Bản chất hóa học của hdl huyết thanh năm 2024
Các lipit chính trong hệ tuần hoàn (cholesterol, triglycerid, phospholipid) có bản chất là các chất không tan trong máu. Để có thể lưu hành trong dòng tuần hoàn, các chất này phải được gắn với các protein có thể tan trong nước gọi là apolipoprotein (A1, A2, B, C, E…). Toàn bộ lipit + Apolipoprotein hình thành các nhóm lipoprotein. Có 4 loại lipoprotein chính với các thành phần lipit và protein được trình bày dưới đây:
Cholesterol là steroid chính trong cơ thể con người. Phân tử cholesterol bào gồm 4 vòng và 27 nguyên tử carbon. Cholesterol được sáp nhập chủ yểu trong các lipoprotein loại LDL, HDL và VLDL và ở một mức ít hơn trong các vi thể dưỡng chất (chylomicron). Thành phần các lipoprotein máu Cholesterol lưu hành trong tuần hoàn máu xuất xứ từ hai nguồn:
Tùy theo mức kinh tế của từng vùng, thức ăn cung cấp khoảng 50 mg đến 3g cholesterol mỗi ngày, chủ yếu dưới dạng este hóa. Khi đi qua tá tràng, cholesterol được thủy ngân nhờ lipase của tụy. (Cholesterol esterase) thành cholesterol + acid béo tự do rồi được các tế bào ruột hấp thu nhờ tác động của các acid mật. Trong các tế bào của ống tiêu hóa, cholesterol được nhập vào chylomicron và các ống VLDL ruột. Nhờ các lipoprotein, cholesterol được vận chuyển trong ống ngực rồi tới dòng tuần hoàn.
Nhiều mô (nhất là gan và ruột) tổng hợp cholesterol từ acetyl CoA. Tuy vậy, cholesterol sau khi hình thành sẽ được sáp nhập vào các VLDL để có thể được vận chuyển trong dòng tuần hoàn. Chức năng chính của cholesterol là được cơ thể sử dụng để sản xuất muối mật và một số hormon steroid, đồng thời nó cũng là một thành phần của màng tế bào. Trong máu, dưới tác động của lipase-lipoprotein (enzym được tế bào nội mạc mạch máu tổng hợp), các VLDL được chuyển dạng thành IDL (lipoprotein tỷ trọng trung gian = Intermediate Density Lipoprotein), rồi sau đó được chuyển thành LDL và HDL lipoprotein. Cholesterol được lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL lipoprotein) và các lipoprotein tỷ trọng cao (HDL lipoprotein) vận chuyển trong máu để tham gia vào 2 quá trình hoàn toàn khác biệt:
Như vậy, dường như LDL cholesterol có liên quan với quá trình gây xơ vữa động mạch (atherogene), trái lại HDL cholesterol lại có liên quang với quá trình dị hóa. Có rất nhiều nghiên cứu tập trung tìm hiểu vai trò của cholesterol trong bệnh tim mạch. Một nồng độ cholesterol máu tăng cao, nhất là khi kết hợp với nồng độ HDL cholesterol thấp được thấy là đi kèm với tăng nguy cơ cho cá thể bị xơ vữa động mạch và bệnh tim do xơ vữa động mạch. Tại các mô ngoại vi, cholesterol có thể:
Các con đường phản hủy chính đối với cholesterol bao gồm:
2. MỤC ĐÍCH VÀ CHỈ ĐỊNH XÉT NGHIỆM
3. CÁCH LẤY BỆNH PHẨM Xét nghiệm được tiến hành trên huyết thanh. Cần yêu cầu bệnh nhân nhịn ăn 12h trước khi lấy máu làm xét nghiệm. Bệnh nhân không được uống rượu trong vòng 24h trước khi lấy máu làm xét nghiệm. 4. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG
LDL cholesterol = Cholesterol toàn phần – (triglycerit/2,2 + HDL Cholesterol)
5. GIÁ TRỊ BÌNH THƯỜNG
6. TĂNG NỒNG ĐỘ CHOLESTEROL: Các nguyên nhân chính thường gặp 7. GIẢM NỒNG ĐỘ CHOLESTEROL: Các nguyên nhân chính thường gặp
8. CÁC YẾU TỐ GÓP PHẦN LÀM THAY ĐỔI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM Các thuốc có thể làm tăng nồng độ cholesterol máu là: Thuốc an thần kinh, thuốc chẹn bêta giao cảm, corticosteroid, disulfiram, lanzoprazol, levodopa, lithium, thuốc ngừa thai uống, pergolid, phenobarbital, phenytoin, testosteron, thuốc lợi tiểu nhóm thiazid, ticlopidin, venlafaxin. Các thuốc có thể làm giảm nồng độ cholesterol máu là: thuốc ức chế men chuyển angiotensin, allopurinol, androgen, thuốc làm giảm cholesterol máu, erythromcin, estrogen, filgrastim, levothyroxin, metformin, phenytoin, prazosin, tomoxifen, terazosin. |