Xu hướng phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
2 MỤC LỤC I. Tổng quan và thực trạng giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam hiện nay ........................................... 3 I.1. Tổng quan GDĐH Việt Nam .............................................................................................. 3 I.2. Thực trạng GDĐH Việt Nam ............................................................................................. 4 II. Những cơ hội của GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế .............................................. 7 II.1. Tiếp cận các hệ thống kiểm định chất lượng GDĐH theo chuẩn khu vực và quốc tế ............ 7 II.2. Cập nhật và chuẩn hóa chương trình đào tạo (CTĐT) phù hợp với khu vực và quốc tế ....... 7 II.3. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ giảng viên theo chuẩn khu vực và quốc tế ......................... 9 II.4. Đẩy mạnh tự chủ đại học và tăng nguồn vốn đầu tư cho các cơ sở GDĐH ......................... 10 III. Những thách thức của GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế .................................. 10 III.1 CTĐT chưa đạt chuẩn ................................................................................................... 10 III.2. Tiêu cực và bệnh thành tích trong thi cử ........................................................................ 12 III.3. Mức độ cạnh tranh cao trong GDĐH ............................................................................. 12 III.4. Cơ sở vật chất phục vụ cho GDĐH ................................................................................ 13 III.5. Trình độ quản lí trong GDĐH ....................................................................................... 13 III.6. Thiếu CTĐT bằng tiếng Anh cho sinh viên quốc tế ......................................................... 14 IV. Kết luận ............................................................................................................................................... 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................ 17
3 I. Tổng quan và thực trạng giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam hiện nay I.1. Tổng quan GDĐH Việt Nam Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp [1]. Hệ thống GDĐH Việt Nam mang tính mở, phát triển theo hướng đa ngành, đa nghề, đa địa phương, xã hội hóa. Cả nước có 237 trường đại học, đạt mức bình quân trường đại học trên đầu người xấp xỉ 1:410.000 (với dân số 97 triệu hiện nay), được phân làm 2 nhóm chính: công lập 172 trường và tư thục 65 trường; đại học công lập giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống GDĐH Việt Nam với tỉ lệ hơn 72% tổng số các cơ sở GDĐH [2]. Đối với đại học công lập có hai cơ chế hoạt động chính, đó là nhà nước kiểm soát và tự chủ. Với cơ chế tự chủ các trường đại học sẽ được quyền quyết định về vấn đề nhân sự, chương trình đào tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học và thu chi tài chính. Theo quy hoạch, tổ chức các cơ sở giáo dục đại học gồm các hệ thống trường đại học tập hợp nhiều trường đại học thành viên cùng với các trường đại học chuyên ngành, đa ngành và học viện. Đối với đại học tư thục, từ năm 1988 Việt Nam đã có chủ trương xã hội hóa giáo dục, cấp phép cho đại học tư thục được hoạt động. Đại học tư thục là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giáo dục được kiểm soát và quản lí bởi một cá nhân hoặc một tổ chức trong nước hoặc ngoài nước. Tuy nhiên, kể từ ngày 17/04/2009 Bộ GD và ĐT đã ngừng cấp phép đào tạo nhóm ngành giáo dục, luật, chính trị, báo chí, công an, quân đội cho các trường đại học tư thục (theo quyết định số 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
4 Bộ GD và ĐT là cơ quan quản lí cao nhất của Nhà nước về giáo dục nhưng chỉ quản lí khoảng 20% số trường đại học, còn lại trực thuộc các bộ ngành, cơ quan ngang bộ, địa phương, chẳng hạn như: ĐH Công nghiệp thực phẩm TPHCM thuộc Bộ Công thương, ĐH Tài chính – Marketing thuộc Bộ Tài chính, ĐH Tôn Đức Thắng thuộc Tổng Liên đoàn Lao động VN, ĐH Y Dược TPHCM thuộc Bộ Y tế, ĐH Quốc gia TPHCM và ĐH Quốc gia Hà Nội thuộc Chính phủ.... và nhiều trường đại học cấp địa phương ở khắp các tỉnh thành trong cả nước như: ĐH Sài Gòn thuộc UBND TP.HCM, ĐH Bạc Liêu thuộc UBND tỉnh Bạc Liêu, ĐH Thủ Dầu Một thuộc UBND tỉnh Bình Dương,.... Hệ thống văn bằng GDĐH bao gồm 4 loại: (1) bằng cử nhân, (2) bằng thạc sĩ, (3) bằng tiến sĩ và (4) các văn bằng đối với ngành đào tạo đặc thù như bác sĩ y khoa, dược sĩ, kiến trúc sư... Thời gian đào tạo GDĐH gồm bậc đại học và sau đại học từ 9 đến 10 năm, theo lộ trình đại học 4 năm, thạc sĩ 2 năm, tiến sĩ 3-4 năm. Phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong GDĐH được áp dụng từ năm học 1993-1994, thay thế cho học chế học phần trước đây. I.2. Thực trạng GDĐH Việt Nam Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường. Nhưng giáo dục khi xã hội chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thì lại nảy sinh nhiều vấn đề tranh cãi gay gắt. Thực trạng GDĐH Việt Nam còn rất nhiều vấn đề bất ổn như gian lận trong tổ chức thi cử; nạn mua bán bằng cấp; phương pháp dạy, giáo trình, cơ sở vật chất lạc hậu; trình độ tiếng Anh của sinh viên không đạt yêu cầu, vấn đề tự chủ đại học,.... Đây là những vấn đề mang tính phổ biến mà các nhà nghiên cứu giáo dục và người dân cả nước đang rất quan tâm hiện nay. Ngân sách đầu tư cho GDĐH còn thấp. Hiện Việt Nam phân bổ 5% tổng GDP của cả nước cho giáo dục, riêng giáo dục bậc đại học được đầu tư 0,33%
5 (chiếm 6,1% tổng mức đầu tư của Chính phủ cho giáo dục). Mức đầu tư này rất thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Hình 1. So sánh mức đầu tư cho GDĐH của Việt Nam và một số nước trên thế giới (Nguồn: Hội thảo Giáo dục 2020; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội) Về xếp hạng các trường đại học, theo bảng xếp hạng của Times Higher Education (2020), có 3 trường đại học của Việt Nam được xếp hạng trong top 500 trường đại học nền kinh tế hàng đầu ở các mới nổi. Cụ thể, Đại học Quốc gia Hà Nội thuộc nhóm 201-250; Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 251-300; tiếp theo là Đại học Quốc gia TPHCM thuộc nhóm 401-500. Số lượng sinh viên đạt yêu cầu tiếng Anh thực sự không nhiều và số này hầu hết thuộc nhóm chuyên ngành, còn lại rất đáng lo ngại. Được học tiếng Anh từ bậc tiểu học cho tới khi lên đại học, chưa kể việc học thêm ở các trung tâm Anh ngữ, nhưng nhiều sinh viên không đủ điều kiện tốt nghiệp do còn nợ môn tiếng Anh. Điều này gây lãng phí cho xã hội, gia đình và cho chính bản thân người học. Năng lực ngoại ngữ kém còn dẫn đến một thực trạng khác cũng phổ biến là sinh viên khó xin việc làm. Không ít sinh viên khi xin việc không đáp ứng
6 được yêu cầu về kỹ năng, khả năng giao tiếp tiếng Anh của các doanh nghiệp khi cần tuyển dụng nhân lực có trình độ cao. Thiếu định hướng nghề nghiệp là một trong những vấn đề lớn nhất mà sinh viên VN gặp phải. Nhiều sinh viên chưa có định hướng rõ ràng về ngành học của mình. Một số chọn ngành theo sự sắp đặt của cha mẹ, hoặc theo xu hướng đám đông mà không biết có thật sự phù hợp với khả năng của mình hay không. Chính điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực đầu ra yếu kém, khó đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Chú trọng lý thuyết hơn thực hành trong phương pháp giảng dạy đã khiến cho sinh viên không nắm bắt được thực tế công việc, bởi luôn có khoảng cách từ lý thuyết đến thực hành, dẫn đến số lượng sinh viên xin việc rất nhiều nhưng ít người có thể đáp ứng nhu cầu công việc thực tế ở các doanh nghiệp. Sinh viên yếu về kỹ năng mềm hay còn gọi là kỹ năng thực hành xã hội, như giao tiếp tiếng Anh (cũng do năng lực tiếng Anh kém), kỹ năng làm việc nhóm, xử lý vấn đề,.... Bên cạnh đó, còn những kỹ năng khác như tin học, sử dụng các phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ công việc. Sinh viên yếu kỹ năng mềm sẽ khó hòa nhập và làm việc thiếu hiệu quả, do vậy mất đi cơ hội được các doanh nghiệp tuyển dụng. Tự chủ giáo dục đại học được thực hiện từ năm 2015, sau khi có Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ; đặc biệt từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Bước đầu đạt một số kết quả đáng khích lệ, giảm thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh hoạt trong mọi hoạt động, từ đào tạo và nghiên cứu khoa học đến tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính,…. Tuy vậy vẫn còn một số vướng mắc, khó khăn nhất định trong vấn đề thu chi tài chính, chi trả lương, việc bổ nhiệm, bãi nhiệm hiệu trưởng, trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng trường,.... Ví dụ điển hình như vụ việc Trường đại học Tôn Đức Thắng gây ồn ào trong dư luận trong thời gian vừa qua.
7 II. Những cơ hội của GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế II.1. Tiếp cận các hệ thống kiểm định chất lượng GDĐH theo chuẩn khu vực và quốc tế Trong xu thế phát triển GDĐH của Việt Nam và thế giới để chuẩn hoá hoạt động và nâng cao chất lượng đào tạo Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục đã đưa ra bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học. Bộ tiêu chí này nhằm đảm bảo chất lượng đầu vào, chất lượng đầu ra và quá trình hoạt động. Song song với điều này là việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục, với mục tiêu là xếp hạng các trường đại học thông qua một tổ chức kiểm định độc lập. Kết quả xếp hạng này cho thấy được chất lượng của từng cơ sở để căn cứ vào đó các đơn vị giáo dục nước ngoài có cái nhìn toàn diện hơn về hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Như vậy, nếu như bộ các tiêu chí kiểm định cũng như quá trình kiểm định càng tiến gần tới chuẩn quốc tế thì càng mở ra cho GDĐH những cơ hội hợp tác, giao lưu và trao đổi sinh viên, giảng viên và các chương trình đào tạo giữa các trường, các tổ chức giáo dục tại Việt Nam cũng như trên thế giới trở nên dễ dàng hơn. II.2. Cập nhật và chuẩn hóa chương trình đào tạo (CTĐT) phù hợp với khu vực và quốc tế Ngày nay cùng với sự phát triển công nghệ thông tin thì sinh viên có thể tiếp cận nhiều nguồn thông tin và kiến thức mở vậy nên các trường cũng phải chuyển mình theo xu hướng hội nhập quốc tế, thường xuyên cập nhật chương trình đào tạo mới phù hợp với từng thời điểm với chủ trương “đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội”. Như vậy, CTĐT phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn xã hội. Từ đó, các trường tự quyết định phân bổ đầu tư về cơ sở vật chất, đầu tư
8 cho nguồn lực giảng dạy. Nếu nắm bắt được những nhu cầu ở trên thì các trường và các tổ chức mới có thể thu hút được nguồn sinh viên đầu vào. Thế giới ngày nay đang thay đổi từng giây với tốc độ nhanh chóng. Trong bối cảnh ấy, mọi dân tộc hay quốc gia trên thế giới đang dần phá vỡ những rào cản biên giới để tiến tới hoà lại làm một trở thành ‘thế giới phẳng’. GDĐH Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Quốc tế hoá chương trình đào tạo đại học được cho là một cách để nâng cao vị thế trong khu vực và hợp tác quốc tế, tăng khả năng hội nhập trong lĩnh vực giáo dục. Mở rộng quan hệ và hợp tác giữa bộ GD&ĐT giữa nhiều quốc gia, đưa những chương trình giáo dục nước ngoài áp dụng một cách linh động vào các trường đại học. Ngoài ra nhận thấy tiềm năng trong sự phát triển và chuyển mình mạnh mẽ trong giáo dục đại học thì các tổ chức giáo dục nước ngoài đã mở ra những trường đại học, những viện đào tạo tại VN mang tầm chuẩn quốc tế, ví dụ Vin University của tập đoàn Vingroup. Hoặc cũng có thể là sự liên kết chương trình đào tạo giữa đối tác trong và ngoài nước. Điều này mang đến nhiều sự lựa chọn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của sinh viên hiện nay. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì có sự xuất hiện rộng rãi các mô hình học tập mới ứng dụng công nghệ thay cho các phương pháp giáo dục truyền thống hiện nay là một điểm cần được các trường đại học chú trọng. Thay vì giáo dục ngang bằng cho tất cả mọi sinh viên thì thông qua những tiến bộ công nghệ như các phần mềm đánh giá cho phép người quản lí và các giảng viên thiết kế nhanh chóng lộ trình học tập cho từng cá nhân học viên phù hợp với khả năng và tốc độ tiếp thu kiến thức theo nhu cầu của họ. Qua đó, nâng cao được chất lượng đào tạo cũng như chất lượng sản phẩm đầu ra của các trường. Thay cho mô hình giáo dục đào tạo như trước đây chỉ tập trung vào cung cấp cho người học kiến thức và kỹ năng để họ trở thành người có kỹ năng cao
9 thì GDĐH hiện nay quan tâm nhiều hơn tới việc dạy cho sinh viên cách tự học, cách tư duy, cách đánh giá các tình huống, khả năng giải quyết vấn đề,... Như vậy, nếu các trường đại học bắt kịp và ứng dụng những tiến bộ công nghệ thông tin sẽ giúp họ có thể đạt được mục tiêu trên một cách nhanh chóng hơn. Quá trình hội nhập quốc tế ở mức độ nào đó sẽ giúp Việt Nam đào tạo nhanh chóng thêm nhiều sinh viên tốt nghiệp với chuẩn đầu ra quốc tế với mức chi phí rẻ hơn. Chính lợi thế này đã thu hút càng nhiều sinh viên nước ngoài đến các trường, tổ chức giáo dục đại học tại Việt Nam. Những sinh viên này mang đến nguồn tài chính cho các tổ chức giáo dục nhưng bên cạnh đó cũng thúc giục sự thay đổi trong những tổ chức này để hướng tới sự phát triển trong thực hành giảng dạy cũng như chất lượng cao hơn đế đáp ứng nhu cầu sinh viên quốc tế. II.3. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ giảng viên theo chuẩn khu vực và quốc tế Ngày nay những nhà lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học không chỉ chuyên môn giỏi mà còn được bồi dưỡng khả năng quản lí. Họ thường là những người được đào tạo ở các nước có nền giáo dục đại học tiên tiến. Nhờ vậy họ có lối tư duy tiên tiến và hiện đại trong việc thay đổi luồng tư duy lối mòn cũ, có định hướng chiến lược phát triển lâu dài từng bước tiệm cận với giáo dục quốc tế. Ngoài ra với sự đầu tư lớn nguồn vốn cho những người giỏi, tài đi học tập tại các nước tiên tiến, những người nay trở về mang theo kiến thức mà kỹ năng mà họ học được về đóng góp cho sự phát triển của giáo dục nước nhà. Đã có hàng ngàn người thầy bao gồm Giáo sư & Phó Giáo Tiến sĩ, Thạc sĩ được đào tạo ở nước ngoài đang giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống GDĐH. Họ được mong đợi là những người mang lại sự thay đổi, đóng góp cho sự đổi mới theo hướng phát triển hội nhập của chương trình giảng dạy và nghiên cứu, tiến tới tiêu chuẩn giáo dục đại học ở tầm khu vực và quốc tế.
10 II.4. Đẩy mạnh tự chủ đại học và tăng nguồn vốn đầu tư cho các cơ sở GDĐH Hiện tại Bộ Giáo dục và đào tạo cũng đã dần trao quyền tự chủ cho các trường đại học trở lại đúng chức năng nhiệm vụ là định hướng phát triển, xây dựng hành lang pháp lí để thanh tra và kiểm tra thay vì đi sâu vào những vấn đề cụ thể của các trường. Từ đó mở ra môi trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh cho các trường và tăng cường tính sáng tạo, năng động để đổi mới đi kịp thời đại không để bị tụt lại phía sau. Tư duy giáo dục đại học đổi mới trong chính sách của nhà nước thì quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm với những chính sách riêng của từng trường chính là động lực để các trường vươn xa ra khỏi tầm khu vực. Ngày nay, việc đầu tư từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới đang tăng lên với nhiều dự án khác nhau được hỗ trợ không chỉ tài chính mà còn cả về mặt kĩ thuật. Chính bằng cách này đã có nhiều chương trình, dự án có uy tín giúp các trường các tổ chức GDĐH Việt Nam thay đổi tích cực về nhiều mặt như: tiêu chuẩn đào tạo, cách quản lí chương trình giảng dạy, tăng giảng dạy thực hành,… III. Những thách thức của GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế III.1 CTĐT chưa đạt chuẩn CTĐT chưa đạt chuẩn với các nước trong khu vực châu Á và trên thế giới. Cần cập nhật, đổi mới CTĐT để bắt kịp với khu vực và trên thế giới. Từ đó, chúng ta từng bước nâng cao giá trị văn bằng theo các tiêu chuẩn quốc tế. Việc chuyển đổi hình thức đào tạo từ niên chế sang tín chỉ giúp đáp ứng nhu cầu của người học, nhờ tính linh hoạt và mềm dẻo của nó. Tuy nhiên, hình thức tín chỉ vẫn còn có nhiều nhược điểm, như là tính liên thông, tính liên kết ngang – dọc vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Đây chính là một trong những khó khăn cần được
11 tiếp tục khắc phục khi bước vào hội nhập quốc tế. Hiện nay, văn bằng giáo dục trong nước không được công nhận ở các nước trong khu vực và trên thế giới nên người học vẫn chưa thấy được mối liên kết giữa giáo dục trong nước và quốc tế. Điều này buộc các sinh viên trong nước khi có mong muốn học lên các chương trình nâng cao của nước ngoài phải học lại từ đầu. Ví dụ như, CTĐT bác sĩ đa khoa ở Việt Nam và Mỹ có sự khác nhau rõ rệt. Tại Mỹ, thời gian để trở thành bác sĩ trung bình khoảng 12 năm với 4 năm đại học với những môn khoa học cơ bản (hóa, sinh, tâm lý...). Sau đó trải qua kỳ thi Medical College Admission Test (MCAT) đạt điểm cao cùng với phỏng vấn và các hoạt động ngoại khóa và nghiên cứu thì sinh viên mới được học chương trình Y khoa (Doctor of Medicine hoặc Doctor of Osteopathy). Chương trình này kéo dài 4 năm, sau đó các sinh viên y qua 2 kỳ thi hành nghề quốc gia (United States Medical Licensure Examinations – USMLE 1 và 2). Với kỳ thi USMLE 2 có 2 kỳ thi là kiến thức y khoa và kỹ năng giao tiếp lâm sàng). Các sinh viên vượt qua cả 2 kỳ thi này thì được tốt nghiệp ngành y. Tiếp theo, tất cả các sinh viên phải làm bác sĩ nội trú từ 3 năm đến 7 năm. Trong giai đoạn này các bác sĩ cần phải vượt qua kỳ thi USMLE 3 để có chứng nhận hoàn thành chương trình đào tạo. Tiếp đó, các bác sĩ này cần trải qua 2 năm hành nghề mới được nộp đơn có chứng chỉ hành nghề. Như vậy, từ khi vào trường y cho đến khi bác sĩ hành nghề cần trải qua ít nhất 5 kỳ thi độc lập để kiểm định chất lượng (không bao gồm các kỳ thi trong quá trình học đại học, học y và làm bác sĩ nội trú). Tại Việt Nam, tuyển sinh đầu vào ngành Y qua hình thức xét tuyển điểm của kỳ thi THPT quốc gia chung. Sau đó, các sinh viên học 6 năm và trở thành bác sĩ đa khoa. Hiện tại, Việt Nam chưa có một kỳ thi hành nghề quốc gia và chứng nhận chuyên khoa rõ ràng. Vì vậy, mở rộng đầu vào ngành Y là một trong nhưng nguy cơ dẫn đến sai lầm trong tương lai. Bên cạnh đó, việc xét tuyển sau khi kỳ thi THPT diễn ra khiến các sinh viên dù thi điểm cao nhưng
12 không có đam mê ngành Y vẫn có thể trúng tuyển. Chính điều đó làm tăng tỷ lệ sinh viên bỏ học hoặc chất lượng học không tốt. III.2. Tiêu cực và bệnh thành tích trong thi cử Tiêu cực và bệnh thành tích trong thi cử cũng là vấn đề cần xem xét trong quá trình hội nhập. Sự trung thực trong thi cử là hết sức cần thiết để đánh giá đúng năng lực và trình độ của các sinh viên. Có thể thấy vấn đề thi cử tại Việt Nam còn nhiều tiêu cực. Tiêu cực trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2018 ở một số địa phương tại Việt Nam đã gây ra cú sốc lớn trong toàn xã hội vì hành vi gian lận của những người được giao nhiệm vụ tổ chức, quản lí và giám sát kỳ thi. Vụ việc này đã đánh thẳng vào niềm tin của xã hội đối với nền giáo dục Việt Nam. Shahnaz Karim đã từng nói rằng “Không có một lĩnh vực công nào để nhằm cải thiện bộ máy hành chính và hạn chế các hiện tượng tham nhũng có thể đạt được kết quả đáng kể nếu tham nhũng trong giáo dục không bị loại bỏ vì giáo dục là lĩnh vực công lớn nhất thế giới về phương diện con người và nguồn tài chính”. Việc chạy đua theo thành tích cũng là vấn đề đáng quan tâm đến trong nền giáo dục đại học để có thể hội nhập quốc tế. Vào tháng 10/2020 vừa qua, sự việc gian lận bài báo khoa học của các ứng viên PGS và GS đã gây ra làn sóng mạnh mẽ trong xã hội. Điều đó cảng khiến xã hội thêm hoài nghi về chất lượng giáo dục của các trường Đại học ở Việt Nam. III.3. Mức độ cạnh tranh cao trong GDĐH Mức độ cạnh tranh cao trong GDĐH cũng là một thách thức trong quá trình hội nhập. Tại Việt Nam ngày càng có nhiều trường đại học được mở. Tại các tỉnh thành cũng có xu hướng mở các trường đại học. Cùng một ngành nhưng có thể có nhiều trường đào tạo tuy nhiên chất lượng là không như nhau. Với ngành dược, chỉ tính trong TP. HCM đã có rất nhiều trường đào tạo như Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Nguyễn Tất
13 Thành, Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Công Nghệ TP. HCM; tuy nhiên chất lượng đào tạo là không giống nhau, chương trình đào tạo là không đồng nhất. Chất lượng đầu vào cũng có sự khác biệt lớn. Chính điều này đã tạo ra sự lệch lạc trong giáo dục của các trường đại học, sinh viên không đủ năng lực trúng tuyển nhưng với chương trình thiết kế nhẹ nhàng vẫn có thể tốt nghiệp nhưng chất lượng đầu ra thấp. III.4. Cơ sở vật chất phục vụ cho GDĐH Cơ sở vật chất của nhiều trường đại học còn nghèo nàn, chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho dạy và học. Có thể nhìn thấy ở một số trường Đại học, phòng học không đạt chất lượng cho việc dạy và học. Hệ thống đèn thiết kế chưa đúng, không đủ ánh sáng. Máy chiều phục vụ cho giảng dạy khi có sự cố không được khắc phục kịp thời hay bàn ghế trong phòng học thiết kế không hợp lý cho thảo luận trao đổi nhóm. Cơ sở thực hành chưa đầy đủ các trang thiết bị để phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu khoa học. Cơ sở vật chất chưa đầy đủ, trường đại học sẽ không được công nhận đạt chuẩn và càng khó khẳng định mình trên trường quốc tế hơn trong quá trình hội nhập. Vì thế, sự thay đổi về cơ sở vật chất là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, để khắc phục được điều này thì cần có sự đầu tư về mặt kinh tế. III.5. Trình độ quản lí trong GDĐH Cách quản lí trong giáo dục hiện nay còn nhiều bất cập, chưa thực sự áp dụng công nghệ trong thời đại công nghệ 4.0. Hệ thống cập nhật điểm thi sinh viên ở một số trường đại học còn thủ công, tốn nhiều thời gian. Việc thông báo điểm thi chưa đến từng sinh viên bằng hệ thống thông tin điện tử mà còn hình thức bảng điểm đăng trên trang web, không có tính riêng tư.
14 Việc quản lí sinh viên học tại giảng đường còn nhiều lỏng lẻo, chưa thúc đẩy tinh thần học tập tự giác của sinh viên, các sinh viên có thể tự ý nghỉ học nếu giảng viên không giám sát, điểm danh. Đối với giảng viên, việc trả lương theo hình thức “công khai” cũng cho thấy cách quản lí chưa tốt. Số lượng sinh viên học tại một giảng đường đông nhưng giảng viên chỉ có một làm giảm hiệu quả học tập và giảng dạy. Bên cạnh đó việc thông tin đến cho sinh viên thông báo của nhà trường còn chậm trễ. Qua đó ta thấy các quản lí giáo dục còn lạc hậu chưa tốt. Khắc phục trong cách quản lí giáo dục là cần thiết cho hội nhập quốc tế. III.6. Thiếu CTĐT bằng tiếng Anh cho sinh viên quốc tế Số lượng sinh viên quốc tế đến học tập tại Việt Nam cũng tăng lên từ khoảng 600 sinh viên trong những năm 1998-2000 đến 2.053 sinh viên vào năm 2005. Tuy nhiên, phần lớn đến từ Lào và Campuchia, một số từ Hàn Quốc, Nhật và chủ yếu học tại khoa Việt Nam học. Điều này cho thấy số lượng CTĐT bằng tiếng Anh dành cho sinh viên quốc tế còn rất hạn chế. IV. Kết luận Chúng ta đã nói rằng toàn cầu hóa là cơ hội, là xu thế tất yếu. Trong bối cảnh đó một trong những cách ứng xử khôn ngoan nhất là phải chủ động. Chủ động lựa chọn những kinh nghiệm hay và phù hợp với thực tiễn của mình. Nhiều khi cái chúng ta cần bắt chước không phải là cái mà các nước tiên tiến đang làm mà là những kinh nghiệm của họ trong quá khứ, những kinh nghiệm để đi lên từ một nền giáo dục còn lạc hậu đến một nền giáo dục có đẳng cấp quốc tế. Đặc biệt chúng ta phải chủ động trong việc giữ gìn những giá trị đặc sắc của nền giáo dục dân tộc đã hình thành và phát triển hàng ngàn năm, từ đó giúp cho việc bồi dưỡng đạo đức và tâm hồn của thế hệ trẻ. Cần phải nhận thức một cách
15 sâu sắc rằng toàn cầu hóa trong kinh tế khác toàn cầu hóa trong văn hóa và giáo dục. Thế giới có thể “phẳng” về kinh tế và công nghệ nhưng không thể “phẳng” về văn hóa và giáo dục. Toàn cầu hóa mang lại những bức tranh đẹp về nền giáo dục hiện đại, tiên tiến của các nước, như một làn sóng tiến vào và làm thay đổi nền giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên việc học tập, bắt chước như thế nào nhất định phải dựa trên những điều kiện thực tế của Việt Nam. Trên sân chơi quốc tế chúng ta vừa phải nhập cuộc, vừa phải tỉnh táo biết mình là ai, để không thu mình lại nhưng cũng không bắt chước, rập khuôn một cách máy móc. Làm thế nào để tiếp nhận và lớn lên qua làn sóng toàn cầu hóa. Đó là thách thức đối với giáo dục Việt Nam, trước hết là với những người có trách nhiệm lãnh đạo, với các nhà quản lí giáo dục hiện nay. Để tồn tại trong thời đại toàn cầu hóa mỗi dân tộc cần phải có cái riêng của mình. Sự đa dạng về văn hóa và giáo dục không chỉ có lợi cho việc bảo vệ bản sắc của mỗi dân tộc mà còn quan trọng với toàn nhân loại: thế giới sẽ trở nên nhạt nhẽo biết chừng nào nếu tất cả chỉ có một màu, mọi thứ đều giống nhau. Để cải tiến và nâng cao chất lượng GDĐH trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, có nhiều việc cần phải làm bởi giáo dục liên quan trực tiếp đến nhân tố con người nên không thể vội vàng, mà phải tiến hành từng bước chắc chắn, bền vững; trong đó cần phải hết sức chú ý một số vấn đề như sau: - Tự chủ trong đào tạo nâng chuẩn đầu vào và đảm bảo chất lượng đầu ra. - Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học theo hướng tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế nhưng phải phù hợp với điều kiện nghiên cứu của Việt Nam. - Gắn chặt chẽ hơn nữa việc dạy và học của các trường đại học với cuộc sống, với thị trường lao động. - Nâng cao chất lượng về cơ sở hạ tầng, đội ngũ giảng viên, chương trình giảng dạy và các tiêu chuẩn đầu vào, đầu ra của sinh viên.
16 - Đặc biệt chú trọng đến nâng cao chuẩn ngoại ngữ và tin học cho cả đội ngũ giảng viên và sinh viên đại học.
17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc hội, “Luật Giáo dục năm 2019”, Số 43/2019/QH14, 2019. 2. Bộ GD và ĐT, “Số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2018-2019”, 2020. (https://moet.gov.vn) 3. Võ Thị Phiến, “Cơ hội và thách thức của giáo dục đại học Việt nam trong xu thế toàn cầu hóa”, Tạp chí Giáo dục, 57-60, 2017. 4. Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Thị Kim Ngân, “Thực trạng giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 2018. 5. Bùi Thị Nga, Lê Vũ Toàn, Lưu Đức Long, “Giáo dục đại học: Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi số”, Tạp chí Thông tin và Truyền thông, số 5 và 6, 2020. 6. Trần Thị Bảo Khanh, “Phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 (83), 2014. |