Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học

Với đối tượng nghiên cứu chính là hành vi, cảm xúc, nhận thức của con người, Tâm lý học vô cùng gần gũi và hầu như chạm tới mọi khía cạnh cuộc sống. Ngành học về tâm lý vì vậy cũng trở nên thú vị và hàm chứa nhiều thử thách. Có nhiều lí do để chúng ta nghiên cứu về ngành này ngay cả khi có hay không kế hoạch trở thành một nhà Tâm lý học chuyên nghiệp.

Không chỉ giúp người học có kiến thức tâm lý, hiểu hơn về bản thân và những người xung quanh, Tâm lý học còn đem lại cơ hội nghề nghiệp rộng mở và tiềm năng phát triển các kỹ năng cần thiết. Hiện tại, nếu bạn vẫn tự hỏi có nên theo ngành Tâm lý học hay không thì trước tiên hãy xem xét vài điều lí giải tại sao nên học ngành này dưới đây.

Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học
Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học

Có nhiều lí do để bạn nên học ngành Tâm lý học

Hiểu rõ hơn về chính bạn trước khi hiểu về người khác

Khi nghiên cứu nhiều về sự phát triển hành vi, cách thức hình thành nhân cách và tác động của các yếu tố văn hóa, xã hội như thế nào sẽ giúp bạn sẽ hiểu rõ hơn về chính mình. Từ đó, sẽ hiểu biết về người khác tốt hơn, nhìn nhận và đánh giá được những ảnh hưởng đằng sau hành động của họ. Hiểu rõ mình trong mối quan hệ với người khác cho phép bạn làm việc dễ thành công trong các môi trường khác nhau.

Con đường nghề nghiệp rộng mở

Ngành Tâm lý học mang lại cho người học lựa chọn nghề nghiệp vô cùng phong phú. Các nhà Tâm lý học có thể làm công tác trị liệu, ứng dụng trong điều trị lâm sàng, tư vấn hoặc làm việc trong trường học. Những ai yêu thích công tác nghiên cứu có thể làm việc trong những khoa Tâm lý học trực thuộc các trường đại học, hoặc giảng dạy và đào tạo tại các môi trường học thuật khác (như trường y hay bệnh viện). Một số có thể làm về Tâm lý học nghề nghiệp trong các tổ chức, công ty hoặc trong những lĩnh vực khác như tâm lý trong thể thao, tâm lý truyền thông hay tâm lý trong lĩnh vực pháp y.

Dữ liệu từ Cơ quan Thống kê Giáo dục Đại học Vương quốc Anh (HESA) cho thấy khoảng 1/5 số sinh viên tốt nghiệp Tâm lý học trở thành chuyên gia tâm lý chuyên nghiệp. Điều này không đồng nghĩa sinh viên không tận dụng được những gì họ đã học. Khoảng 17% sinh viên tốt nghiệp bắt đầu sự nghiệp trong ngành chăm sóc trẻ em, sức khỏe và giáo dục, 15% bước vào lĩnh vực pháp lý, dịch vụ công ích và phúc lợi xã hội. 6 – 7% làm việc ngành nghề thương mại, nhân sự, tài chính, bán lẻ, tiếp thị. Trong số đó, hơn 50% sinh viên tốt nghiệp cử nhân Tâm lý học học tiếp cao học.

Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học
Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học

Sinh viên có nhiều lựa chọn nghề nghiệp khi học ngành Tâm lý học

Bằng cử nhân Tâm lý học là nền tảng tốt để học cao học

Bằng cử nhân Tâm lý học có thể là khởi điểm tuyệt vời để tiếp tục nghiên cứu sau đại học. Nhiều sinh viên sẽ tập trung lấy bằng thạc sĩ tâm lý học, trong khi những người khác có thể chuyển sang một lĩnh vực liên quan như tư vấn, giáo dục hoặc công tác xã hội. Có nền tảng về tâm lý con người, người học cũng có thể đi theo hướng nghiên cứu sâu hơn về các khía cạnh khác như luật, y học hoặc khoa học đời sống.

Cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về sức khỏe tâm thần

Cho dù bạn không quan tâm trở thành nhà tâm lý học tâm thần thì nghiên cứu Tâm lý học vẫn có thể giúp bạn chẩn đoán được những trục trặc về tâm thần và cách điều trị. Bạn cũng sẽ khám phá được cách chăm sóc sức khỏe tâm thần, làm thế nào để giảm căng thẳng, tăng cường trí nhớ và làm sao để sống hạnh phúc, khỏe mạnh hơn. Trước khi giúp cho thân chủ (khách hàng), bạn có thể giúp ích cho chính người thân, bạn bè xung quanh mình.

Phát triển các kỹ năng cốt lõi cho bản thân

Ngành Tâm lý học giúp sinh viên phát triển nhiều kỹ năng thiết yếu. Đặc biệt, nếu có nguyện vọng theo đuổi nghề nghiệp liên quan quản lý con người và nguồn nhân lực, Tâm lý học sẽ trang bị cho bạn kiến thức thỏa mãn yêu cầu về kỹ năng cụ thể bao gồm quản lý xung đột, ra quyết định, hợp tác và lãnh đạo. Một nhân viên có khả năng dẫn dắt nhóm hiệu quả, nuôi dưỡng các mối quan hệ chốn công sở tốt thường được đánh giá cao.

Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học
Tại sao phải nghiên cứu tâm lý học y học

Ngành Tâm lý học giúp sinh viên phát triển nhiều kỹ năng nền tảng, dễ hòa nhập vào những môi trường khác nhau

  • Giao tiếp hiệu quả trong nhiều tình huống khác nhau. Có thể nói kỹ năng giao tiếp tốt là chìa khóa thành công trong mọi môi trường làm việc lẫn cuộc sống. Sinh viên Tâm lý học được trang bị kiến thức để hiểu rõ các quy luật tâm lý, giải thích được hành vi của con người, đồng thời giúp kiểm soát các cuộc tranh luận, bàn cãi một chủ đề rõ ràng và khách quan… Nhờ đó, khả năng giao tiếp cũng được cải thiện tốt hơn.
  • Suy nghĩ nghiêm túc và sáng tạo. Khi học Tâm lý học, bạn sẽ học nhiều môn như phương pháp nghiên cứu khoa học, cách ra quyết định và giải quyết vấn đề. Tất cả những thứ này góp phần khiến bạn phải cân nhắc, suy nghĩ về mọi thứ một cách sâu rộng và nghiêm túc hơn.
  • Áp dụng các nguyên tắc tâm lý giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội và nhóm. Việc giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở hiểu rõ các quy luật tâm lý, các yếu tố tác động lên hành vi giúp mang lại hiệu quả cao, hạn chế tình trạng xung đột.
  • Lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá các dự án nghiên cứu. Sinh viên ngành Tâm lý học được học nhiều về các phương pháp nghiên cứu, cách lên kế hoạch, phân tích và đánh giá số liệu thống kê. Các kỹ năng này không chỉ ứng dụng trong mỗi ngành Tâm lý học mà còn trong đa dạng nghề nghiệp khác.
  • Hành động chuyên nghiệp trong khuôn khổ đạo đức. Trong những năm gần đây, các nhà Tâm lý học trên khắp thế giới ngày càng thể hiện nhiều sự quan tâm về vấn đề đạo đức trong quá trình hành nghề cũng như nghiên cứu khoa học. Nguyên nhân chính là Tâm lý học ngày càng được đánh giá là một ngành khoa học có giá trị. Theo đó, những người được đào tạo và hành nghề tâm lý học bắt buộc phải nắm rõ các phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu một cách chính xác, hiệu quả đồng thời đảm bảo các nguyên tắc về đạo đức.
  • Làm việc độc lập và theo nhóm. Trên cơ sở hiểu rõ bản thân mình và thấu cảm được mong muốn, cảm xúc, hành động của người khác, người học ngành tâm lý có thể làm việc độc lập hay phối hợp nhóm.

Công ty Du học INEC

  • Tổng đài: 1900 636990
  • Hotline Miền Bắc & Nam: 093 409 3311 – 093 409 3040 – 093 409 4411
  • Hotline Miền Trung: 093 409 9070 – 093 409 9983
  • Email: 

Có lẽ không có lĩnh vực nào ảnh hưởng đến cung cách hành xử của con người bằng tâm lý. Từ dạy dỗ con cái trong nhà, đến chính sách giáo dục tư/công, tư duy mua và bán/tiếp thị (marketing), văn hóa tập thể/tổ chức, quản lý thay đổi (change management), đào tạo nhân tài/lãnh đạo, tâm lý chiến v.v…, và đặc biệt là tác động chính trị. Mọi cuộc vận động hay thay đổi chính trị đều cần đến kiến thức nền tảng, nếu không phải là chuyên môn nhất, về tâm lý để mang lại hiệu quả và kết quả sau cùng.

Ít có một lãnh đạo quân sự và chính trị nào quan tâm nhiều đến lĩnh vực tâm lý như Dwight D. Eisenhover, vị Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ từ năm 1953 đến 1961, và cũng là Tổng tư lệnh tối cao của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh trong Thế Chiến II, chỉ huy cuộc chiến từ châu Phi đến châu Âu.

Sau Thế Chiến II, trong lá thư đề ngày 2 tháng Giêng 1946 gửi cho tướng Maxwell Taylor, lúc đó giữ vai trò Tổng Chỉ huy Học viện Quân sự West Point, một trong những trường đào tạo lãnh đạo quân sự và chính trị danh tiếng nhất của Hoa Kỳ, Tướng Eisenhover khuyến khích tướng Taylor xây dựng ngành tâm lý vào trong giáo trình của West Point vì ông cảm thấy rằng rất nhiều thất bại về lãnh đạo mà ông đã quan sát trong Thế Chiến II là kết quả của sự thiếu giáo dục và hiểu biết của cấp chỉ huy về tâm lý [1]. Trong lá thư Eisenhover viết cho Taylor, ông cho rằng ngành tâm lý thực tiễn và tâm lý áp dụng, từ lý thuyết đến thực hành, ít nhất cũng làm thức tỉnh phần lớn các học viên về sự cần thiết trong việc xử lý các vấn đề con người trên cơ sở con người để cải thiện khả năng lãnh đạo và xử lý nhân sự trong Quân đội nói chung.

Theo giáo sư Michael D. Matthews, thành viên cao cấp của Khoa học Ứng xử và Lãnh đạo của học viện West Point, và là một trong các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực tâm lý quân sự, thì tâm lý là ngôi nhà tự nhiên cho ngành lãnh đạo học chính thức. Các học viên có thể chọn năm chương trình học sau đây: tâm lý thiết kế, lãnh đạo, quản lý, tâm lý và xã hội học. Và ít có trường đại học nào tại Hoa Kỳ cung cấp chương trình học một cách đa dạng như học viện West Point. Đó là nhờ sự quan tâm sâu sắc của Eisenhover hơn bảy thập niên qua. Giáo sư Matthews kết luận rằng sau cùng có lẽ Eisenhover đúng, vì kiến thức căn bản của tâm lý là bao gồm nhân cách, căng thẳng, kiên trì, học tập và trí nhớ, và hành vi xã hội, đều là những điều mà các nhà lãnh đạo cần biết để lãnh đạo một cách hiệu quả.

Tâm lý trong thời đại này ngày càng đóng vai trò quan trọng, nhất là trong vai trò lãnh đạo thuộc mọi địa hạt và mọi cấp bậc. Nếu lãnh đạo không tốt thì không chỉ giảm hiệu lực và còn hiệu năng của nhân viên, và sau đó còn mất người. Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ, 60 đến 70 phần trăm nhân viên làm việc không hết khả năng của mình, làm mất đi năng suất trị giá 450 tỷ đô la, và sau đó bỏ việc đi nơi khác không phải vì công ty mà vì lãnh đạo trực tiếp của mình [2]. Nhiều nghiên cứu khác cũng kết luận tương tự.

Theo giáo sư, nhà nghiên cứu và cũng là nhà điều trị/thực hành tâm lý, Melania Greenberg, lãnh đạo chủ yếu là về con người, và những nhà lãnh đạo tài hoa nhất là bậc thầy của động lực và cảm hứng [3]. Công việc của người lãnh đạo, theo Greenberg, là “tạo ra và duy trì môi trường cảm xúc tích cực, trong đó sự căng thẳng và sự đòi hỏi phải làm việc trong một thế giới cạnh tranh và luôn thay đổi được bù đắp bằng sự hỗ trợ của đồng nghiệp, cơ hội phát triển, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới, và chia sẻ những phần thưởng của thành công của tổ chức.” Khoa học thần kinh trong thập niên qua đã khám phá vô vàn kiến thức về chức năng cảm xúc nhưng rất nhiều lãnh đạo hiện nay vẫn không am tường về vấn đề này.

Ba lĩnh vực quan trọng dựa trên tri thức tâm lý khoa học có thể giúp cho mọi lãnh đạo hiện nay trở nên hiệu quả hơn là: quản lý lo lắng và sợ hãi; xử lý thay đổi và bất định; và động viên người khác. Một, biết quản lý sợ hãi và lo lắng của mình và nhân viên khi bị áp lực để giữ vững tinh thần và tín nhiệm của nhân viên và khách hàng là cực kỳ quan trọng. Tâm lý giúp được điều này nếu chúng ta ý thức những cảm xúc của mình, không để bị phần não Amygdala chiếm đoạt lấy phần não lý trí pre-frontal cortex/PFC. Hai, bộ óc con người thích những tình huống quen thuộc và có thể dự đoán được, và đương nhiên không thích rủi ro, cho nên nó nhìn thay đổi và bất định như là mối đe dọa. Hiểu được như thế, lãnh đạo tập làm quen và chịu đựng những khó chịu về cảm xúc để rộng mở tiếp thu các thông tin mới để cân nhắc, tính toán và rà soát lại chiến lược, thử thách và cơ hội đang gặp phải. Ba, con người chúng ta tự nhiên được động viên để tối đa hóa phần thưởng và tránh đau đớn. Vì thế khi lãnh đạo trừng phạt nhân viên vì lỗi lầm hay vì những lý do khác, họ giết chết sự sáng tạo, nhưng nếu họ xem lầm lỗi là cơ hội để học hỏi và phát triển, và ai mà không lầm lỗi, nó sẽ giúp cho nhân viên phát triển kỹ năng và muốn thử tìm các giải pháp mới, sáng tạo và tốt hơn.

Hiểu được động cơ con người, lãnh đạo có thể tối đa hóa sự tham dự và cam kết của nhân viên mình vì ai cũng muốn thấy mình có giá trị và các đóng góp của mình được trân trọng. Những lãnh đạo thất bại chủ yếu là vì thiếu kinh nghiệm và kỹ năng làm việc với người khác. Như đã trình bày trong loạt bài về Abraham Lincoln, tài năng xuất chúng của ông nằm ở chỗ ông hiểu tâm lý con người, nhất là những nhu cầu cảm xúc cá nhân của tất cả những người ông làm việc với.

Alphabet/Google là một trong những công ty thành công nhất và mô hình tiêu biểu trong thời đại nay vì nó tạo ra môi trường làm việc hiệu quả nhất. Họ nghiên cứu và hiểu rõ rằng an toàn tâm lý là tiêu chí quan trọng nhất để một đội làm việc với nhau hiệu quả nhất.

Chúng ta, ở trong bất cứ vai trò nào, là cha hay mẹ, anh hay chị, giáo viên hay công chức, lãnh đạo quốc gia hay một hội sinh viên v.v…, khi hiểu được điều này và biết áp dụng thì kết quả làm việc của mình sẽ tích cực và hiệu năng hơn nhiều.

Như thế, chúng ta cũng hiểu được vì sao những nền chính trị và văn hóa chuyên sử dụng tối đa bạo lực và sợ hãi không thể tiến bộ, nhất là về sự phát triển con người toàn diện. Đúng ra những tác hại do các chính sách cai trị này là vô cùng lớn lao, mà bài thơ “Từ Vượn Lên Người” của Nguyễn Chí Thiện đã phản ảnh thực tế này.

Cách sử dụng bạo lực, trừng phạt, chửi mắng, đe dọa v.v…, ngay cả với những người thân thương nhất, với con cái của mình, vẫn còn hiện hữu rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội vì chính chúng ta đã từng là nạn nhân. Không ý thức, chúng ta sẽ tiếp tục nuôi dưỡng và lan truyền từ đời này sang đời khác những thứ tệ hại nhất.

Tôi tin rằng con người và đất nước Việt Nam có thể vượt qua các chướng ngại, và có thể trở thành cao siêu, lớn mạnh và vĩ đại, vì chúng ta có khả năng như bao dân tộc khác. Nhưng với điều kiện là chúng ta hiểu được bản chất con người, tức thẩm thấu tâm lý và quyết tâm áp dụng nó. Khoa học thần kinh và tâm lý nói chung là kiến thức vô cùng quan trọng và là phương tiện để giúp chúng ta xây dựng một xã hội văn minh và tiến bộ, một đất nước dân chủ và nhân bản, cách đối xử với nhau hài hòa và nhân ái, để góp phần mang lại những cái hay nhất từ con người (bring out the best in people) thay vì mang ra những cái tệ hại nhất (bring out the worst in people) mà các chế độ cường quyền đã làm.

Chúng ta có thể nhận ra và nỗ lực giúp cho các thế hệ mai sau vượt qua chính mình để vươn lên cùng với các nền văn minh khác.

Phạm Phú Khải
Úc Châu, 12/10/2019

Tài liệu tham khảo:

1. Michael D. Matthews, “Psychology and the Study of Leadership”, Psychology Today, 14 June 2014.

2. Victor Lipman, “People Leave Managers, Not Companies”, Forbes, 4 August 2015.

3. Melanie Greenberg, “Why Today's Leaders Need to Know Psychology”, Psychology Today, 25 September 2013.