Nghị quyết hướng dẫn điều 266 bộ luật hình sự năm 2024
"Vận chuyển trái phép chất ma túy" là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào Show Dự thảo Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 247, 248, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 255, 256, 257, 258 và 259 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (Bộ luật Hình sự) về các tội phạm về ma túy. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249)Theo dự thảo, "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, thùng xăng xe, trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách,…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này. Người nào đã bị kết án về tội tàng trữ, sản xuất, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc tội chiếm đoạt chất ma túy chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục tàng trữ một trong các chất ma túy có khối lượng, thể tích chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp chất ma túy có khối lượng, thể tích đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Người có hành vi mua heroine mang về nhà để sử dụng một phần và cất giữ một phần (1,3 gam) sau đó lại có hành vi mua heroine mang về nhà để sử dụng dần (04 gam) thì bị bắt giữ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tình tiết định khung quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, với tổng khối lượng là 5,3 gam heroine. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250)"Vận chuyển trái phép chất ma túy" quy định tại Điều 250 của Bộ luật Hình sự là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách,…) mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy khác. Cũng được coi là vận chuyển trái phép chất ma túy đối với người thực hiện kinh doanh dịch vụ vận chuyển nhưng vi phạm quy định về điều cấm trong hoạt động vận chuyển dẫn đến người phạm tội vận chuyển được chất ma túy. Trường hợp cá nhân được giao nhiệm vụ vận chuyển hoặc công việc khác liên quan đến dịch vụ vận chuyển mà thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ bắt buộc phải thực hiện để cho việc vận chuyển trái phép chất ma túy được thực hiện thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 250 của Bộ luật Hình sự mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm (ví dụ: tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 của Bộ luật Hình sự, …). Người nào đã bị kết án về tội tàng trữ, sản xuất, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc tội chiếm đoạt chất ma túy chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục vận chuyển một trong các chất ma túy có khối lượng, thể tích chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp chất ma túy có khối lượng, thể tích đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 250 của Bộ luật Hình sự. Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252)"Chiếm đoạt chất ma túy" quy định tại Điều 252 của Bộ luật Hình sự là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của người khác. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt chất ma túy cần phân biệt:
Tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu của luật hình sự. Nội dung của khái niệm tội phạm đã “thể hiện một cách rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị xã hội cũng như những đặc điểm pháp lí của luật hình sự”. (1) Đồng thời nó còn “được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lí khác…”. (2) Ngày 27/11/2015 Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự năm (BLHS) 2015 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015. BLHS năm 2015 gồm 3 Phần, 26 chương, 426 Điều (so với Bộ luật hình sự năm 1999 gồm 2 Phần, 24 Chương, 344 Điều) đánh dấu một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều 8 BLHS nước CHXHCNVN năm 2015 quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Theo quy định trên của BLHS thì về cơ bản, khái niệm tội phạm vẫn giữ tinh thần của BLHS năm 1999 và chỉ sửa đổi mang tính khái quát cao hơn về quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. - Phân loại tội phạm: (Điều 9) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây: 1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; 2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù; 3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù; 4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 9 được tách ra từ Điều 8 của BLHS 1999. Theo đó, tội phạm được phân loại trên cơ sở của tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tội phạm vẫn được phân thành 4 loại là: tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu hình phạt, loại hình phạt là tiêu chí để phân định loại tội phạm. Chẳng hạn ít nghiêm trọng thì mức hình phạt tù đến 03 năm, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ; đặc biệt nghiêm trọng thì mức hình phạt tù từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Điểm mới của điều luật này là quy định rõ tội nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của khung hình phạt trong khoảng từ 03 năm đến 07 năm tù, tội rất nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất trong khoảng từ trên 07 năm đến 15 năm, tội có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 15 năm tù là tội đặc biệt nghiêm trọng. - Cố ý phạm tội và vô ý phạm tội: + Cố ý phạm tội (Điều 10) Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; 2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. + Vô ý phạm tội (Điều 11) Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. 2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Như vậy Cố ý phạm tội và vô ý phạm tội vẫn được giữ nguyên, không có sửa đổi nào. - Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm và Bộ luật này có quy định khác”. BLHS 1999 chỉ quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà không có quy định loại trừ một số tội phạm mà đối tượng này không phải chịu trách nhiệm hình sự là một sai sót giữa quy định của Phần chung và Phần tội phạm của BLHS. Phần các tội phạm của BLHS có một số tội mà người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Tội giao cấu với người chưa thành niên; tội dâm ô với người chưa thành niên; tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; tội mua dâm người chưa thành niên. (BLHS năm 2015 bổ sung thêm tội Khiêu dâm trẻ em cũng là tội mà người chưa thành niên không phải chịu trách nhiệm hình sự). Để khắc phục sai sót này, Khoản 1 của Điều 12 đã bổ sung “trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. BLHS năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này đã mở quá rộng phạm vi xử lý đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi, Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 đã thu hẹp phạm vi xử lý hình sự với đối tượng này. Cụ thể: 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
Hồ Nguyễn Quân - Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4 _______________________ (1) Xem: GS.TSKH. Đào Trí úc (Chủ biên), “Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tr. 157. (2) Xem: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà, “Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1991, tr. 9, 34. |