Phù lưu chanh ở đâu

In trong tập Mây đầu ô, Quang Dũng

Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Quang Dũng. Tác phẩm được giới thiệu đến các bạn học sinh trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Đây cũng là một trong những tác phẩm vô cùng quan trọng trong kì thi THPT Quốc Gia sắp tới.

Download.vn sẽ cung cấp tài liệu giới thiệu đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến. Mời bạn đọc tham khảo dưới đây.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

I. Đôi nét về nhà thơ Quang Dũng

- Quang Dũng (1921 - 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm.

- Quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

- Ông học đến bậc Trung học ở Hà Nội. Đến sau Cách mạng tháng Tám, Quang Dung tham gia quân đội. Từ năm 1954, ông là biên tập viên của Nhà xuất bản Văn học.

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, soạn nhạc…

- Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Một số tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ, 1986), Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988)...

II. Giới thiệu về bài thơ Tây Tiến

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947:

  • Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ của Việt Nam.
  • Địa bàn hoạt động rộng: Hòa Bình, Sơn La, miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nứa (Lào).
  • Xuất thân: chủ yếu là người Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên.

- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã sáng tác bài thơ này tại Phù Lưu Chanh (một làng cũ thuộc tỉnh Hà Đông Cũ)

- Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, lấy tên là “Tây Tiến” và in trong tập “Mây đầu ô”

2. Bố cục

  • Phần 1. 14 câu đầu: Nỗi nhớ của Quang Dũng về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và Tây Tiến anh hùng.
  • Phần 2. 8 câu tiếp theo: Đêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo.
  • Phần 3. 8 câu tiếp theo: Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hi sinh mất mát.
  • Phần 4. Còn lại: Khái quát lại những ngày Tây Tiến, những kỉ niệm không thể nào phai.

3. Thể thơ

Bài thơ Tây Tiến được viết theo thể thơ bảy chữ.

4. Ý nghĩa nhan đề

- “Tây Tiến” là tên gọi của một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã sáng tác bài thơ này tại Phù Lưu Chanh (một làng cũ thuộc tỉnh Hà Đông Cũ).

- Ban đầu nhà thơ đặt tên cho nhan đề của mình là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó nhà thơ đổi tên thành “Tây Tiến”, in trong tập Mây đầu ô (1986). Việc đổi tên bài thơ là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Nếu đặt tên là “Nhớ Tây Tiến” cho thấy cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nhưng lại không nhấn mạnh được hình tượng trung tâm của bài thơ. Đồng thời khi đọc tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc được nỗi nhớ, việc để chữ “nhớ” ở nhan đề không cần thiết. Mặt khác nhan đề này gợi ra sự ủy mị, mềm mại không phù hợp với hình tượng đoàn quân Tây Tiến mạnh mẽ, hào hùng.

- Khi lược bỏ chữ “nhớ” giúp cho nhan đề trở nên cô đọng hơn. Bởi bản thân hai chữ “Tây Tiến” cũng gợi ra nỗi nhớ. Nhan đề “Tây Tiến” cũng tạo ra âm điệu của nhan đề chắc khỏe, rắn rỏi đem đến cho ta hình dung về miền Tây rộng lớn, thẳm thăm, hùng vị. Cũng như vẻ đẹp của đoàn quân Tây Tiến hào hùng. Mặt khác, nhan đề Tây Tiến cũng giúp cho bài thơ giống như một khúc ca, Tiến Quân Ca, Nam Tiến và ở đây là Tây Tiến.

Xem thêm  Ý nghĩa nhan đề Tây Tiến

5. Nội dung

Bài thơ đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.

6. Nghệ thuật

  • Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn
  • Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa…
  • Ngôn ngữ phong phú, linh hoạt…

Cập nhật: 07/10/2021

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

  • Nóng

  • Mới

  • VIDEO

  • CHỦ ĐỀ

TAG

PHÙ LƯU CHANH

Tây Tiến là một bài thơ của nhà thơ Quang Dũng, được in trong tập Mây đầu ô (1956). Bài thơ này đã được đưa vào giảng dạy trong giáo dục ở Việt Nam ngày nay.

Phù lưu chanh ở đâu
Tây TiếnThơ bảy chữThông tin tác phẩmTên gốcNhớ Tây TiếnTác giảQuang DũngQuốc gia Việt NamNgôn ngữTiếng ViệtThể loạiThơ bảy chữ

Bài thơ này đã xuất hiện trong đề thi đợt 2 môn Ngữ Văn, kì thi tốt nghiệp Trung học Phổ thông năm 2021.

Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên (như nhà thơ Quang Dũng). Chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng "họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm."[1]

Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc quận Hà Đông, nay thuộc Hà Nội), ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến, mà sau này ông cho đổi tên là Tây Tiến.

 

Sông Mã, đoạn chảy qua thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

Bài thơ nói lên nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, xa ngái nhưng thơ mộng, trữ tình. Đó còn là nỗi nhớ con người: những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, giàu lòng yêu nước trong đoàn binh Tây Tiến đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.

Tác giả đã chia bài thơ làm 4 đoạn tương ứng với những hình ảnh và ý tưởng chính:

  • Bức tranh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mỹ lệ (tương ứng với đoạn 1, tức từ câu 1 cho đến câu 14).
  • Kỉ niệm đêm liên hoan của người lính Tây Tiến tại Châu Mộc
  • Hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và đi sâu vào những kỉ niệm của tình quân dân thắm thiết (tương ứng với đoạn 3 tức từ câu 23 cho đến câu 30).
  • Lời hẹn ước và sự khẳng định lại nỗi nhớ (4 câu cuối).

Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn:

Sông Mã[2] xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Sài Khao[3] sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát[3] hoa về trong đêm hơi. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai Pha Luông[3] mưa xa khơi. Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm Mường Hịch[3] cọp trêu người.Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu[3] mùa em thơm nếp xôi.Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu[4] nàng e ấp, Nhạc về Viên Chăn[5] xây hồn thơ.Người đi Châu Mộc[3] chiều sương ấy, Có thấy hồn lau nẻo bến bờ? Có nhớ dáng người trên độc mộc[6], Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc[7], Quân xanh màu lá[8] dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu[9], anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành[10].Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về Sầm Nứa[11] chẳng về xuôi.
  • Sách Ngữ văn 12 (căn bản):

Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.

  • Sách Những bài văn hay:

Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài, người viết không che giấu những gian khổ, hy sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều, nó được thể hiện bằng một ngòi bút đậm chất lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng (bi tráng).[12]

  • GS Hà Minh Đức:

Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm. Nhà thơ Xuân Diệu có lần đã cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng.[13]

  • Sách Tuyển chọn và giới thiệu...môn Ngữ văn:[14]

Có vài câu thơ trước đây như: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá...và đặc biệt nhất ở câu: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm, thường bị phê phán là miêu tả người lính với những nét không bình thường, xa lạ (lãng mạn tiểu tư sản)...thực ra, Quang Dũng muốn nói lên nỗi gian khổ (nhưng vẫn dữ oai hùm), bộc lộ rõ bản chất của những thanh niên Hà Nội với phong cách tài hoa lãng mạn và những điều ấy, không hề làm hạn chế hoặc giảm đi nhiệt tình của tuổi trẻ khi đi vào cuộc sống chiến đấu nhiều gian khổ...

Hay ở câu Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Quang Dũng cũng không ngần ngại nói đến cái chết ở nơi chiến trường, nhưng ngay sau đó là câu: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", đã khẳng định một phương châm sống, một triết lý sống của tuổi trẻ.

Nói khác hơn, nhà thơ nói đến cái "dãi dầu", cái bệnh, cái chết...nhưng không hề gây cảm giác bi lụy, tang thương...

Về mặt nghệ thuật, nhà thơ Văn Giá, đã nêu mấy ý, đại để như sau:

  • Bài thơ được làm theo thể thất ngôn trường thiên vốn có gốc gác từ thơ Đường. Thể thơ này ở dạng phổ biến nhất là giữ nhịp 4/3 hoặc 2/2/3 đi suốt toàn bài. Nhà thơ Quang Dũng không có cải cách gì đáng kể ở cấu trúc nhịp điệu, nhưng về mặt phối âm thanh, ông có những sáng tạo khá thành công. Điều này thể hiện rõ nhất ở các câu thơ hoặc toàn thanh bằng, hoặc thanh bằng chủ đạo: Mường Lát hoa về trong đêm hơi, Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi, Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ, Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
  • Ở một khổ thơ có những tính từ có tính tạo hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, nghĩa là khổ thơ đang vẽ ra cái thế hiểm trở của đèo dốc, của đường rừng, bỗng đột ngột chuyển sang cảm giác nhẹ nhõm, đưa người đọc vào một hình dung đẹp: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Những câu thơ tài hoa trong bài, mà câu thơ trên chỉ là một ví dụ, không phải là kết quả do gọt đẽo mà là sản phẩm hoàn toàn tự nhiên của cảm xúc, của nỗi nhớ mãnh liệt...
  • Trong Tây Tiến có một chữ "về" rất đáng chú ý: hoa về, nhạc về, về đất, và đặc biệt ở câu thơ cuối: Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Chữ "về" này dẫu là phụ từ hay động từ, cũng đều gợi lên hướng đến một nơi có khả năng kết nạp, bao dung, lưu giữ; tức là những nơi mà nhà thơ suốt đời mắc nợ, suốt đời để nhớ...Bởi thế, ban đầu bài thơ có cái tên khá rõ ràng là Nhớ Tây Tiến, hẳn nhà thơ viết ra cốt mong sao cho vợi, cho hả "cái nhớ" ấy. Chẳng biết có đỡ chút nào không, chỉ biết nhờ nỗi nhớ khôn cùng kia, thi sĩ đã để lại một bài thơ xuất sắc.[15]

  1. ^ Nhận định này chép theo Ngữ văn 12 tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008, tr. 87.
  2. ^ Sông Mã, con sông chảy qua Sơn La, Hoà Bình và Thanh Hoá.
  3. ^ a b c d e f Tên các địa phương trong địa bàn hành quân của đoàn Tây Tiến.
  4. ^ Điệu nhạc của dân miền núi.
  5. ^ Viêng Chăn, thủ đô nước Lào.
  6. ^ Thuyền dài và hẹp làm bằng thân một cây gỗ to, khoét thành khoang thuyền.
  7. ^ Chiến sĩ Tây Tiến vì sốt rét nhiều đến nỗi rụng hết tóc, cũng có người cạo trọc đầu để thuận tiện trong chiến đấu.
  8. ^ Nói sốt rét nặng đến nỗi xanh như lá (cũng có ý nói chiến sĩ Tây Tiến nguỵ trang bằng lá cây xanh khi đánh giặc).
  9. ^ Theo Trần Lê Văn thì đồng bào thấy các chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếu để khoác cho đỡ rét (thay cho áo bào). Khi chết đồng đội dùng chiếu đó để liệm vì không có quan tài.
  10. ^ Tích xưa Kinh Kha một mình vượt sông Dịch, đi giết bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng. Cuộc hành thích không thành công, Kinh Kha bị chết tại triều đình nhà Tần. Ý câu thơ muốn khẳng định tính chất bi hùng trong sự hi sinh của chiến sĩ Tây Tiến.
  11. ^ Xamneua, tỉnh Sầm Nứa của nước Lào.
  12. ^ GS. Nguyễn Đăng Mạnh & PTS. Trần Đăng Xuyên, Những bài văn hay, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1993, 110
  13. ^ Tác phẩm văn học, bình giảng và phân tích. Sách do GS Hà Minh Đức chủ biên, Nhà xuất bản Văn học, 2006, tr.67-68
  14. ^ Tóm lược theo Tuyển chọn và giới thiệu đề thi đại học & cao đẳng môn Ngữ văn. Sách của nhóm tác giả Lê Hằng, Nguyễn Thu Hòa, Trần Hạnh Mai (Nhà xuất bản Giáo dục, 2007, tr. 230).
  15. ^ Bình văn, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997, tr. 75

  • Nhớ về Tây Tiến Lưu trữ 2009-01-20 tại Wayback Machine, Báo Văn nghệ Quân đội. Lời kể của nhà thơ Quang Dũng.
  • Những câu chuyện phía sau bài thơ "Tây tiến"
  • Những câu chuyện phía sau bài thơ Lưu trữ 2009-07-22 tại Wayback Machine

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tây_Tiến&oldid=67084739”