Vận dụng phạm trù cái chung, cái riêng vào học tập

Vận dụng phạm trù cái chung, cái riêng vào học tập

Link tải miễn phí luận văn LỜI MỞ ĐẦUViệt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn đang ở trình độ thấp. Trong cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, ngành công nghiệp lạc hậu chưa có thành tựu nào quan trọng đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, ngành dịch vụ vẫn còn non trẻ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển để trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.Trong những năm gần đây, chúng ta đã bước đầu chú trọng phát triển ngành dịch vụ, tạo điều kiện để thúc đẩy ngành dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, trong đó hoạt động ngân hàng chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, ngành ngân hàng tại Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước nhà. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là cặp phạm trù triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức. Chính vì lý do đó Nhóm 9 đã chọn nội dung: Cái chung, cái riêng và vận dụng mối quan hệ giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất trong việc phát triển Ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận của nhóm. .PHẦN I: NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNGI. Khái niệm1. Phép biện chứng duy vật và các cặp phạm trù cơ bảna. Phép biện chứng duy vật:Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”1 và “Phép biện chứng (…) là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”2. V.I.Lênin viết “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”3. Hồ Chí Minh đánh giá “Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”4. Có thể hiểu phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác.b. Các cặp phạm trù cơ bản Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản. Chúng được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội.Phạm trù là khái niệm hàm chứa chung nhất, khó xác định trong khuôn khổ một lý thuyết nói riêng hay ngành khoa học nào đó nói chung. Phạm trù được xem là thành phần kết cấu của sơ đồ phạm trù xác định quy trình tư duy. Mỗi phạm trù nhờ khả năng giải mã cũng là yếu tố lưu giữ trạng thái quy trình. Phạm trù được dùng trong việc hệ thống hóa kiến thức qua quá trình nhận thức, trong đó chúng đóng vai trò ấn định tên cho đề mục. Cùng với những định nghĩa trên phạm trù còn được công nhận trong sự hình thành siêu ngôn ngữ mà thành phần của nó là các định nghĩa "lớp kiến thức". Phạm trù là đơn vị đặc biệt bảo đảm quá trình chuyển dịch kiến thức (knowledge transfer) trong nghiên cứu liên ngành. Phạm trù ghi giữ các lớp kiến thức, các giai đoạn và các yếu tố của quá trình nhận thức, vì thế nó thuộc về hệ thống quản lý kiến thức. Phạm trù cho phép liên hệ bất cứ kiến thức nào với triết học và ngược lại, liên hệ triết học đến bất kỳ lĩnh vực kiến thức nào. Tuy có sự chú ý đáng kể đối với phạm trù nhưng ứng dụng chúng vào quá trình nhận biết thế giới vẫn diễn ra ở mức cảm tínhTrong phép biện chứng duy vật có sáu cặp phạm trù cơ bản:1- Cái riêng - cái chung - cái đơn nhất.2- Nguyên nhân - kết quả.3- Tất nhiên - ngẫu nhiên.4- Nội dung - hình thức.5- Bản chất - hiện tượng.6- Khả năng - hiện thực.2. Cặp phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất và vị trí của cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật:Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh những sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh giữa những sự vật, hiện tượng này với những sự vật, hiện tượng khác; phân biệt chỗ giống nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi đến sự phân biệt cái riêng, cái chung. Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định và cái đơn nhất. Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật, nhiều hiện tượng. Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với nhau.

Xem link download tại Blog Kết nối!

 

 

Vận dụng phạm trù cái chung, cái riêng vào học tập

 

Download Tiểu luận Vận dụng cặp phạm trù cái chung cái riêng vào phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay miễn phí MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1NỘI DUNG 2I/ CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG-CÁI CHUNG LÀ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC 21/ Định nghĩa cái chung – cái riêng 22/ Mối quan hệ biên chứng giữa cái riêng-cái chung 23/ ý nghĩa phương pháp luận 3II/ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG( KTTT ) 41/ Khái quát chung về kinh tế thị trường 42/ Khái niệm về KTTT 4III/ VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG CÁI CHUNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 41/ Đặc trưng chung của nền KTTT 42/ Bản chất của nền KTTT định hướng XHCN 53/ Nguyên tắc hình thành 74/ KTTT định hướng XHCN 85/ Định hướng XHCN của KTTT ở Việt Nam 8III/ THỰC TRẠNG VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KTTT THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 91/ Thực trạng và quá trình xây dựng KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 92/ Thành tựu và hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 103/ Mục tiêu KTTT định hướng XHCN 114/ Để hiện thực hoá mô hình KTTT định hướng XHCN, cần thực hiện tốt những đièu kiện và giải pháp sau đây 12IV/ NỀN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN DƯỚI CÁI NHÌN CỦA QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN 13KẾT LUẬN 15TÀI LIỆU THAM KHẢO 16 LỜI NÓI ĐẦU Chiến lược phát triển kinh tế là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng vậy việc nghiên cứu xây dựng phát triển nền kinh tế là vấn đề rất quan trọng chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH cho nên việc đi sâu tìm hiểu nền kinh tế đã được Đảng và Nhà nước tiến hành triệt để, nghiêm túc đã đưa nước ta từ cùng kiệt nàn, lạc hậu phát triển như ngày nay. Nước ta còn là một nước nông nghiệp lạc hậu do phải gánh chịu hậu quả của chiến tranh để lại. Với những dư âm của xã hội phong kiến, nền kinh tế quan liêu bao cấp, nên để khắc phục khó khăn này đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, ổn định nền kinh tế xã hội tạo điều kiện vững chắc cho đất nước phát triển thì Đảng và Nhà nước đã sáng suốt lựa chọn mô hình kinh tế thị trường, định hướng XHCN làm kim chỉ nam cho chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy đường lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường, hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Hoà chung nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước thách thức mới với nhiều thuận lợi và khó khăn đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn đúng đắn con đường phát triển kinh tế. Theo quan điểm của các nhà triết học, kinh tế học để thu được kết quả tốt phải ứng dụng nền kinh tế thị trường vào thực tiễn đúng hướng, thích hợp với môi trường của mỗi quốc gia và những điều kiện khách quan chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam là bộ phận của nền kinh tế thế giới vì vậy phải có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước để phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển vì một xã hội nhân văn. Vì vậy em đã chọn đề tài: "Vận dụng cặp phạm trù cái chung cái riêng vào phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay" với mong muốn được tìm hiểu nhiều hơn về nền kinh tế Việt Nam. NỘI DUNGI/ CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG-CÁI CHUNG LÀ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC1/ Định nghĩa cái chung – cái riêng1. 1/ Định nghĩa cái riêngCái riêng là phạm trù triết họcdùng để chỉ một sự vật một hiện tượng, một quá trình riềng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một hiên tượng kinh tế, một giai đoạn xã hội, một con người vv…1. 2/ Định nghĩa cái chungCái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ tồn tại không chỉ ở một sự vật mà trong nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mac-xít về vật chất, vân đong, không gian, thời gian vv…2/ Mối quan hệ biên chứng giữa cái riêng-cái chung2. 1/ Quan điểm của một số nhà triết học về mối quan hệ giữa cái chung-cái riêngTrong lịch sử triết học tồn tại hai quan điể trái ngược nhau về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung của phái duy thực và phaí duy danh. Phái duy thực: Cho rằng, chỉ có cái chung mới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, không phụ thuộc vào cái riêng, sinh ra cái riêng. Phái duy danh: Cho rằng, chỉ cái riêng mới tồn tại khách quan, cái chung chỉ là những từ trống rỗng, do tư tưởng của con người sáng tạo ra. 2. 2/ Triết học Mác khẳng địnhCả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau. Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự rồn tại của mình. Tức là cái chung không tồn tại thuần tuý bên ngoài cái riêng, mà nó phải thông qua cái riêng. Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. Tức là không có cái riêng nào tồn tại độc lập, mà cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Như vậy sự vật hiện tượng nào cũng có hai mặt là cái riêng và cái chung, hai mặt này đều tồn tại khách quan. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung bởi ngoài những cái ra nhập với cái chung, nó còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó phản ánh những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Vì vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật. Nêu lên mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, Lênin viết “…Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chấy của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi mặt riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không tham gia đầy đủ vào cái chung…Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng ngàn sự chuyển hoá mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác ( Sự vật, hiện tượng, quá trình )Đó là những quan hệ giữa cái riêng và cái chung về mặt phương pháp luận theo các quan điểm của cacs trường phái triết học. Và theo quan điểm hiện nay thì quan điểm triết học Mác-Lênin là cơ sở, là tiền đề, phương pháp luân của triết học. 3/ Ý nghĩa phương pháp luậnCái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau nên khi khi vận dụng vào giải quyết vấn đề lợi ích của con người phải chú ý đến cả cái riêng và cái chung ( lợi ích chung, riêng ). Nếu như chỉ chú ý đến lợi ích chung mà không quan tâm đến lợi ích riêng thì phá vỡ sự tồn tại của tập thể, ngược lại chỉ thấy được lợi ích của cái riêng sẽ dẫn đến cá nhân ích kỉ, tách ra khỏi tập thể. Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng nên khi ứng dụng bất kì một cái chung nào cần được cá biệt hoá vào những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Cái chung chỉ tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Vì vậy muốn phát hiện cái chung cần thông qua nhiều cái riêng. Tuyệt đối hoá cái chung sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện. Tuyệt đối hoá cái riêng sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm. II/ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG (KTTT)1/ Khái quát chung về kinh tế thị trườngKTTT xuất hiện sớm từ các nước TBCN và nhanh chóng đưa nền kinh tế các nước này phát triển một cách mạnh mẽ. KTTT trong CNTB tạo ra sự bóc lột của đồng tiền. Điều này dẫn đến nền KTTT đi ngược lại tiến bộ xã hội, phản nhân đạo. KTTT đi sâu, xâm nhập vào từng quóc gia, đưa các nước đó phá triển và dẫn tới sự phát triển đồng bộ nền KTTT trên toàn thế giới. Ở Việt Nam KTTT được hình thành và phát triển từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 1986 ) được phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Cho nên chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. 2/ Khái niệm về KTTT

Xem link download tại Blog Kết nối!