Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn

Độc quyền bán, độc quyền thị thị trường, nhà độc quyền (monopoly, monopolist) là loại cấu trúc thị trường được đặc trưng bởi:

Một người bán và nhiều người mua, tức thị trường chỉ có một nhà cung cấp bán hàng cho rất nhiều người mua nhỏ, hoạt động độc lập với nhau;

Không có sản phẩm thay thế, nghĩa là không tồn tại những sản phẩm thay thế gần gũi cho sản phẩm của nhà độc quyền (hệ số co giãn chéo của nhu cầu bằng 0); và

Các doanh nghiệp khác không thể gia nhập thị trường, tức hàng rào gia nhập nghiêm trọng đến mức không có doanh nghiệp mới nào có thể gia nhập thị trường.

Trong mô hình tĩnh về thị trường độc quyền, nhà độc quyền ở vào vị thế có thể quyết định giá thị trường. Tuy nhiên, khác với nhà sản xuất cạnh tranh hoàn hảo, nhà độc quyền có đường doanh thu cận biên và. bình quân không giống nhau. Nhà độc quyền đứng trước đường cầu dốc xuống (D trong hình 26a) và vì vậy khi bán thêm sản lượng, anh ta phải bán vơi giá thấp hơn giá mà người mua sẵn sàng trả cho các đơn vị hàng hoá sản xuất trước đó. Nói cách khác, khi nhà độc quyền tăng sản lượng, nó phải giảm đơn giá sản phẩm. Cũng giống như các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo, mục tiêu của nhà độc quyền là tối đa hoá lợi nhuận và anh ta có đủ thông tin về chi phí và nhu cầu. Vì vậy, nhà độc quyền quyết định sản xuất một kết hợp sản lượng - giá cả làm cho chi phí cận biên và doanh thu cận biên bằng nhau. Hình 26b chỉ ra trạng thái cân bằng ngắn hạn của nhà độc quyền. Nhà độc quyền cung ứng Q, tại mức giá Pt. Tại mức giá cân bằng, nhà độc quyền thu được lợi nhuận trên mức bình thường. Khác với tình huống cạnh tranh hoàn hảo, trong đó có sự gia nhập không bị cản trở, hàng rào gia nhập trong thị trường độc quyền được giả định là lớn đến mức thị trường hoàn toàn đóng cửa đối với các nhà cung cấp mới. Các nguồn tực sản xuất không có cơ hội chuyển vào thị trường này và hậu quả là nhà độc quyền tiếp tục thu được lợi nhuận trên mức bình thường trong dài hạn cho đến khi có những thay đổi cơ bản trong điều kiện cung cầu. Lý thuyết về thị trường dự báo rằng, với điều kiện chi phí và nhu cầu giống hệt nhau, thị trường độc quyền dẫn tới giá cao hơn và sản lượng thấp hơn so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

Trong mô hình tĩnh về thị trường độc quyền, giả định cơ bản là chi phí sản xuất tăng khi sản lượng tương đối thấp. Hàm ý của giả định này là các doanh nghiệp đạt tới trạng thái cân bằng ở quy mô hoạt động kinh doanh tương đối nhỏ so với thị trường. Tuy nhiên, bây giờ chúng ta giả định quá trình sản xuất trong một ngành được đặc trưng bời kinh tế quy mô đáng kể. Nghĩa là, các doanh nghiệp cá biệt có thể tiếp tục giảm đơn phí (chi phí đơn vị) bằng cách sản xuất lượng hàng lớn hơn. Chúng ta có thể minh hoạ điều này bằng cách giả định ràng một ngành cạnh tranh hoàn hảo bị nhà độc quyền thôn tính. Rõ ràng trong hoàn cành như vậy, chi phí không bị ảnh hưởng bởi quy mô kinh doanh. Hình 26c minh họa cho tình huống trong đó việc cắt giảm đơn phí do kinh tế quy mô (thu được nhờ việc chỉ có một doanh nghiệp duy nhất) tạo điều kiện làm tăng sản lượng lên mức cao hơn và giảm giá xuống mức thấp hơn thị trường cạnh tranh hoàn hảo ban đầu. Sự cắt giảm chi phí nhờ độc quyền hoá đẩy đường chi phí cận biên của nhà độc quyền (MCm) dịch chuyển sang phải đường cung ban đầu (Spr), cho nên sản lượng được sản xuất ra nhiều hơn íQn,) tại mức giá thấp hơn (Pj. Chúng ta tiếp tục giả định chi phí cận biên tăng trong một khoảng biến thiên nhất định của sản lượng. Theo thời gian, kỳ vọng này phát sinh từ quan điểm cho rằng tại một quy mô nào đó, kinh tế quy mô bị vắt kiệt và tính phi kinh tế quy mô bắt đầu phát huy tác dụng. Tính phi kinh tế quy mô thường gắn với những khó khăn về quản lý và năng lực điều hành tồn tại ở các tổ chức lớn, phức tạp. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy đường chi phí bình quân dài hạn (và đường MC) của nhiều ngành sử dụng nhiều tư bản có hình chữ L. Trong các ngành này, chính tổng mức cầu và tỷ phần của mỗi doanh nghiệp, chứ không phải những cân nhắc về chi phí hạn chế quy mô của nó. Do vậy, nó có thể tăng trưởng và đạt tới một mức sản lượng tối đa, sau đó không thể mở rộng sản xuất thêm nữa nếu không muốn giảm lợi nhuận hoặc chịu thua lỗ. Nhưng trong khi làm như vậy, nó có thể lớn đến mức có được sức mạnh để quyết định giá cả thị trường. Người ta không thể phủ nhận rằng nhà độc quyền có thể tiếp tục tăng sản lượng và giảm giá nếu nó không tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. Song tình huống này không phải là kết quả của sự quay trở lại cấu trúc thị ưuờng cạnh tranh hoàn hảo. Điều xảy ra ở đây không phải là trong khi tìm kiếm địa vị tốt nhất để thu lợi nhuận, doanh nghiệp từ bỏ địa vị là một đối thủ cạnh tranh nhỏ nhoi. Nó không nhất thiết phải làm như vậy thông qua nỗ lực có hệ thống để chi phối thị trường. Ngược lại, chính điều kiện chi phí của thị trường đã cản trở sự tăng trưởng này. Trong những ngành như vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể sống sót được. Hơn nữa, nếu đơn phí thấp hơn khi sản lượng cao hơn, thì doanh nghiệp lớn là một thực thể hiệu quả hơn về mặt kỹ thuật.

Như vậy, khi tồn tại hiệu quả quy mô ở mức đáng kể, thì sự cạnh tranh nguyên tử (tức của các doanh nghiệp nhỏ) trở nên không khả thi về mặt kỹ thuật và không đáng mong muốn nếu xét trên giác độ hiệu quả. Khi chứng minh cho tính tối ưu của cạnh tranh, người ta đã ngầm phù định phương tiện phức tạp này.

Phương pháp phân tích phát triển trên đây cũng bỏ qua các phương diện rộng của hệ thống thị trường. Theo một số nhà kinh tế nổi tiếng (ví dụ Schempeter), các trường hợp cải thiện mạnh mẽ phúc lợi của người tiêu dùng phần lớn đều là kết quả của sự đổi mới công nghệ. Chính sự tăng trưởng của các nguồn lực, quá trình phát triển kỹ thuật và sản phẩm mới trong dài hạn, chứ không phải những điều chỉnh ngắn hạn, tạo ra mức sản lượng tối đa thu được từ một đầu vào cố định cho trước. Như vậy, các yếu tố của cạnh tranh độc quyền đóng vai trò là tiền đề và người bảo vệ cho những nỗ lực đổi mới, canh tân. Các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo chắc chắn có động cơ sử dụng phương pháp, kỹ thuật sản xuất hiện có một cách có hiệu quả nhất, vì đây là điều kiện cần thiết cho sự sống còn của họ. Nhưng sự bất lực của họ trong việc đạt được lợi nhuận trên mức bình thường vừa hạn chế nguồn lực, vừa hạn chế động cơ phát triển công nghệ mới của họ. Ngược lại, nhà độc quyền thuần tuý kiếm được lợi nhuận trên mức bình thường có nhiều nguồn tài lực hơn để thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, nhưng có động cơ yếu trong việc đổi mới do không có sự cạnh tranh thực sự. Song tiến bộ công nghệ là một phương tiện để cắt giảm chi phí và tăng lợi nhuận dài hạn do có hàng rào cản trở sự gia nhập thị trường. Hơn nữa, bản thân sự hơn hẳn VC kỹ thuật cũng là một công cụ để nhà độc quyền chống lại sự gia nhập. Vì vậy, nhà độc quyền phải dựa vào tiến bộ công nghệ để duy trì địa vị độc tôn của mình.

Schumpeter là một trong những học giả biện hộ mạnh mẽ nhất quan điểm cho rằng ngành bị chi phối bởi các yếu tố độc quyền có thể sử dụng phương pháp sản xuất ưu việt hơn các ngành cạnh tranh hoàn hảo. Khi so sánh thị trường độc quyền và thiểu quyền với thị ttường cạnh tranh hoàn hảo bằng cách giả định công nghệ không đổi, không tính tới thực tế là sự đổi mới quy trình sản xuất và sản phẩm thường tập trung vào các doanh nghiệp độc quyền và thiểu quyền lớn, người ta dã đánh giá quá thấp đóng góp về mặt xã hội của các thị trường này. Hình 26c minh họa cho luận điểm gây nhiều tranh cãi của Schumpeter. Thị trường cạnh tranh sản xuất sản lượng Qp-, điểm có chi phí cận biên ngắn hạn bằng giá cả. Nếu ngành này được độc quyền hoá, người ta thường dự kiến giá cả sẽ tăng lên Pm) và sản lượng giảm xuống chỉ còn Qmì. Tuy nhiên, nếu nhà độc quyền trong ngành này ứng dụng công nghệ mới làm giảm chi phí, toàn bộ đường chi phí cận biên có thể dịch chuyển xuống phía dưới và nhà độc quyền sản xuất lượng hàng hoá nhiều hơn (Ổm) và bán với giá thấp hơn (Pm) so với ngành cạnh tranh ban đầu, mặc dù nhà độc quyền khai thác hết sức mạnh thị trường của mình.

Dĩ nhiên, xã hội có thể bị tổn thất ngay cả khi nhà độc quyền đổi mới. Những mối lợi do đổi mới mang lại có thể không bang chi phí do sự khai thác của nhà độc quyền gây ra.

SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM CÁC CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TRONG KINH TẾ VI MÔ

(phần 1)

ThS. Lê Thị Hồng Phấn

Bộ môn Kinh tế học – Khoa KTKT

Kinh tế vi mô là một trong những môn học thuộc khối kiến thức cơ sở ngành của nhóm ngành kinh tế. Đây là một môn học rất quan trọng của sinh viên ngành kinh tế, nó trang bị những khái niệm cơ bản cũng như những quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường. Do đó, việc nắm vững kiến thức nền tảng này sẽ giúp sinh viên học các môn chuyên ngành và vận dụng tốt hơn vào thực tế. Một trong những kiến thức trọng tâm của Kinh tế vi mô là phân biệt các cấu trúc thị trường thông qua các đặc điểm: số lượng người mua, người bán, sản phẩm, đường cầu, đường doanh thu biên, sức mạnh thị trường, rào cản thị trường, cạnh tranh qua giá và cạnh tranh phi giá.

Tuy nhiên, trong quá trình học tập, không ít sinh viên đã gặp khó khăn khi so sánh các điểm khác biệt trong 4 cấu trúc thị trường: thị trường cạnh tranh hoàn toàn, thị trường độc quyền hoàn toàn [1], thị trường cạnh tranh độc quyền và thị trường độc quyền nhóm. Bài viết này nhằm tổng hợp và so sánh các đặc điểm để làm rõ sự khác nhau trong từng cấu trúc thị trường. Qua đó, sinh viên sẽ vận dụng tốt hơn vào việc xác định mức sản lượng và giá bán để tối đa hóa lợi nhuận đối với doanh nghiệp (phần 2), nắm bắt những nguyên lý nền tảng can thiệp của Chính phủ và thị trường và đánh giá được hiệu quả hoạt động của từng cấu trúc thị trường (phần 3).

1/ Khái niệm thị trường

Có nhiều định nghĩa về thị trường:

Theo Begg D., Fisher S., Dornbusch R. (2007), thị trường là tập hợp các sự thỏa thuận thông qua đó, người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ.

Thị trường là sự biểu thị quá trình mà nhờ đó các quyết định của các hộ gia đình về việc tiêu dùng các hàng hóa khác nhau, các quyết định của các hãng về việc sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai được điều hòa bởi sự điều chỉnh giá.

Thị trường là một tập hợp các thỏa thuận mà thông qua đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để trao đổi một cái gì đó khan hiếm.

Các khái niệm thị trường trên đều cho thấy thị trường không gắn với không gian hay thời gian nhất định. Bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu, có giao dịch diễn ra là có thị trường.

Theo hình thức biểu hiện bên ngoài thị trường có các dạng sau:

  • Dạng 1: Là dạng thị trường mà người mua, người bán trực tiếp gặp nhau, để mua bán hàng hóa. Ví dụ: Chợ, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn…
  • Dạng 2: Là dạng thị trường hoạt động chủ yếu thông qua những người hoặc tổ chức trung gian. Ví dụ: Thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán,…
  • Dạng 3: Là một dạng thị trường phát triển cao cấp hơn so với cửa hàng về phương thức kinh doanh và phương thức thanh toán. Người bán định sẵn giá và trưng bày, người mua tự lựa chọn những thứ cần mua. Ví dụ: Siêu thị
  • Dạng 4: Là dạng thị trường mà những người mua thường tổ chức đấu giá lẫn nhau để có được những thứ mình cần trong khi đó người bán ở vai trò thụ động. Ví dụ: Thị trường bán đấu giá, thị trường đồ cổ, thị trường các tác phẩm nghệ thuật, thị trường xây dựng công trình, …

Mặc dù khác nhau về hình thức nhưng các thị trường đều thực hiện chức năng: xác định giá cả đảm bảo sao cho số lượng hàng hóa mà những người mua muốn mua ngang bằng với số lượng hàng hóa mà những người bán muốn bán [2].

Hình thức biểu hiện của thị trường rất đa dạng. Trong thực tế, có những thị trường có rất nhiều người bán, rất nhiều người mua, đồng thời lại có những thị trường chỉ có một hoặc một số người bán, người mua. Hành vi của những người bán, người mua này cũng đa dạng và phức tạp. Để thuận lợi trong quá trình nghiên cứu, các nhà kinh tế đã tập hợp các doanh nghiệp có cùng những hành vi trong những điều kiện cụ thể vào một cấu trúc thị trường.

2/ Cấu trúc thị trường

Cấu trúc thị trường là một thuật ngữ mô tả hành vi của người bán và người mua trong thị trường. Các nhà kinh tế căn cứ vào mức độ cạnh tranh hay mức độ độc quyền và chia ra các cấu trúc thị trường sau:

           ·            Cạnh tranh hoàn toàn.

           ·            Độc quyềnhoàn toàn.

           ·            Cạnh tranh độc quyền.

           ·            Độc quyền nhóm (tập đoàn)

Sự khác nhau giữa các cấu trúc thị trường thường được xem xét qua: số lượng người bán người mua, tính đồng nhất hay sự giống nhau của sản phẩm, sức mạnh thị trường, rào cản gia nhập thị trường, cạnh tranh qua giá và cạnh tranh phi giá.

a/ Cạnh tranh hoàn toàn

Thị trường cạnh tranh hoàn toàn có rất nhiều người bán và người mua. Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hoàn toàn giống nhau (đồng nhất hay chuẩn hóa). Vì thế mỗi người bán chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng cung của ngành và không có doanh nghiệp nào có khả năng ảnh hưởng đến giá sản phẩm trên thị trường. Vì bán sản phẩm giống nhau hoàn toàn nên việc bán với giá khác các doanh nghiệp khác sẽ dẫn đến cầu vô cùng co giãn. Do đó, đường cầu của doanh nghiệp là một đường nằm ngang song song với trục hoành (cầu co giãn vô cùng).Giá bán sản phẩm trên thị trường này sẽ do cung cầu thị trường quyết định và doanh nghiệp sẽ có thể bán hết sản phẩm của mình tại mức giá thị trường đó.

Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn

Tuy nhiên, cần chú ý cầu thị trường là tổng cầu của tất cả các khách hàng (cá nhân), vì vậy nó vẫn là đường cầu của một hàng hóa điển hình dốc xuống về phía phải.

Vì mỗi doanh nghiệp chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường và bán sản phẩm giống hệt nhau, do đó cạnh tranh về giá sẽ khiến cho cầu co giãn vô cùng và cạnh tranh phi giá (chất lượng, mẫu mã, thương hiệu, quảng cáo…) là điều thực sự không cần thiết vì ở thị trường này người mua và người bán hoàn toàn có đầy đủ thông tin về sản phẩm.

Trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn, doanh nghiệp có thể tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường một cách dễ dàng, nghĩa là các doanh nghiệp và các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác, để tìm kiếm con đường nào có lợi nhất.

Trong thực tế, khó có một thị trường nào có đầy đủ những đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn toàn, người ta thường cho rằng thị trường cổ phiếu, thị trường nông sản, … có những đặc điểm tương đối gần giống với những đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn toàn.

b/ Độc quyền hoàn toàn

Khác với thị trường cạnh tranh hoàn toàn có nhiều người bán, thị trường độc quyền hoàn toàn chỉ có duy nhất một người bán. Họ sản xuất ra một loại sản phẩm hoặc cung cấp một loại dịch vụ riêng biệt, không có sản phẩm khác thay thế tốt cho sản phẩm này. Sự khác nhau cơ bản giữa cạnh tranh hoàn toàn và độc quyền bán hoàn toàn nằm ở phía đường cầu. Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn toàn là người chấp nhận giá và có thể bán hết sản lượng của mình ở mức giá chấp nhận đó. Mức giá này được xác định bởi cung cầu của thị trường và đường cầu doanh nghiệp nằm ngang. Vì thế, đường cầu doanh nghiệp cũng chính là đường doanh thu biên và doanh thu trung bình. Đối với doanh nghiệp độc quyền bán hoàn toàn, do là người bán duy nhất trên thị trường nên đường cầu doanh nghiệp cũng chính là đường cầu thị trường, là đường cầu dốc xuống về phía phải.

Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn

Đường cầu dốc xuống dưới hàm ý ba đặc điểm sau:

  • Giá cao hơn doanh thu biên: Với đường cầu dốc xuống, nhà độc quyền chỉ có thể tăng sản lượng bán bằng cách giảm giá. Vì phải hạ giá mới bán thêm được sản phẩm nên doanh thu biên nhỏ hơn giá (hay doanh thu trung bình) với mọi mức sản lượng trừ đơn vị sản phẩm đầu tiên. Bởi vì giá thấp hơn không chỉ áp dụng cho đơn vị sản phẩm bán thêm mà áp dụng cho tất cả các đơn vị sản phẩm mà lẻ ra có thể bán ở mức giá cao hơn.
Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn
                                     (1)

Trong đó:

MR       : Doanh thu biên

P          : Giá bán

ED        : Độ co giãn của cầu theo giá

Qua công thức trên ta thấy doanh thu biên bằng giá cộng thêm một đại lượng mang dấu âm, do đó doanh thu biên phải nhỏ hơn giá. Đường doanh thu biên phải nằm dưới đường cầu, trừ điểm đầu tiên. Như vậy, đường cầu chính là đường doanh thu trung bình nằm phía trên đường doanh thu biên, đây là điểm khác biệt với doanh nghiệp cạnh tranh hoàn toàn.

  • Người đặt giá: Với đường cầu dốc xuống, mỗi mức sản lượng gắn liền với một mức giá duy nhất, thông thường nhà độc quyền luôn muốn bán với giá cao và sản lượng lớn. Tuy nhiên, vì đường cầu dốc xuống, tất yếu nhà độc quyền xác định mức giá càng cao thì chỉ bán được sản lượng thấp và muốn bán nhiều sản phẩm thì giá phải thấp. Nhà độc quyền không thể tăng giá mà sản lượng bán lại không bị giảm. Do đó, hình dạng đường cầu dốc xuống làm hạn chế sức mạnh của nhà độc quyền.
  • Cầu co giãn theo giá:

Với công thức (1) ta thấy:

Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn

Doanh nghiệp độc quyền chọn mức giá hoặc sản lượng có cầu co giãn nhiều (ED> 1), vì nếu cầu không co giãn thì doanh thu biên (MR) sẽ âm. Khi doanh thu biên là số âm thì tổng doanh thu (TR) đang giảm dần. Việc tăng sản lượng sẽ làm tổng chi phí tăng nhưng tổng doanh thu (TR) giảm thì lợi nhuận của giảm. Do đó, doanh nghiệp độc quyền luôn hoạt động trong vùng có cầu co giãn nhiều.

Do là doanh nghiệp duy nhất cung cấp toàn bộ sản phẩm cho thị trường, với sức mạnh độc quyền quá lớn nên cạnh tranh về giá và phi giá là điều không cần thiết đối với doanh nghiệp độc quyền hoàn toàn. Và những doanh nghiệp nào muốn gia nhập thị trường này cũng rất khó khăn và gần như không thể do bị những rào cản lớn như:

  • Độc quyền do Chính phủ tạo ra: Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp độc quyền hình thành do Chính phủ trao cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp nào đó đặc quyền trong việc ma bán một hàng hóa hoặc cung cấp một dịch vụ nhất định. Ví dụ, với qui định từ ngân hàng Nhà nước thì chỉ có công ty TNHH một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn (Công ty SJC) mới có chức năng gia công vàng miếng cho ngân hàng Nhà nước.Hoặc Chính phủ Mỹ trao độc quyền cho công ty Network Solutions Inc, một tổ chức quản lý cơ sở dữ liệu của tất cả các địa chỉ internet: .com, .net, .org vì cần được hệ thống và thu thập đầy đủ các dữ liệu này.
  • Độc quyền về bằng phát minh sáng chế hoặc sở hữu nguồn lực then chốt: Độc quyền xuất hiện khi doanh nghiệp nào đó sở hữu một nguồn lực then chốt. Ví dụ: người viết cuốn sách được nhận quyền tác giả và cho phép người viết độc quyền bán cuốn sách của mình; các dòng phần mềm hệ điều hành Microsoft Windows là sản phẩm độc quyền của hãng Microsoft, vì thế công ty kiểm soát việc phân phối sản phẩm… Tuy nhiên, cần chú ý các nền kinh tế trong thực tế thường rất lớn và ngày nay hàng hóa thường được trao đổi trên phạm vi quốc tế, nên qui mô tự nhiên của thị trường của các nguồn lực thường vô cùng rộng và nguồn lực thường được nhiều người sở hữu.
  • Độc quyền tự nhiên:  Do có lợi thế về qui mô nên doanh nghiệp này có chi phí trung bình thấp và từ đó tự nhiên hình thành rào cản lớn đối với các doanh nghiệp khác muốn tham gia vào thị trường. Ví dụ tiêu biểu cho loại độc quyền này là dịch vụ vận chuyển hàng hóa và hành khách bằng xe lửa. Để thực hiện dịch vụ này, doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống đường ray cho cả quốc gia. Nếu có nhiều doanh nghiệp tham gia thì mỗi doanh nghiệp phải xây dựng đường ray riêng và chi phí cố định trung bình rất lớn. Do đó, chi chí trung bình cho mỗi người khách hoặc một đơn vị hàng hóa vận chuyển sẽ cao hơn nhiều so với một doanh nghiệp thực hiện.

c/ Cạnh tranh độc quyền

Thị trường cạnh tranh độc quyền vừa có tính cạnh tranh vừa mang tính độc quyền là do trên thị trường có nhiều người bán sản phẩm vừa giống nhau lại vừa có sự khác biệt. Sự khác biệt của sản phẩm có thể là những khác biệt hữu hình trong các sản phẩm của những người bán khác nhau trong ngành như kiểu dáng, màu sắc, độ bền,… nhưng cũng có thể là những khác biệt vô hình như vị trí, niềm tự hào, sự thân thiện của nhân viên bán hàng, tính hiệu quả của quảng cáo, sự sẵn có của tín dụng, danh tiếng của sản phẩm,… Ví dụ: dầu gội, tập học sinh, kem đánh răng, thuốc trị bệnh thông thường, phim… là những sản phẩm thuộc thị trường cạnh tranh độc quyền.

Do các doanh nghiệp đều có chút ít thế lực độc quyền, có thể kiểm soát giá sản phẩm của mình, thể hiện đường cầu của doanh nghiệp dốc xuống về phía phải. Đường cầu về sản phẩm của doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền khác với đường cầu của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn toàn và độc quyền hoàn toàn ở chỗ hệ số co giãn ở các điểm khác nhau trên đường cầu. Vì có nhiều doanh nghiệp nhỏ trong thị trường cạnh tranh độc quyền và sản phẩm các doanh nghiệp là những sản phẩm có khả năng thay thế cao chứ không phải thay thế hoàn toàn do đó đường cầu về sản phẩm của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn toàn co giãn hơn đường cầu của doanh nghiệp độc quyền hoàn toàn, nhưng không phải là co giãn vô cùng như của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn toàn. Chính sự khác biệt giữa các sản phẩm, nên không thể có một mức giá duy nhất cho tất cả sản phẩm, mà hình thành một nhóm giá gồm nhiều mức giá nhưng chênh lệch không nhiều.

Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn

Do sản phẩm giữa các doanh nghiệp khác nhau, nên khó xác định đường cầu thị trường cho tất cả sản phẩm.

Một số nhà kinh tế cho rằng mỗi doanh nghiệp có một lượng khách hàng quen do sự hấp dẫn riêng về sản phẩm của họ (như đặc tính về sở thích, mẫu mã, bao bì…). Do đó, doanh nghiệp có thể thay đổi giá trong một giới hạn nhất định mà không bị mất khách hàng, và nhiều khi còn có thể thu hút thêm được một số khách hàng khác. Tuy nhiên, nếu giá sản phẩm vượt qua giới hạn đó sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý người tiêu dùng và đến lượng hàng tiêu thụ.

Cạnh tranh về giá và cạnh tranh phi giá thực sự rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh độc quyền. Bởi vì, khả năng thay thể của sản phẩm là rất cao giữa các doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp nào có giá tốt, quảng cáo tốt, chất lượng cao, thương hiệu mạnh, dịch vụ hậu mãi tốt … đều nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường rất nhanh. Các doanh nghiệp nên xác định giá và các chiến lược cạnh tranh phi giá đều phải dựa trên cơ sở có tính đến phản ứng của đối thủ cạnh tranh.

Trong thị trường cạnh tranh độc quyền,các doanh nghiệp sẵn sàng gia nhập và rút lui khỏi thị trường một cách dễ dàng, tuy nhiên cũng không quá dễ dàng gia nhập như thị trường cạnh tranh hoàn toàn, do đó các doanh nghiệp mới (tiềm tàng) cần xem xét đến tình hình các doanh nghiệp trong ngành để từ đó có quyết định có nên gia nhập thị trường hay không.

d/ Độc quyền nhóm (độc quyền tập đoàn)

Thị trường độc quyền nhóm là cấu trúc thị trường trong đó một số doanh nghiệp chi phối cả thị trường về hàng hóa và dịch vụ. Vì tổng lượng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường đều do một vài nhà độc quyền cung cấp quyết định cho nên khi một doanh nghiệp điều chỉnh lượng cung cũng sẽ ảnh hưởng đến tổng cung thị trường. Hay nói cách khác các doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau và mỗi doanh nghiệp đều phải cân nhắc các phản ứng có thể xảy ra của các đối thủ về quyết định sản lượng và giá bán.

Tùy vào sự khác biệt sản phẩm có thể chia độc quyền nhóm thành 2 loại:

    • Độc quyền nhóm thuần túy: Gồm các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm giống nhau hay sản phẩm chuẩn hóa.Ví dụ : luyện kim, hóa dầu, thép, nhôm …
    • Độc quyền nhóm phân biệt: Gồm các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm khác nhau như ôtô, đồ điện, máy tính, sản xuất máy bay…

Đường cầu thị trường độc quyền nhóm có thể thiết lập dễ dàng, nhưng rất khó thiết lập đường cầu của từng doanh nghiệp vì phải dự đoán chính xác lượng cầu thị trường và số lượng cung ứng của các đối thủ ở mỗi mức giá thì mới thiết lập được đường cầu sản phẩm của doanh nghiệp xác đáng.

Sản phẩm thuộc thị trường độc quyền hoàn toàn

Thế lực độc quyền của các doanh nghiệp độc quyền nhóm rất lớn do đó các doanh nghiệp mới (tiềm tàng) khó hoặc không thể gia nhập ngành. Các doanh nghiệp nếu muốn gia nhập thị trường thường đối diện với các rào chắn như: độc quyền về bằng phát minh sáng chế hay quy trình công nghệ, có ưu thế về quy mô lớn, uy tín, thương hiệu, khả năng sản xuất thừa …

Các doanh nghiệp độc quyền nhóm rất đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau nên không có mô hình chuẩn về độc quyền tập đoàn. Tuy nhiên, trong kinh tế vi mô thường phân chia thị trường độc quyền nhómthành 2 loại như sau:

Các doanh nghiệp độc quyền nhóm không hợp tác với nhau: Khi các doanh nghiệp không liên lạc với nhau, không thương lượng với nhau hoặc không có những hợp đồng ràng buộc mà cạnh tranh với nhau về giá, sản lượng, quảng cáo, chất lượng sản phẩm, …

    • Mô hình Cournot: Theo Cournot, khi một doanh nghiệp biết trước số lượng sản phẩm và giá bán của doanh nghiệp đối thủ, doanh nghiệp còn lại có thể xác định số lượng sản phẩm sản xuất và giá bán hợp lý để tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, trong thực tế doanh nghiệp khó có thể chọn đúng mức sản lượng và giá bán để đạt được trạng thái cân bằng, mà thông thường các doanh nghiệp trải qua quá trình thăm dò và điều chỉnh thì mới đi đến được thế cân bằng này.
    • Mô hình Stackelberg (lợi thế của người hành động trước): Theo Stackelberg, thị trường chỉ có hai doanh nghiệp sản xuất sản phẩm giống nhau và chi phí bằng nhau. Nếu có một doanh nghiệp công bố trước sản lượng sản xuất của mình thì doanh nghiệp đó có lợi thế hơn về qui mô sản lượng và lợi nhuận.
    • Mô hình đường cầu gãy: Mô hình này giải thích tại sao các doanh nghiệp độc quyền nhóm giảm giá khi các đối thủ giảm giá và sẽ không tăng giá khi các đối thủ tăng giá. Đồng thời giải thích hiện tượng “giá cứng nhắc” – doanh nghiệp có xu hướng ổn định giá ngay cả khi cho phí biên của họ tăng.

Các doanh nghiệp hợp tác với nhau: Các doanh nghiệp có thể thỏa thuận công khai hay ngấm ngầm về với nhau về giá bán và sản lượng để tránh (hạn chế) đối đầu hay cạnh tranh. Họ có thể thống nhất giảm sản lượng để tăng giá hoặc bán cùng mức giá cao hay giảm giá để tạo rào cản thị trường khi có doanh nghiệp mới xuất hiện. Các doanh nghiệp có thể thương lượng với nhau và có những hợp đồng ràng buộc để đưa ra các quyết định chung.

    • Mô hình lãnh đạo giá: Khi một doanh nghiệp chiếm ưu thế về chi phí sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm đảm bảo, ổn định, có uy tín trên thị trường, có quy mô sản xuất lớn, sản lượng cung ứng chiếm tỷ trọng cao trong ngành thông thường họ quyết định giá bán, các doanh nghiệp khác sẽ là người chấp nhận giá đó và làm theo.
    • Mô hình Cartel: Hiệp hội các nước xuất khẩu dầu mỏ thế giới (OPEC),  Hiệp hội các nước xuất khẩu đồng (CIPEC), Liên minh bô xít thế giới IBA,… là những ví dụ điển hình về mô hình các doanh nghiệp được phép hợp tác công khai và được thế giới công nhận.
    • Lý thuyết trò chơi: Lý thuyết này đem lại cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc về việc tại sao lại khó duy trì sự hợp tác ngay cả khi sự hợp tác làm lợi cho cả hai bên. Câu chuyện về tình thế lưỡng nan của người tù hàm chứa bài học phổ biến có thể áp dụng cho bất cứ nhóm người nào mà trong đó các thành viên đang tìm cách hợp tác với nhau.

Cạnh tranh phi giá thực sự quan trọng đối với các doanh nghiệp độc quyền nhóm bởi vì thông thường giá của các sản phẩm giống nhau, doanh nghiệp nào có chính sách hậu mãi, quảng cáo, sức mạnh thương hiệu tốt hơn thì sẽ bán được nhiều hơn.

            Tóm lại, những điểm khác nhau giữa 4 cấu trúc thị trường được tóm tắt trong bảng sau:

  Cạnh tranh hoàn toàn Độc quyền hoàn toàn. Cạnh tranh độc quyền. Độc quyền nhóm
1. Đường cầu doanh nghiệp Nằm ngang Dốc nhiều Thoải nhiều Dốc xuống
2. Đường cầu thị trường Dốc xuống Dốc xuống Dốc xuống Dốc xuống
3. Đường doanh thu biên Trùng với đường cầu Nằm dưới đường cầu Nằm dưới đường cầu Nằm dưới đường cầu
4.Số lượng người bán Rất nhiều Một Nhiều Một vài
5. Sản phẩm Giống nhau Không có sản phẩm thay thế Vừa giống nhau vừa phân biệt Vừa giống nhauVừa phân biệt
6. Sức mạnh thị trường Không Rất mạnh Ít Mạnh
7. Rào cản gia nhập Không Lớn       Không Lớn
8. Cạnh tranh qua giá Không cần thiết Không cần thiết Rất quan trọng Không nên
9. Cạnh tranh phi giá Không cần thiết Không cần thiết Rất quan trọng Rất quan trọng

Trong thực tế, việc phân biệt một loại hàng hóa nào đó thuộc cấu trúc thị trường nào thường gặp chút khó khăn. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay có khoảng 10 công ty bán ôtô, vậy đây là thị trường độc quyền nhóm hay cạnh tranh độc quyền. Hoặc sữa bột là sản phẩm phân biệt hay sản phẩm giống nhau. Đây cũng là câu hỏi mà các nhà kinh tế vẫn còn tranh luận. Song, khi phân tích về thị trường, tất cả các nhà kinh tế đều nhớ lại các bài học về cấu trúc thị trường và áp dụng chúng vào hoàn cảnh thích hợp.

Kết luận: Bài viết này nhằm giúp sinh viên nhận diện và so sánh đặc trưng của các cấu trúc thị trường cụ thể. Qua đó, sinh viên có kiến thức lý thuyết vững chắc để tiếp tục nghiên cứu và lý giải được hành vi của doanh nghiệp trên con đường tối đa hóa lợi nhuận, giải thích tại sao Chính phủ can thiệp vào thị trường và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng cấu trúc thị trường trong quá trình học và vận dụng vào thực tế.

Tài liệu tham khảo:

-          Trần Thừa, 2010, Kinh tế học vi mô, tái bản lần thứ năm, nhà xuất bản Giáo Dục, trang 23

-          Cao Thúy Xiêm, 2009,Kinh tế học vi mô, tái bản lần 1, nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân, trang 133-136, trang 158-162, trang 181-182, trang 185-186

-          Đinh Phi Hổ, 2009, Nguyên lý Kinh tế vi mô, nhà xuất bản Thống Kê, trang 213-418

-          Nguyễn Văn Ngọc, 2008, Bài giảng nguyên lý kinh tế vi mô, nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân, trang 361-366, trang 382-417.

-          Lê Bảo Lâm,2013, Kinh tế vi mô,nhà xuất bản Kinh tế, trang 234-260.

-          Nguyễn Văn Dần, Kinh tế học vi mô, 2009, nhà xuất bản Tài chính, trang 253-352.  

[1]Chỉ phân tích độc quyền bán hoàn toàn

[2]Đinh Phi Hổ, 2009, Nguyên lý Kinh tế vi mô,trang 46-47