Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi hiện nay

Theo Dự án điều tra tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi lợn tại 5 tỉnh (Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Thái Bình, Nam Định năm 2015) của Cục Thú y cho thấy, có đến 100% số cơ sở chăn nuôi có sử dụng kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh cho lợn; 68% số cơ sở có sử dụng thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh để phòng bệnh và kích thích tăng trưởng; 24,4% số cơ sở tự trộn kháng sinh vào thức ăn chăn nuôi để phòng bệnh và kích thích tăng trưởng, trong đó 1,23% số hộ trộn bằng kháng sinh dạng nguyên liệu. Cũng theo Cục Thú y có đến 100% các cơ sở sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi, nhưng chỉ có 63% cơ sở tuân thủ đúng liều lượng và liệu trình sử dụng kháng sinh và các tỉnh ở Đông Nam bộ sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi nhiều hơn các tỉnh phía Bắc.

TP Hà Nội hiện có tổng đàn gia súc gia cầm hiện đứng ở tốp đầu cả nước với đàn trâu. bò trên 170 ngàn con trong đó bò sữa gần 15 ngàn con, đàn lợn 1,5 triệu con, đàn gia cầm, thủy cẩm hiện có 25 triệu con. Vê các cơ sở kinh doanh thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi, có tới 787 cửa hành buôn bán thuốc thú y trong đó cửa hàng buôn bán thuốc dược phẩm 545, cửa hàng buôn bán thuốc dược phẩm và vắc xin 218, cửa hàng buôn bán hóa chất 15. Có gần 100 công ty sản xuất thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi đóng trên địa bàn. Với số lượng đàn gia súc gia cầm lớn, bên cạnh đó môi trường chăn nuôi còn bị ô nhiễm nên người dân vân dùng kháng sinh với lượng lớn. Đối tượng dùng nhiều kháng sinh để phòng bệnh là gia cầm từ 1 đến 35 ngày tuổi và lợn từ sơ sinh đến cai sữa.

Lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi có thể phá vỡ cân bằng tự nhiên của hệ vi sinh vật đường ruột gây rối loạn quá trình tiêu hóa. Mối nguy hại chính của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi không đúng nguyên tắc, liều lượng, liệu trình dẫn đến vấn đề nhờn thuốc, tạo cơ hội cho vi sinh vật kháng lại thuốc. Lạm dụng kháng sinh gây ra sự tồn dư kháng sinh có trong thực phẩm không chỉ ảnh hưởng trước tiên đến vật nuôi mà còn gây nguy hại cho sức khỏe người tiêu dùng khi tiêu thụ thực phẩm do sự tồn dư kháng sinh. Đặc biệt, một số kháng sinh, hóa dược có thể gây ung thư cho người tiêu thụ.

Nguyên nhân tại sao người chăn nuôi lạm dụng kháng sinh thì có nhiều song có mấy nguyên nhân cơ bản đó là phương thức chăn nuôi ở Hà Nội vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ nên ý thức, hiểu biết của người dân còn hạn chế. Việc chăn nuôi nhỏ lẻ cũng là một nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh, việc quản lý dịch bệnh khó khăn chính vì vậy để chủ động phòng bệnh người dân tuy đã dùng kháng sinh nhưng dùng luôn kháng sinh để phòng bệnh. Bên cạnh đó việc tập huấn nâng cao trình độ chăn nuôi hiểu sâu về tác hại của Kháng sinh còn hạn chế nhất định. Nhiều Doanh nghiệp kinh doanh thuốc thú y vì lợi nhuận vần tăng cường quảng bá để bán được hàng mà không giới thiệu sâu về những tác hại, cơ chế ảnh hưởng của kháng sinh để người dân hiêu. Về chủ quan trên thực tế người chăn nuôi cũng nhiều người biết tác hại song vẫn dùng cũng vì do lợi nhuận. Do nhiều loại kháng sinh trên thị trường khó quản lý và còn có sự chồng chéo trong công tác quản lý. Tất cả những nguyên nhân trên nếu không có giải pháp mạnh, hữu hiệu sẽ có hậu quả nghiêm trọng.

Một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới đó là, trước mắt tập trung kiểm soát hoạt động kinh doanh doanh, buôn bán thuốc thú y và thức ăn chăn nuôi trên địa bàn. Quản lý hoạt động hành nghề thú y, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSTY và các hoạt động kinh doanh, buôn bán, hành nghề thú y theo quy định. Tập huấn phổ biến cho đội ngũ cán bộ thú y màng lưới từ huyện đến thú y thôn bản các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề sử dụng và hạn chế việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi. Tổ chức lấy mẫu kiểm tra nhanh sự tồn dư các chất cấm, các kháng sinh tồn dư tại các lò mổ, lấy mẫu kiểm tra, phân tích các mẫu thức ăn chăn nuôi đóng  trên địa bàn Thành phố.

Tăng cường hướng dẫn tới hộ chăn nuôi kỹ thuật chăn nuôi, tham mưu cac cấp chính quyền đầu tư kinh phí tập huấn cho các hộ chăn nuôi lớn. Các chính sách về hỗ trợ vác xin phòng bệnh để hạn chế dịch bệnh, người dân yên tâm không lo lắng dịch bệnh, không dùng kháng sinh để làm liều phòng, dần dần bỏ thói quen dùng kháng sinh đê phòng bệnh.

Triển khai thực hiện Thông tư 06 của Bộ Nông nghiệp & PTNT ngày 31/5/2016 ban hành danh mục, hàm lượng, kháng sinh được phép sử dụng trong thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiếp tục thực hiện ký cam kết với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi; các hộ chăn nuôi không sử dụng kháng sinh, chất cấm không được phép sử dụng.

Các giải pháp nêu trên phải thực hiện đồng bộ song phải có lộ trình thực hiện, vừa tăng cường quản lý vừa đẩy mạnh tuyên truyền, trong đó tăng cường phương thức tuyên truyên nguy cơ tác hại của việc lạm dụng kháng sinh để người chăn nuôi hiểu sâu và hạn chế áp dụng.

Trường hợp bất khả kháng vẫn phải dùng người chăn nuôi cần lưu ý một số nguyên tắc cơ bản đó là: Dùng kháng sinh càng sớm càng tốt: Nên dùng kháng sinh với liều cao ngay từ đầu, không được dùng liều nhỏ tăng dần để tránh hiện tượng vi khuẩn nhờn thuốc. Thuốc kháng sinh phải dùng đủ liều lượng, nếu dùng không đủ liều  sẽ không đủ lượng kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn. Khi đó gia súc, gia cầm không những không khỏi bệnh và còn gây hiện tượng vi khuẩn nhờn thuốc, con vật kháng kháng sainh, lần sau sử dụng kháng sinh sẽ ít hoặc không có hiệu quả điều trị. Phải dùng kháng sinh ít nhất 3 ngày liên tục cho đến khi hết các biểu hiện nhiễm khuẩn, sau đó dùng thêm 1- 2 ngày nữa rồi mới ngừng thuốc. Trong thực tế có nhiều người theo thói quen trong điều trị là khi tiêm 1 -2 mũi kháng sinh, thấy con vật bắt đầu ăn trở lại là ngừng ngay việc dùng thuốc, như vậy vi khuẩn bị nhờn kháng sinh và rất có khả năng tái nhiễm bệnh. Nếu sau một liều trình dài 5 -6 ngày dùng kháng sinh mà không thấy  khỏi bệnh nên đổi loại kháng sinh khác hoặc xem lại việc chẩn đoán bệnh. Hiện nay có nhiều người khi thấy con vật bỏ ăn là dùng ngay kháng sinh, điều này sẽ rất nguy hiểm vì  chính kháng sinh có thể làm cho con vật biểu hiện triệu chứng nặng hơn. Cần phải có chẩn đoán chắc chắn con vật đó đang có biểu hiện bệnh, đặc biệt biểu hiện viêm nhiễm trong cơ thể mới nên sử dụng kháng sinh. Không nên phối hợp quá nhiều loại kháng sinh, chỉ nên dùng kết hợp 2 loại kháng sinh cùng lúc, nếu sử dụng phối hợp quá nhiều loại kháng sinh thì vừa không có hiệu quả điều trị lại vừa gây cho vi khuẩn nhờn thuốc. Không nên lạm dụng thuốc kháng sinh: Trong thực tế hiện nay do trên thị trường quá sẵn các loại kháng sinh nên nhiều người dùng tràn nan, tuỳ tiện, cứ thấy con vật ốm là dùng ngay kháng sinh mà không chú ý đến chẩn đoán đúng bệnh. Nhiều trường hợp dùng kháng sinh trộn vào thức ăn để phòng bệnh, với liều phòng như vậy sẽ là nguy hiểm vì còn vật rơi vào trạng thái nhờn kháng sinh, hoặc chính kháng sinh đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của con vật.  Điều quan trọng khi dùng káng sinh là phải kết hợp với chẩn đoán bệnh mới đảm ảo an toàn và có hiệu quả.

Để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, không nên mổ thịt gia súc gia cầm ngay sau khi dùng kháng sinh mà phải sau một thời gian để con vật thải hết lượng thuốc tồn dư trong thịt. Thời gian này khác nhau tuỳ thuộc loại kháng sinh theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Mặt khác khi con vật bệnh phải dùng kháng sinh sẽ gầy yếu, giảm cân nên phải có thời gian nuôi để con vật hồi sức trở lại trạng thái khỏe bình thường mới đưa vào giết mổ để vừa đảm bảo an toàn thực phẩm vừa đạt được khối lượng tăng trọng khi xuất bán. Khi sử dụng kháng sinh cần kết hợp với bổ sung các loại Vitamim, các loại thuốc bổ trợ và đảm bảo khâu hộ lý, chăm sóc nuôi dưỡng tốt để nâng cao sức đề kháng cho con vật./.

Cục Thú y cho biết, hiện nay cả nước có tổng số 10.064 sản phẩm thuốc thú y được phép lưu hành, ba gồm 6.746 sản phẩm được sản xuất trong nước và 3.318 sản phẩm nhập khẩu. Cục Thú y đã và đang rà soát để rút khỏi Danh mục được phép lưu hành khoảng 1.052 sản phẩm.

Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi hiện nay
Người dân đang sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản 1 cách tràn lan, khó kiểm soát (Ảnh minh họa internet).

Thuốc thú y sản xuất trong nước đáp ứng trên 70% nhu cầu của thị trường tiêu dùng. Ngoài ra, hiện đã có gần 1.000 loại thuốc thú y của Việt Nam được xuất khẩu đến trên 40 nước trong khu vực và trên thế giới, kể cả các thị trường khắt khe như Hà Lan, Bỉ, Nga,…số lượng thuốc thú y xuất khẩu có chiều hướng gia tăng, với giá trị xuất khẩu thuốc thú y năm 2014 trên 18 triệu USD, năm 2015 trên 20 triệu USD.

Theo Cục Thú y, trong số các sản phẩm thuốc thú y trong nước có 4.637 (chiếm 68,7%) sản phẩm có chứa kháng sinh; được sản xuất từ 55 cơ sở sản xuất thuốc thú y đạt theo qui định về thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP).

Trong số các sản phẩm thuốc thú y nhập khẩu có 1.600 (chiếm 48,2%) sản phẩm có chứa kháng sinh; được sản xuất từ 345 nhà sản xuất của 49 nước. Việt Nam phải nhập hoàn toàn nguyên liệu thuốc kháng sinh từ các nước, nhiều nhất là từ Trung Quốc. Tổng số kháng sinh nguyên liệu nhập khẩu tăng từ năm 2015 (51 sản phẩm) đến năm 2016 (57 sản phẩm).

Sử dụng kháng sinh tràn lan trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản

Cục Thú y cho biết, trong năm 2015, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo Cục Thú y khảo sát thực trạng sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản tại một số tỉnh trọng điểm về nuôi tôm (Sóc Trăng và Bạc Liêu: Khảo sát 256 cơ sở nuôi tôm) và nuôi cá Tra (Bến Tre, Đồng Tháp và An Giang: Khảo sát 216 cơ sở nuôi cá Tra) đã có kết quả tổng thể như sau:

Năm 2015, có 472/708 (chiếm 66,7%) cơ sở nuôi tôm và cá tra sử dụng kháng sinh; trong đó có khoảng 50% số cơ sở sử dụng nguyên liệu kháng sinh.

Tại cơ sở sản xuất cá giống: Năm 2015, điều tra tại 139 cơ sở của 3 tỉnh (Bến Tre, Đồng Tháp và An Giang) cho thấy: Có 75,94% cơ sở sử dụng kháng sinh, bao gồm cả sử dụng kháng sinh nguyên liệu (30,69% trong tổng số cơ sở sử dụng kháng sinh). Có 40% cơ sở sử dụng kháng sinh phòng bệnh hoặc phòng cả trị bệnh; Các loại kháng sinh đang sử dụng bao gồm cả việc sử dụng kháng sinh cấm sử dụng và hạn chế sử dụng trong thủy sản: Enrofloxacin, Amoxiline, Florfenicol, Doxycycline, Tetracylin. Một số cơ sở nuôi dùng thuốc Enrofloxacin, Doxycycline, Cefamycin, Rifamycin trong nhân y để điều trị bệnh (An Giang, 2 cơ sở).

Ngoài ra, Cục Thú y thông tin thêm, trong số 146 cơ sở sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm thương phẩm, có 19,86% hộ sử dụng kháng sinh nhân y; 8,91% hộ nuôi sử dụng đồng thời cả kháng sinh nhân y và thú y; 42,47% hộ không rõ là mình đã sử dụng kháng sinh nhân y và thú y; còn lại chỉ sử dụng kháng sinh thú y.

Các hộ sử dụng kháng sinh để phòng bệnh thường được sử dụng từ khi nuôi đến khi tôm được từ 3 tháng tuổi sau thả. Một số hộ vẫn sử dụng thuốc cấm như Enrofloxacin, Chloramphenicol, hoặc sử dụng thuốc trong nhân y để điều trị bệnh tôm như Chloramphenicol 250mg, Doxycycline 100mg, Tetracylin 500mg.

Về vấn đề sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi, Cục Thú y thông tin, năm 2015, Cục Thú y cũng triển khai dự án điều tra tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi lợn tại 5 tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Thái Bình và Nam Định cho thấy: 100% số cơ sở chăn nuôi có sử dụng kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh cho lợn. 68% số cơ sở có sử dụng thức ăn chăn nuôi chứa kháng sinh để phòng bệnh và kích thích tăng trưởng. 24,04% số cơ sở tự trộn kháng sinh vào thức ăn chăn nuối để phòng bệnh và kích thích tăng trưởng, trong đó 1,23% số hộ trộn bằng kháng sinh dạng nguyên liệu.

Các loại kháng sinh được nhiều cơ sở chăn nuôi sử dụng là: Amoxicillin, Tylosin, Tetracyclin, Lincomycin, Gentamycin, Tylosine, Enrofloxacin, Neomycin. Có khoảng 3% số cơ sở đã từng sử dụng loại kháng sinh thuộc Danh mục hạn chế/cấm sử dụng trong chăn nuôi.

So sánh sự khác nhau giữa nguyên liệu kháng sinh thô với thuốc thú y có hàm lượng kháng sinh, ông Phạm Tiến Dũng, Trưởng phòng Thanh tra chuyên ngành – Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) cho biết: Kháng sinh nguyên liệu là chưa có tá dược phối chế để cho ra thuốc, hàm lượng kháng sinh đạt 98-99%. Khi vật nuôi ăn vào khỏi bệnh rất nhanh và bao giờ cũng quá ngưỡng điều trị. Còn dùng nguyên liệu kháng sinh này pha chế thành thuốc thú y, khi vật nuôi ăn vào sau 1 thời gian sẽ tự đào thải hết kháng sinh, không còn tồn dư trong thịt, cá nữa.

Nguyễn Dương