Vì sao lào cai lại có đất hiếm

BNEWS Mỏ đất hiếm Bến Đền, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai được bổ sung vào Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng đá quý, đất hiếm và urani giai đoạn đến 2015, có xét đến năm 2025.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đồng ý bổ sung mỏ đất hiếm Bến Đền, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai vào Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng đá quý, đất hiếm và urani giai đoạn đến 2015, có xét đến năm 2025 và cấp phép thăm dò không thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản.

Phó Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định hồ sơ, cấp giấy phép thăm dò quặng đất hiếm khu vực trên theo quy định hiện hành; việc cấp phép khai thác chỉ được xem xét sau khi có kết quả thăm dò và gắn với chế biến sâu, đáp ứng các yêu cầu về môi trường.

Về việc phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng nhóm khoáng chất nguyên liệu đá hoa trắng, caolanh, felspat và magnezit giai đoạn đến năm 2025, có xét đến năm 2035, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Công Thương làm việc với Bộ Xây dựng để xem xét cụ thể việc quy hoạch các loại kháng sản đá hoa trắng, caolanh, felspat theo quy định pháp luật về khoáng sản và thuận lợi trong quản lý quy hoạch khoáng sản, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

BNEWS Thời gian qua, tại tỉnh Lào Cai có khá nhiều thông tin khác nhau về hoạt động thăm dò đất hiếm của Công ty Cổ phần Công nghiệp Khánh An trên địa bàn xã Sơn Hải, huyện Bảo Thắng.

Tháng 8/2018, Công ty đã phối hợp với tư vấn thi công là Viện Khoa học trái đất và Môi trường và đơn vị giám sát là Liên đoàn Địa chất Tây Bắc tổ chức thực hiện đề án. Đến nay, doanh nghiệp này đã thỏa thuận thuê của một số hộ gia đình, cá nhân diện tích 81.439 m2 để thăm dò, đặt hệ thống bể, hệ thống đường ống, trạm bơm… Khối lượng nước được sử dụng trung bình khoảng 80 m3/ngày đêm, nguồn nước được lấy từ suối Trát trên địa bàn. Ông Vũ Đình Thủy, Trưởng phòng Khoáng sản, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai cho biết thêm, trước phản ánh của người dân xã Sơn Hà, huyện Bảo Thắng, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh đã có văn bản xin ý kiến Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Ngày 12/9/2019, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã có văn bản trả lời số 2378/ĐCKS-CSPC, trong đó nêu rõ: “Đây là giai đoạn thăm dò, do đó công tác bảo vệ môi trường và bảo vệ khoáng sản trong quá trình thăm dò là một hạng mục của Đề án và phải được Công ty thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, việc thi công Đề án thăm dò của Công ty chịu sự giám sát trực tiếp của Liên đoàn Địa chất Tây Bắc”. Ngày 28/8/2019, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai đã phối hợp xã Sơn Hải, huyện Bảo Thắng, kiểm tra thực tế hoạt động thăm dò đất hiếm của doanh nghiệp Khánh An, trong đó lấy một số mẫu nước để phân tích. Kết quả kiểm tra, phân tích cho thấy Công ty Cổ phần Công nghiệp Khánh An đã thực hiện thăm dò phù hợp với phương án, đề cương thăm dò theo ý kiến tham gia của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Người Phát ngôn của UBND tỉnh Lào Cai cũng khẳng định, Công ty Cổ phần Công nghiệp Khánh An đang tiến hành hoạt động thăm dò đất hiếm cơ bản tuân thủ các quy định của pháp luật, chưa phát hiện ảnh hưởng đến môi trường. Hóa chất sử dụng và phân bón [công thức hóa học là NH4S04, NH4CL] được bảo quản che bạt không làm ảnh hưởng đến môi trường [phủ bạt kín tránh nắng, mưa tác động làm phân hủy], chưa phát hiện việc khai thác trong quá trình thăm dò. Cơ quan chức năng và chính quyền địa phương đã yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện đăng ký tạm trú, tạm vắng đối với số lượng người làm việc theo đúng quy định, nhất là người nước ngoài phải có giấy phép của cơ quan chức năng. Ngoài ra, qua kiểm tra, cơ quan chức năng cũng phát hiện doanh nghiệp Khánh An chưa có giấy phép khai thác tài nguyên nước theo quy định. Hiện nay, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai đang tiếp tục kiểm tra, theo dõi thường xuyên hoạt động thăm dò của Công ty Cổ phần Công nghiệp Khánh An trên địa bàn huyện Bảo Thắng; yêu cầu Công ty thực hiện đảm bảo đúng nội dung đề án, đề cương thăm dò đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và đảm bảo môi trường trong khu vực.

Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai cũng đã có văn bản chỉ đạo Sở Tài Nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan và địa phương tiếp tục theo dõi hoạt động thăm dò của Công ty Cổ phần Công nghiệp Khánh An trên địa bàn huyện Bảo Thắng để kịp thời phát hiện và xử lý nếu có sai phạm./.

[Ảnh chỉ có tính minh họa: K GỬIH/TTXVN_]

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đồng ý bổ sung mỏ đất hiếm Bến Đền, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai vào Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng đá quý, đất hiếm và urani giai đoạn đến 2015, có xét đến năm 2025 và cấp phép thăm dò không thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Phó Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định hồ sơ, cấp giấy phép thăm dò quặng đất hiếm khu vực trên theo quy định hiện hành; việc cấp phép khai thác chỉ được xem xét sau khi có kết quả thăm dò và gắn với chế biến sâu, đáp ứng các yêu cầu về môi trường. Về việc phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng nhóm khoáng chất nguyên liệu đá hoa trắng, caolanh, felspat và magnezit giai đoạn đến năm 2025, có xét đến năm 2035, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Công Thương làm việc với Bộ Xây dựng để xem xét cụ thể việc quy hoạch các loại kháng sản đá hoa trắng, caolanh, felspat theo quy định pháp luật về khoáng sản và thuận lợi trong quản lý quy hoạch khoáng sản, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định./.

[TTXVN/Vietnam+]

[TN&MT] - Chiều 13/10, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên chủ trì cuộc họp Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia đối với mỏ đất hiếm Bến Đền, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên phát biểu tại cuộc họp

Báo cáo kết quả thăm dò mỏ đất hiếm Bến Đền, ông Nguyễn Đắc Đồng - Viện trưởng Viện Khoa học Trái đất và Môi trường, đơn vị tư vấn cho biết: Đề án thăm dò mỏ đất hiếm Bến Đền nhằm xác định thành phần khoáng vật, hàm lượng các thành phần có ích, có hại trong khu vực nghiên cứu mẫu công nghệ; xác lập sơ đồ công nghệ và các chỉ tiêu kỹ thuật hợp lý trên khu vực thí nghiệm. Đề án cũng đặt mục tiêu xác định các thông số kỹ thuật chủ yếu như: hiệu suất thu hồi đất hiếm; hàm lượng tinh quặng đất hiếm và thành phần có ích khác; thành phần khoáng vật, hàm lượng các thành phần có ích, có hại trong diện tích nghiên cứu mẫu công nghệ sau khi đã thu hồi đất hiếm. Đồng thời, đề xuất sơ đồ công nghệ ứng dụng cho sản xuất công nghiệp dựa trên các kết quả thí nghiệm. Quá trình triển khai nghiên cứu mẫu công nghệ trên khu vực diện tích 3,9 ha đã được thực hiện với các điều kiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Kết quả thu được khoảng 800 tấn sản phẩm đất hiếm ở dạng muối oxalat, với tổng hàm lượng oxit đất hiếm là 200 tấn. Hiệu suất thu hồi tổng đất hiếm đạt 51%, đối với đất hiếm hóa trị ba đạt đến 85% và độ sạch sản phẩm đạt 95%.

"Quá trình thực hiện mẫu công nghệ cũng cho thấy công nghệ này có thể áp dụng phù hợp với mỏ đất hiếm hấp phụ ion, ít tác động đến môi trường [đất, nước, không khí] so với các công nghệ khai thác khác. Ngoài ra, tiềm năng và hiệu quả kinh tế của công nghệ này với thời gian thực hiện ngắn hơn nhiều so với các công nghệ khác", ông Nguyễn Đắc Đồng nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Đắc Đồng - Viện trưởng Viện Khoa học Trái đất và Môi trường báo cáo tại cuộc họp

Ông Đồng cho biết, để chuẩn bị cho đợt khai thác tiếp theo, dung dịch vẫn được chứa trong các bể cũ, đồng thời, tiến hành khai thác ở diện tích bên cạnh, xây dựng thêm hệ thống bể chứa và đi lại đường ống ở chỗ khai thác mới. Ngoài ra, bơm toàn bộ dung dịch hòa tách lên bể điều lượng trên cao và sau đó hòa tách như ban đầu, nước hòa tách sẽ được dẫn về hệ thống bể mới. Nếu trong trường hợp dừng khai thác, dung dịch hòa tách cần được cô lấy lại muối, nước thải có hàm lượng muối nhỏ xử lý vi sinh thải ra môi trường. Tuy nhiên, vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa quá trình sau khi khai thác và hoàn nguyên lại địa hình khu vực.

Ông Đỗ Văn Định thuộc Văn phòng Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia cho biết: Đơn vị tư vấn đã lựa chọn phương pháp khối địa chất và phần mềm SURFER để tính trữ lượng và sử dụng phần mềm SURPAC để kiểm chứng. Về cơ bản, phương pháp lựa chọn là phù hợp với đặc điểm hình thái, kích thước thân quặng và mạng lưới thăm dò đã thi công, kết quả tính trữ lượng cấp 121+122 bảo đảm độ tin cậy.

Cụ thể, kết quả đã khoanh nối được 1 khối cấp 121 và 15 khối trữ lượng cấp 122. Tổng trữ lượng các oxyt đất hiếm trừ xeri là 42.706 tấn. Tính tài nguyên xeri cấp 221+222 là 26.281 tấn. Tài nguyên TR2O3 cấp 333 là 24.452 tấn. Kết quả tính trữ lượng đất hiếm cấp 121, 122 và tài nguyên xeri [CeO2] cấp 221, 222 trong phạm vi diện tích thăm dò đã tính có độ tin cậy phù hợp với tài liệu thăm dò, khai thác thử và cấp trữ lượng, tài nguyên tương ứng.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên - Phó Chủ tịch Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia nhận định, phương pháp tính trữ lượng theo đơn vị tư vấn nêu là hợp lý. Tuy vậy, đơn vị cần xem xét kỹ việc sử dụng công nghệ hòa tách, đảm bảo an toàn cho bể lắng lọc cũng như các giải pháp sau này nếu được chọn công nghệ hòa tách, đồng thời, lưu ý tính toán lại để có trữ lượng đầy đủ, đặc biệt với xeri.

Video liên quan

Chủ Đề