Tại sao phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

QĐND - Đất nước ta, dân tộc ta tồn tại và phát triển như ngày hôm nay là nhờ sức mạnh dựatrên nền tảng văn hóa Việt Nam. Ý thức rõ điều đó, trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX)cũng như Nghị quyết số 28-NQ/TW(khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, khi đề cập đến mục tiêu chiến lược, Đảng ta thể hiện rõ quan điểm bảo vệ Tổ quốc hiện nay không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... mà còn là bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nói đến bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là nói đến những tinh hoa, nhữnggiá trị bền vững được hunđúc,vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những giá trịấy, những tinh hoaấyđãtạonên những nét đặc sắc,riêngcóở cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trongcon người Việt Nam. Nét nổi bật của nền văn hóa truyền thống Việt Namlà tinh thần yêu nước thương nòi; tinh thần tự tôn dân tộc,tình đoàn kết, sốnghòa thuận,thủy chung, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý; lao động cần cù, sáng tạo; đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất… Cùng với đó, Việt Nam còn là quốc gia có truyền thống văn hóa chính trị, với quan điểm “Dân vi bản”, nước lấy dân làm gốc.Kế thừa và phát huytruyền thống văn hóa chính trị ấy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng quan điểm lấy dân làm gốc. Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Đảng ta xác định rõđó là "Nhà nước của dân, do dân và vì dân", cán bộ nhà nước là công bộc của dân... Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc với kết cấu bền vững: Đất nước bao gồm thôn, bản,làng, xã và có nhiều dân tộc cùng chung sống; mỗi làng, xã, thôn bản có phong tục, tập quán riêng... Chính sự gắnkết bền vững của nền văn hóa truyền thống,đậm đà bản sắc ấy là cội nguồntạo nên sức mạnhđểdân tộcViệt Namchiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi; xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.Bác Hồ của chúng tađãđúc kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước" (1).

Đảng ta xácđịnhbảo vệ Tổ quốcbằngsức mạnh tổng hợp, nhưngtrước hết, đó là sức mạnh tinh thần, sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam, sức mạnh của cả dân tộcViệt Nam. Không phải chỉ đến Nghị quyết số 28-NQ/TW(khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới Đảng ta mớiđặt ra vấnđề nàymà trong suốtquá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng mặt trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa truyền thống, văn hóa chính trịViệt Nam.Đặc biệtsự ra đời của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã đánh dấu bước phát triển mới về đường lốigiữ gìnvà phát huy nền văn hóa tiên tiến,đậmđà bản sắc dân tộccủa Đảng ta. Theo đó, phương hướng chung của sự nghiệp phát triểnvăn hóađượcĐảng tađề ralà “…phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nướcthời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục hoàn chỉnh: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.

Để phát huy sức mạnh tinh thần, sức mạnh văn hóa Việt Nam trong chiến lược bảo vệ Tổ quốcchúng ta phải làmnhiều việc, nhưng trước hếtphải tạo cho được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của sức mạnhtinh thần, sức mạnh của nền văn hóa đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh và mở rộng hợp tác quốc tế. Chỉ có nhận thứcđúng chúng tamớitạođượcsự đồng thuận, hành độngthống nhất, đề cao trách nhiệm, tâm huyết trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự chuyển biến về nhận thức đúng không phải thể hiện ở những lời nói suông, sách vở mà phải được thể hiện ở sự quan tâm chăm lobằngcác chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể nhằm huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triểnvăn hóa. Cán bộ, đảng viên và nhân dân phải coi trọng các giá trị văn hóa, nhất là các giá trị di sản văn hóa truyền thống. Đểtạo được điều ấy cốt lõi, không thể không nói tới vai trò củacông tác tuyên truyền, giáo dục. Đặc biệt, trong đó nền giáo dục Việt Namphảiđược đổi mới căn bản và toàn diện. Mục tiêu hướngđến của nền giáo dục nước nhà là phảiđào tạo,bồi dưỡng, xây dựng các thế hệ người Việt Nam mới vừa mang những phẩm chất cao quý, nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam, vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại đáp ứng yêu cầu ngày càng caocủa sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Phát triển nền văn hóa tiên tiến,đậmđà bảnsắc dân tộcphải luôn được đặt trong mối quan hệbiện chứngvới phát triển kinh tế-xã hội, vớixây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.Bởiđó là cơ sởđể chúng tamở rộng dân chủ, nâng caodân trí, bồi dưỡng nhân tàiphục vụsự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đời sốngkinh tế-xã hộiphát triển, dân chủ được phát huy,Đảng và chính quyền vững mạnh còn là cơ sở để chúng ta tôn trọng vàđảmbảo ngày càng tốt hơn cácquyềncon người. Khi đời sống vật chất, văn hóa tinh thần được nâng lên, quyền con người được bảo đảm sẽ tạo rađộng lựcđể con người Việt Nam phát huytính chủ động, tích cực, sáng tạo phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Mặt khác khilòngyêu nước,niềm tự hào, tinh thầntự tôn dân tộc được phát huy; tinh thần cố kết cộngđồng,đạiđoàn kếtdân tộc được tăng cường thì đó sẽlà nguồn sức mạnh tổng hợpvô cùng to lớnđể chúng taxây dựng và bảo vệ Tổ quốc...

Cùng với phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đấu tranh mạnh mẽ với những tư tưởng, quan điểm sai trái đi ngược lại văn hóa Việt Nam. Đặc biệt trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc quan điểm, chủ trương, đường lối phát triển nền văn hóa mới của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận những thành tựu về văn hóa mà nhân dân ta đã thu được. Nguy hiểm hơn, chúng luôn tìm cách kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; phủ nhận, hạ thấp ý nghĩa của các cuộc cách mạng; xuyên tạc, bóp méo lịch sử; phủ nhận chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Song hành với đó chúng ra sức tuyên truyền, cổ súy cho những hành vi phản văn hóa, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc;truyền bá, gieo rắc các giá trị văn hóa phương Tây… Do đó, cùng với xây dựng nền văn hóa mới, một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong tình hình hiện nay là phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi lẽ nền văn hóa ấy là những giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trở thành cốt cách, nền tảng của dân tộc Việt Nam. Chính nền tảng văn hóa ấy là yếu tố bảo đảm cho đất nước ta trường tồn và phát triển.

PHÙNG KIM LÂN

(1) - Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.17

(TG) - Nội lực văn hoá dân tộc vừa bao trùm bản sắc văn hóa vừa bao hàm bản lĩnh văn hóa dân tộc. Đây là nền tảng chủ yếu để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là “bộ lọc” các giá trị văn hóa ngoại nhập, chống lại những tác động phi văn hoá, phản văn hoá trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Tại sao phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đàn bầu là một loại nhạc cụ truyền thống độc đáo của người Việt Nam, được nhiều bạn bè quốc tế yêu thích. Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un đã từng chơi thử nhạc cụ này trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, tháng 3/2019.

Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, quy mô lớn, tác động tới tất mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóađã và đang tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau, hiểu biết, bổ sung, làm phong phú và hỗ trợ lẫn nhau trên lĩnh vực văn hoá. Thực tế cho thấy, tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế có thể khiến một quốc gia vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao kinh tế, kỹ thuật, công nghệ trong vòng vài ba chục năm; tuy nhiên, để trở thành một quốc gia phát triển về văn hoá thì lại khác. Một quốc gia giàu có về kinh tế, trong khoảng một thập kỷ có thể đổi mới, nâng cấp toàn bộ hạ tầng cơ sở, vật chất, kỹ thuật, nhưng cũng trong khoảng thời gian đó rất khó - thậm chí là không thể - thiết lập được một cơ sở hạ tầng văn hoá tiến bộ và phát triển, nếu quốc gia đó thiếu một nền tảng văn hóa làm “bệ đỡ”.

Văn hóa có mối quan hệ tương quan, biện chứng với chính trị, kinh tế, xã hội… Muốn đánh giá một nền văn hóa phát triển thì không thể không xét đến những khía cạnh, lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Có rất nhiều vấn đề đặt ra hiện nay khi xem xét, đánh giá thực trạng đời sống văn hoá nước ta trước tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Có người thì bi quan, cho rằng, trong khi đời sống kinh tế phát triển, con người có điều kiện tiếp cận, giao lưu với văn hoá của nhiều nước trên thế giới, nhưng đời sống tinh thần thì lại có những biểu hiện sa sút nghiêm trọng. Ngược lại, có người lại lạc quan, cho rằng mọi sự đều tốt đẹp, những hiện tượng tiêu cực, ngoại lai là “lẽ tự nhiên” và không đáng kể. Thật ra, bức tranh không chỉ có một màu, hoặc toàn tối hoặc toàn sáng.

Trước hết, cần khẳng định, trước tác động của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, đời sống văn hoá, xã hội của đất nước ta đã đạt nhiều kết quả và có những tiến bộ rõ rệt. Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, thiết thực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng(1)… Những kết quả và tiến bộ đó đã góp phần giữ gìn văn hoá dân tộc trước tác động của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng tạo nên những hệ lụy đối với văn hoá dân tộc. Đó là tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp... Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người hoài nghi, phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; mơ hồ, bàng quan, mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách mạng và kháng chiến làm cho chức nǎng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học nghệ thuật bị thu giảm. Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở...

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế, vấn đề đặt ra là dù hội nhập ở mức độ nào, có bị tác động ra sao, về góc độ văn hóa chúng ta phải luôn bảo đảm nguyên tắc “hoà nhập chứ không hoà tan”. Muốn làm được điều đó, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế chúng ta phải luôn phát huy được nội lực văn hoá dân tộc. Theo đó, cần chú ý đến một số phương diện cơ bản sau:

, nội lực văn hoá dân tộc ta hiện nay đã và đang có những bước chuyển biến toàn diện và sâu sắc. Đây là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ cả về quan niệm giá trị, chuẩn mực văn hoá; chuyển đổi về công nghệ, kỹ thuật và cơ sở vật chất của văn hóa; chuyển đổi về đội ngũ nhân sự, bộ máy hoạt động văn hoá; chuyển đổi lối sống, nếp tư duy, tầm nhìn, cách nhìn của cá nhân và cộng đồng với hàng loạt các nhu cầu văn hoá phong phú và đa dạng của nhân dân. Sự chuyển đổi này có cơ sở khách quan từ sự đổi mới toàn diện của đất nước mà cốt lõi cơ bản là phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Sự chuyển đổi này là kết quả của quá trình vận động phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn, xung đột vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan trong tiến trình đi lên của đất nước. Vì vậy, sự bình tĩnh và khách quan trong đánh giá các hiện tượng văn hóa - xã hội trước tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một yêu cầu lớn trong giai đoạn hiện nay.

Trong nền kinh tế thị trường, văn hoá là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thay đổi nếp nghĩ, cách làm; kích thích tính sáng tạo, năng động, nhưng trong môi trường đó, văn hoá cũng có thể nhiễm phải những căn bệnh của kinh tế thị trường: chủ nghĩa cá nhân phát triển, sùng bái đồng tiền, lối sống tiêu thụ, thực dụng... Không ít hoạt động văn hoá bị lôi cuốn vào xu hướng thương mại hoá, xuất hiện những sản phẩm văn hoá kém chất lượng chạy theo thị hiếu thấp kém. Đồng tiền xuất hiện với tư cách là thước đo các giá trị, nhưng cũng trở thành“thế lực” có khả năng “bóp méo” nhân cách con người, làm “biến dạng” nhiều giá trị văn hóa... Để khắc phục tối đa những mặt trái nêu trên, ngoài sự bài bản, căn cơ trong chủ trương, chính sách, sự nghiêm minh trong triển khai, thực hiện, nhất là sự “đủ tâm đủ tầm” của đội ngũ những người có trách nhiệm, thì việc nâng cao ý thức và bản lĩnh văn hóa trong mỗi người, mỗi tổ chức, cộng đồng phải được xác định là giải pháp quan trọng.

, chưa bao giờ sức ép của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá được sự hỗ trợ của công nghệ 4.0 tác động vào nền văn hóa dân tộc lại mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc như hiện nay. Sự đầu tư trực tiếp, gián tiếp của các công ty đa quốc gia và xuyên lục địa, sự giao lưu thương mại và dịch vụ với khối lượng hàng hóa khổng lồ, sự tăng cường dịch vụ du lịch, giải trí, sự mở rộng hệ thống thông tin trên hệ thống Internet... đã làm “tan băng” ở các quốc gia “đóng” và “sốt” lên ở những quốc gia “mở”. Ranh giới địa lý - biên giới hữu hình không cản nổi sự “xâm thực” của các trào lưu văn hóa xa lạ trên khắp thế giới. Sự phát triển của khoa học công nghệ vừa tạo thời cơ lớn, đồng thời đặt ra những thách thức lớn đối với Việt Nam. Theo đó, việc tiếp thu những điều tốt, điểm tương đồng, giá trị tích cực phải đi liền với không ngừng tỉnh táo phòng ngừa, loại trừ những cái xấu, dở, không phù hợp. Chủ động, mạnh dạn tiếp thu, tiếp nhận, tiếp biến, giao thoa phải đi liền với tinh tường, bản lĩnh, cảnh giác tránh “vơ bào vạt tép”, “ham thanh chuộng lạ” một cách mù quáng; không đánh mất mình, “hoà tan” bản sắc của mình. Đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới và tiếp biến văn hóa thế giới vào Việt Nam không chỉ nhằm góp phần quảng bá, nâng cao hình ảnh, vị thế đất nước mà còn là nhằm hiện thực hóa phương châm: văn hoá là động lực, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước tiến nhanh tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

, mối quan hệ giữa quốc gia - dân tộc và quốc tế trở thành một trong những vấn đề trung tâm của thời đại. Các dân tộc trong quá trình phát triển đang tìm cách kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tranh thủ thời cơ, chống lại các nguy cơ để tập trung xây dựng đất nước. Sức mạnh của sự liên kết cộng đồng được đặc trưng ở việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá và bản lĩnh văn hoá của dân tộc trong giao lưu quốc tế. Do đó, cùng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc và bản lĩnh dân tộc, chống lại xu hướng “đồng hoá” hay “nhất thể hoá” về văn hóa.

Bản sắc văn hoá là những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt văn hoá của cộng đồng này với cộng đồng khác, dân tộc này với dân tộc khác, quốc gia này với quốc gia khác. Đây là “gen” di truyền văn hoá của từng dân tộc - kết tinh ở truyền thống văn hoá dân tộc, thể hiện trong lối sống, phong tục, tập quán, trong các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần của cộng đồng. Trong giao lưu quốc tế, các dân tộc sẽ đánh mất sự tồn tại của mình nếu mất bộ “gen” di truyền văn hoá. Cần tránh sai lầm đồng nhất bản sắc văn hoá dân tộc với những hình thức thể hiện bên ngoài của nó. Bản sắc văn hoá dân tộc bao chứa cả “cái tĩnh” và “cái động”, “cái cổ truyền” và “cái hiện đại”, cả hình thức và nội dung, cả “cái ngoại sinh” được “nội sinh” hoá. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là quay về “phục cổ”, quay về với cái cũ mà phải căn cứ vào quan điểm phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Yêu cầu phát triển đất nước là tiêu chí để lựa chọn giữa cái cũ và cái mới, cái bên trong và cái bên ngoài, cái nội sinh và cái ngoại sinh. Tính tự giác của quá trình lựa chọn văn hóa sẽ khắc phục được tính tản mạn, tuỳ thuộc vào tầm nhìn, điểm nhìn, trình độ, nhân cách và bản lĩnh của chủ thể lựa chọn.

, phát huy nội lực của văn hoá dân tộc trước tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế chính là tạo nên một dòng chảy liên tục của truyền thống văn hóa dân tộc nhằm khẳng định bản sắc văn hoá và bản lĩnh văn hoá dân tộc. Truyền thống văn hoá là những giá trị văn hoá do lịch sử để lại được các thế hệ sau làm sống lại trong thời đại của mới. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam có hai dòng chủ lưu xuyên suốt là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo. Trong chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc, hai dòng chủ lưu này đã phát huy sức mạnh để đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh của hào khí Việt Nam. Ngày nay, sự thành công của quá trình đổi mới tuỳ thuộc vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của hai dòng chủ lưu, nếu bị xem nhẹ, không được thế hệ sau tiếp nối sẽ dẫn tới khủng hoảng văn hoá nghiêm trọng, đặc biệt là trước tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.

Như vậy, nội lực văn hoá dân tộc vừa bao trùm bản sắc văn hóa vừa bao hàm bản lĩnh văn hóa dân tộc. Đây là nền tảng chủ yếu để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là “bộ lọc” các giá trị văn hóa ngoại nhập, chống lại những tác động phi văn hoá, phản văn hoá trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Nội lực văn hoá chỉ thực sự phát huy được sức mạnh khi trở thành tinh thần tự giác của mọi thành viên trong xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là sự nghiệp phát triển đất nước một cách bền vững phải được đặt trên nền tảng văn hóa dân tộc, phải khơi dậy và phát huy tới mức cao nhất nội lực của một nền văn hóa đã được khẳng định trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, “văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”./.

TS. BÙI VĂN HUẤN

_________________________

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: , Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.64-65.