựa trên những ý niệm cơ bản mà tính chất đúng sai của nó phải chắc chắn, không phụ thuộc vào quan niệm riêng của từng người. 18
  19. - Lựa chọn câu xác định nào mà một người có khả năng trung bình không thể nhận ra ngay là đúng hay sai nếu không có một chút suy nghĩ nhất định. - Mỗi câu trắc nghiệm chỉ nên diễn tả một ý nghĩa nhất định, tránh những câu phức tạp, bao gồm nhiều chi tiết. - Không nên chép nguyên văn những câu trích trong sách giáo khoa, vì làm như vậy chỉ khuyến khích học sinh học thuộc lòng một cách máy móc. - Tránh dùng những từ như “tất cả”, “không bao giờ”, “không một ai”, “không thể nào”... Những câu chứa các chữ ấy thường là những câu sai. - Tránh lập những câu phủ định. - Tránh số lượng câu đúng và câu sai bằng nhau trong một bài trắc nghiệm, vị trí các đúng cần xếp đặt một cách ngẫu nhiên. 5.Câu nhiều lựa chọn: Đưa ra một nhận định và 4-5 phương án trả lời, thí sinh phải chọn để đánh dấu một phương án đúng hoặc phương án tốt nhất.( Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục) Khi soạn những câu lựa chọn, ta cần nhớ là những câu ấy đặt ra là để phân biệt học sinh giỏi với học sinh kém, học sinh hiểu bài với học sinh không hiểu bài, chứ không phải là những cái bẫy để rình những học sinh vô ý. Loại trắc nghiệm này rất thông dụng và có khả năng áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, việc soạn thảo loại này rất công phu, đòi hỏi nhiều suy nghĩ và thận trọng. Đồng thời chú ý tránh những nhược điểm sau đây của nó: - Câu hỏi bỏ lửng không đặt ra vấn đề hay một câu hỏi rõ rệt làm cơ sở cho sự lựa chọn. - Những mồi nhử sai một cách rõ rệt hay quá ngây ngô, không thể hấp dẫn được ai, ngoài những học sinh vô ý 19
  20. - Câu trắc nghiệm có 2 câu lựa chọn đúng (hoặc không có câu nào đúng cả) trong khi ta dự định chỉ có một câu đúng mà thôi. - Những câu lựa chọn gồm nhiều chi tiết phức tạp. - Phần gốc qúa rườm rà, gồm nhiều chi tiết không cần thiết. - Phần gốc và mỗi câu lựa chọn không phù hợp với nhau về mặt ngữ pháp. - Trong khi soạn những câu lựa chọn, vô tình tiết lộ câu trả lời dự định cho là đúng qua lối hành văn, dùng từ, chiều dài của câu, cách sắp đặt câu lựa chọn... *Các chỉ số đánh giá câu hỏi trắc nghiệm khách quan: Có 4 chỉ số đánh giá: độ tin cậy, độ giá trị, chỉ số khó và chỉ số phân biệt. 1.Độ tin cậy: - Độ tin cậy là nói lên độ chính xác của phép đo, chỉ sự ổn định về phép đo. - Việc phân tích độ tin cậy là tìm xem học sinh có được đánh giá đúng hay gần đúng với năng lực của họ không, hay kết quả của học sinh có được các giáo viên đánh giá thống nhất không. 2.Độ giá trị: - Mục đích thiết thực của việc phân tích tính giá trị là tìm xem bộ câu hỏi có đánh giá được các mục tiêu học tập không. 3.Độ khó: Công thức tính độ khó (K): T+D K = x 100 20